Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận mác lenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.04 KB, 13 trang )

Trường Đại học Mở Hà Nội

TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

CHỦ ĐỀ 9: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cái riêng,
cái chung, cái đơn nhất? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa
cái riêng và cái chung? Rút ra ý nghĩa phương pháp luận của việc
nghiên cứu nguyên lý này

Họ và tên sinh viên:Phạm Lê Hoàng Hà
Mã sinh viên: 23A4601D0069
Lớp: 2346A02
Giáo viên hướng dẫn: TS. Bùi Thị Thủy

1


MỤC LỤC
Trang
I.

MỞ ĐẦU ...........................................................................................................
4

II.

NỘI DUNG
1. CÁC KHÁI NIỆM …………………………………………………………5
1.1 Khái niệm
1.2 Phân biệt giữa cái chung bản chất và cái chung không bản chất


2. QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI
RIÊNG………………………………………………………………………6
2.1 Phái duy thực
2.2 Phái duy danh
2.3 Phép biện chứng duy vật
3. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN…………………………………….10
III. KẾT LUẬN…..………………………………………………………….11

III. TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................12

2


MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của tri thức, địi hỏi mỗi con người
phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực; tu dưỡng và rèn luyện phẩm chất
đạo đức, ý thức lao động, ý thức cộng đồng, bảo vệ tài nguyên, môi trường… để
đáp ứng yêu cầu của sự biến đổi khoa hoc công nghệ cũng như sự biến đổi ngày
càng nhanh của xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Hiện nay, con người và nguồn nhân lực được coi là yếu tố quan trọng
hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước.
Chúng ta phải khẳng định rằng con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời những con người ấy phải có tri thức, có đạo
đức.
Đặt mỗi cá nhân vào mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội ta
lại càng thấy tầm quan trọng giữa mối liên hệ chung – riêng. Theo quan điểm
triết học Mác – Lê nin: “Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại được trong một khoảng
thời gian nhất định và khi nó mất đi sẽ khơng bao giờ xuất hiện lại, cái riêng là

cái không lặp lại.Cái chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi một cái riêng nào
đó mất đi thì những cái chung tồn tại ở cái riêng ấy sẽ khơng mất đi, mà nó vẫn
cịn tồn tại ở nhiều cái riêng khác.
”Để tìm hiểu một cách rõ ràng hơn về mối quan hệ biện chứng giữa cái
riêng, cái chung và cái đơn nhất cũng như áp dụng vào cuộc sống em chọn đề tài
“ Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận.

3


1. CÁC KHÁI NIỆM
1.1 Khái niệm
Thế giới vật chất xung quanh con người tồn tại bằng muôn vàn các sự vật, hiện
tượng rất khác nhau về màu sắc, trạng thái, tính chất, hình dáng, kích thước,…
nhưng đồng thời giữa chúng cũng có rất nhiều những đặc điểm, thuộc tính
chung giống nhau.
+ Cái riêng: là phạm trù triết học để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định. (Cái
riêng được hiểu như là một chỉnh thể độc lập với cái khác)
Ví dụ: bơng hoa, cái giường, hiện tượng biến đổi khí hậu,...
Sự tồn tại cá thể của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong các cấu trúc sự vật
khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là
một phạm trù triết học dung để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ
tồn tại ở một kết cấu vật chất nhất định và khơng lặp lại ở kết cấu vật chất khác.
Tính cách của một người, vân tay, nền văn hóa của một dân tộc,… là những cái
đơn nhất. Như vậy, cái đơn nhất không phải là một sự vật, một hiện tượng đơn
lẻ mà nó tồn tại trong cái riêng. Nó chỉ là đặc trưng của cái riêng.
+ Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
khơng những có ở một sự vật, một hiện tượng, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật,
hiện tượng khác. Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp

lại.
Ví dụ : Cái chung của người miền Bắc là có tính tiết kiệm làm 10 ăn 3 ăn 4, cái
chung của người Việt Nam là tinh thần đoàn kết dân tộc, sẵn sàng hi sinh tất cả
để bảo vệ nền độc lập của nước nhà.
+ Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm vốn có ở
một sự vật, hiện tượng mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác.
Ví dụ: Đều là người nhưng mỗi người có một tính cách riêng. Ví dụ có người
hiền lành nhưng cũng có người ghê gơm, có người tốt bụng nhưng cũng có
người tham lam.Đó chính là đặc điểm riêng – “cái đơn nhất” của nó.

