BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP NHĨM
MƠN: TƯ PHÁP NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN
Đề 3: “Phân tích nguy cơ xâm hại người chưa thành niên tại mơi trường gia
đình. Đánh giá được thực trạng xâm hại người chưa thành niên từ mơi
trường gia đình ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các kiến nghị nhằm hạn chế
tình trạng trên”
NHÓM: 02
LỚP: N03.TL1
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ
THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM
Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhóm số: 02
Lớp: N03.TL1
Ngành: Luật học
Khố: 45
Tổng số sinh viên của nhóm: 11
Tên bài tập: Bài tập nhóm, mơn học: Tư pháp người chưa thành niên
Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc
thực hiện bài tập nhóm 03 với kết quả như sau:
Mã số
sinh
viên
Cơng việc thực hiện
Tiến độ thực
hiện
Thành
viên
Tốt
Khơn
g tốt
Mức độ hồn thành
cơng việc
Khơn
g tốt
Trung
bình
Kết
luận
,
xếp
loại
Tốt
Tìm kiếm thơng tin
và hồn thiện phần
2.3
X
X
A
Tơ Ngọc
Diệp
Tìm kiếm thơng tin
và hồn thiện phần
2.4
X
X
A
Phạm Thị
450936
Mai
Hương
Tìm kiếm thơng tin
và hồn thiện phần
3.1, 3.3
X
X
A
Trần
Linh Chi
Tìm kiếm thơng tin
và hồn thiện phần
3.2, 3.3
X
X
A
451004
Bùi Thị
Thanh
Tâm
Tìm kiếm thơng tin
và hồn thiện phần 4
X
X
A
451209
Hồ Cẩm
Nhung
Tìm kiếm thơng tin
và hồn thiện phần 4
X
X
A
Ngơ
Tìm kiếm thơng tin
X
X
A
Nguyễn
450930
450934
450937
Đức Du
1
451304
451306
451307
451313
451315
Minh
Trang
và hồn thiện phần
1.2
Bùi
Quỳnh
Trang
Tìm kiếm thơng tin
và hồn thiện phần
2.2
X
X
A
Vi Như
Quỳnh
Tìm kiếm thơng tin
và hồn thiện phần
2.1
X
X
A
Vũ Minh
Huyền
Tìm kiếm thơng tin
và hồn thiện phần
1.1
X
X
A
Lê Thành
Long
Tổng hợp thơng tin,
chỉnh sửa và hoàn
thiện bài làm
X
X
A
Kết quả điểm bài viết:
Hà Nội, ngày 06 tháng 09 năm 2023
NHÓM TRƯỞNG
Lê Thành Long
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................4
2
NỘI DUNG..........................................................................................................4
1. Lý luận chung về nguy cơ xâm hại người chưa thành niên.....................4
1.1. Khái niệm nguy cơ xâm hại người chưa thành niên..........................4
1.2. Phân loại các nhóm nguy cơ xâm hại người chưa thành niên...........5
2. Phân tích nguy cơ xâm hại người chưa thành niên tại mơi trường gia
đình...................................................................................................................7
2.1. Biểu hiện của các hành vi mang tính chất nguy cơ xâm hại người
chưa thành niên từ môi trường gia đình....................................................7
2.2. Nguyên nhân xâm hại người chưa thành niên tại mơi trường gia
đình................................................................................................................7
2.3. Hậu quả xâm hại người chưa thành niên tại mơi trường gia đình.. .9
2.4. Tầm quan trọng của việc phòng chống xâm hại người chưa thành
niên tại mơi trường gia đình......................................................................10
3. Thực trạng xâm hại người chưa thành niên từ mơi trường gia đình ở
Việt Nam hiện nay.........................................................................................10
3.1. Thực trạng nguy cơ xâm hại người chưa thành niên từ gia đình ở
Việt Nam hiện nay......................................................................................10
3.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ người chưa thành niên trước nguy cơ
bị xâm hại từ gia đình................................................................................12
3.3. Đánh giá chung....................................................................................14
4. Kiến nghị các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng xâm hại người chưa
thành niên tại mơi trường gia đình..............................................................15
KẾT LUẬN........................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................18
3
MỞ ĐẦU
Hiện nay tình trạng xâm hại người chưa thành niên tại mơi trường gia đình
đang có nhiều dấu hiệu xấu với cách thức nghiêm trọng và số lượng vụ án tăng
cao tại đất nước ta. Đây là một vấn đề rất cần xã hội nói chung và nhà nước ta
nói riêng cần chú trọng, đưa ra những biện pháp kịp thời. Vậy nên để làm rõ
ràng hơn vấn đề đang rất cấp bách này chúng em xin đi vào phân tích nguy cơ
xâm hại người chưa thành niên tại mơi trường gia đình. Đánh giá được thực
trạng xâm hại người chưa thành niên từ mơi trường gia đình ở Việt Nam hiện
nay và đề xuất các kiến nghị nhằm hạn chế tình trạng trên. Trong khi làm bài,
kiến thức của chúng em cịn hạn hẹp và thiếu sót mong thầy, cơ thơng cảm,
chúng em xin nhận mọi đóng góp để bài làm hoàn thiện hơn.