4


1.2 Phân biệt giữa cái chung bản chất và cái chung không bản chất:
+ Cái chung không bản chất là cái chung thường do sự ngẫu hợp mà có. Chẳng
hạn cái chung bản chất với phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật là vật chất
luôn vận động. Như vậy, tính lặp lại là đặc trưng của của cái chung. Tính chất
này cho thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều quá trình vật
chất khác nhau. Nó cho ta một cách nhìn sự vật trong mối liên hệ qua lại, gắn
liền với nhau.
Ví dụ : Cuộc cách mạng là cái chung, đó là sự thay đổi từ cái này sang cái khác
tiến bộ hơn. Nhưng trong các cuộc cách mạng thì có nhiều loại (cách mạng tư
sản, cách mạng dân tộc dân chủ),đó là những cái riêng.
+ Còn cái chung bản chất lại là cái chung giống nhau của rất nhiều sự vật hiện
tượng mang tính cơ bản là đặc trưng để nhận dạng một sự vật hiện tượng nào đó.
Ví dụ: Cái chung của các loại cây là q trình quang hợp, hơ hấp, trao đổi chất
với môi trường xung quanh. Nếu một cái cây nào mà khơng có những đặc điểm
đấy sao con gọi là cây nữa. Hay như ở con người cái chung bản chất chính là
tình cảm, mối quan hệ với gia đình, xã hội.


2. Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng :
Những nhà nghiên cứu triết học MácLenin đề cập đến có hai quan điểm trái
ngược nhau về mối quan hệ giữa "cái riêng" và "cái chung", đó là phái duy thực
và phát duy danh. Triết học MácLenin cho rằng, cả quan niệm của phái duy thực
và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt
đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại
khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng.
2.1 Phái duy thực
Phái duy thực là trường phái triết học có ý kiến về mối quan hệ giữa "cái
chung" và "cái riêng", theo phái này thì "cái riêng" chỉ tồn tại tạm thời, thống
qua, khơng phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có "cái chung" mới tồn tại vĩnh viễn,
5


thật sự độc lập với ý thức của con người. "Cái chung" khơng phụ thuộc vào "cái
riêng", mà cịn sinh ra "cái riêng". Cái chung là những ý niệm tồn tại vĩnh viễn
bên cạnh những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời, cái riêng do cái chung sinh
ra.
Ví dụ: Con người là một khái niệm chung và chỉ có khái niệm con người mới
tồn tại mãi mãi, còn những con người cụ thể là khái niệm tạm thời vì những con
người cụ thể (cá nhân) này có thể mất đi (chết đi)
2.2 Phái duy danh
Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, cịn cái chung là những
tên gọi trống rỗng, do con người đặt ra, khơng phản ánh cái gì trong hiện thực.
Quan điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của các khái niệm. Những
khái niệm cụ thể đơi khi khơng có ý nghĩa gì trong cuộc sống của con người, chỉ
là những từ trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm hiểu. Ranh giới giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhịa và con người khơng cần
phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học nữa.
Ví dụ: Khơng thể nhận thấy, nắm bắt một "con người" chung chung mà "con

người" chỉ có thể được nhận thấy, nắm bắt qua những con người thực thể cụ thể,
thông qua các cá nhân cụ thể.
Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhịa và
con người khơng cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết
học.
Cả hai quan điểm của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã
tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung
hoặc ngược lại. Họ không thấy được sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng
khít giữa chúng.
2.3 Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật của Triết học MarxLenin cho rằng cái riêng, cái
chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ
với nhau; phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
6


q trình riêng lẻ nhất định, cịn phạm trù cái chung được dùng để chỉ những
mặt, những thuộc tính chung khơng những có ở một kết cấu vật chất nhất định,
mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lênin đã viết rằng:
“Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại
trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng] là cái chung.
Bất cứ cái chung nào cũng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất]
của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả
mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái
chung”
_Lênin_
Cụ thể là:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là khơng có cái chung thuần túy tồn tại bên

ngồi cái riêng.
Chẳng hạn, khơng có sinh viên nói chung nào tồn tại bên cạnh sinh viên ngành
kinh tế đầu tư, sinh viên ngành kinh tế phát triển… nào cũng phải đến trường
học tập, nghiên cứu, thi cử theo nội quy nhà trường. Những đặc tính chung này
lặp lại ở những sinh viên riêng lẻ và được phản ánh trong khái niệm “sinh viên”.
Hay như quy luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung,
khơng thế thì khơng phải là nhà tư bản, nhưng quy luật đó được thể hiện ra
ngồi dưới những biểu hiện của các nhà tư bản (cái riêng). Rõ ràng, cái chung
tồn tại thực sự nhưng khơng tồn tại ngồi cái riêng mà phải thông qua cái riêng
để biểu thị sự tồn tại của mình.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là khơng
có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, khơng có liên hệ với cái chung.
Ví dụ, mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể tồn tại ngoài
mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác động
7


của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong
mỗi con người. Một ví dụ khác, nền kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc với tất cả
những đặc điểm phong phú của nó là một cái riêng. Nhưng nền kinh tế nào cũng
bị chi phối bởi quy luật cung cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, đó là cái chung. Như vậy, sự vật hiện tượng
nào cũng bao hàm cái chung.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ
phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì ngồi
những đặc điểm chung, cái riêng cịn có đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái
riêng, vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất
nhiên, lặp lại nhiều cái riêng cùng loại.
Do vậy, cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn
tại và phát triển của cái riêng. Cái riêng là sự kết hợp giữa cái chung và cái đơn

nhất. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật, cịn
cái riêng là cái tồn bộ vì nó là tập thể sống động, trong mỗi cái riêng luôn tồn
tại đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất.
Nhờ thế, giữa những cái riêng ln có sự tách biệt, vừa có thể tác động qua lại
lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau, sự “va chạm” giữa những cái riêng vừa làm cho
những sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm cho sự vật tách xa bởi cái
đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa những cái riêng mà cái chung có thể
được phát hiện…
Ví dụ, người nơng dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước
trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nơng nghiệp, sống ở nơng thơn… Cịn
đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của văn hóa làng xã, của các tập quán lâu đời
của dân tộc, của điều kiện tự nhiên, của đất nước, nên rất cần cù lao động, có
khả năng chịu đựng được những khó khăn trong cuộc sống.
Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong q trình
phát triển của sự vật. Sở dĩ như vậy vì trong hiện thực cái mới không bao giờ
xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo
8


quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ trở thành cái chung, cái phổ
biến.
Ngược lại, cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến nhưng về sau do không
phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự
chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện cái mới ra đời thay thế
cái cũ. Đồng thời sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của
quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định, bị thay thế bằng cái mới.
Ví dụ, sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi
của môi trường diễn ra bằng cách ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một cá thể
riêng biệt. Do phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn, duy trì ở
nhiều thế hệ và trở thành phổ biến của nhiều cá thể. Những đặc tính khơng phù

hợp với điều kiện mới sẽ mất dần đi và trở thành cái đơn nhất.
Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính
tương đối. Có những đặc điểm xét trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất nhưng
xét trong nhóm sự vật khác lại là cái chung.
Ví dụ: quy luật cung cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường nhưng
trong tồn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó chỉ là cái đơn nhất, đặc
trưng cho nền kinh tế thị trường, nhưng trong tồn bộ các hình thức kinh tế trong
lịch sử, nó chỉ là cái đơn nhất, đặc trưng cho nền kinh tế thị trường mà không
thể là đặc điểm chung cho mọi hình thức khác như kinh tế tự cung tự cấp.
Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong những điều kiện
nhất định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại, cái chung có
thể biến thành cái đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo
điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và
cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
Nói chung việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng không
hề đơn giản, Lênin đã cho rằng:
“Con người bị rối lên chính là ở trong phép biện chứng của cái riêng và cái
chung”
9


_ Lênin _

3. Ý nghĩa phương pháp luận.
Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng,
Triết học MácLênin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan hệ
này để ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:
Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự
vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con
người bên ngồi cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái

riêng để biểu thị sự tồn tại của mình.

10


KẾT LUẬN
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng,
mộtquá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Cái chung là
mộtphạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt, những mốiliên
hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng. Cái chung thường chứađựng ở trong
nó tính qui luật, sự lặp lại. Giữa cái riêng và cái chung lncó mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ với nhau. Cái chung tồn tại bên trong cáiriêng, thông qua cái riêng
để thể hiện sự tồn tại của mình; cịn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến
cái chung. Với vai trò là một cái riêng, mỗi8 một cá nhân hãy biết hịa mình với
cộng đồng, cống hiến hết mình cho giađình, nhà trường và xã hội. Áp dụng một
cách nhuần nhuyễn, hợp lý triếthọc học tập, nghiên cứu để mang lại một hiệu
quả tốt nhất. Tất cả là bởi vì: “Học phải đi đơi với hành, giáo dục phải gắn liền
với thực tiễn.

11


12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình triết học Mác - Lê-nin
2.Cái chung là gì? Cái riêng là gì? Cái đơn nhất là gì?
/>3.Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng />4.Ý nghĩa phương pháp luận />
13




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×