NỘI DUNG
1. Lý luận chung về nguy cơ xâm hại người chưa thành niên
1.1. Khái niệm nguy cơ xâm hại người chưa thành niên
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm xâm hại
Từ điển tiếng Việt giải thích “xâm hại” là việc xâm phạm đến khiến cho bị
tổn hại. Hiện nay, pháp luật quốc gia và chuẩn mực pháp lý quốc tế chưa có quy
định về định nghĩa thuật ngữ “xâm hại người chưa thành niên” mà tồn tại dưới
quy định về “xâm hại trẻ em”. Điều 37 Hiến pháp 2013 nêu rõ các hành vi xâm
hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ bê, lạm dụng, bóc lột sức lao động hay các hành vi
khác xâm hại đến quyền trẻ em đều bị nghiêm cấm. Theo định nghĩa của Liên
Hợp Quốc: Xâm hại trẻ em hay ngược đãi là tất cả các hình thức đối xử tồi tệ về
mặt tình cảm hay thể chất, xâm hại tình dục hay các mục đích khác gây ra tổn
hại thực tế hay tiềm ẩn đối với sự phát triển, sự sống còn, sức khỏe hay nhân
phẩm của trẻ khi xét về trách nhiệm, lòng tin hay quyền hành 1,… Còn theo quy
định của Luật Trẻ em năm 2016 của nước ta: Xâm hại trẻ em là hành vi gây tổn
hại về thể chất, tình cảm, tâm lý, danh dự, nhân phẩm của trẻ em dưới các hình
thức bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và các
hình thức gây tổn hại khác 1. Luật Trẻ em 2016 cũng quy định rõ 15 hành vi
xâm hại tới trẻ em bị nghiêm cấm 2, trong đó có bạo lực, bóc lột, mua bán, xâm
hại tình dục và hành vi hỗ trợ, xúi dục, bắt ép trẻ tảo hôn.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của người chưa thành niên
Người chưa thành niên được coi là người chưa trưởng thành đầy đủ cả về thể
chất lẫn tinh thần. Khái niệm của thuật ngữ “người chưa thành niên” được tiếp
cận từ hai góc độ là chuẩn mực pháp lý quốc tế và pháp luật quốc gia.
Trong pháp luật quốc tế, Công ước về Quyền trẻ em năm 1989 quy định: “Trẻ
em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể
được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Hay theo Các
quy tắc Bắc Kinh ban hành theo Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số
1
2
Khoản 5 Điều 4 Luật trẻ em 2016
Điều 6 Luật trẻ em 2016
4
40/33 ngày 29/11/2985, người chưa thành niên được hiểu là một trẻ em hoặc
một thanh thiếu niên, việc xử lý về một hành vi vi phạm pháp luật sẽ theo
những hệ thống pháp luật tương ứng và theo phương thức khác với người
trưởng thành (Quy tắc 2.2 (a)).
Qua những phân tích trên, có thể thấy khái niệm người chưa thành niên được
hiểu rộng hơn khái niệm trẻ em ở khía cạnh độ tuổi. Trẻ em là những người
dưới 16 tuổi trong khi khái niệm người chưa thành niên được sử dụng để chỉ
những người dưới 18 tuổi cho dù họ tham gia vào các quan hệ pháp luật dưới tư
cách, vai trò nào. Như vậy, người chưa thành niên được hiểu là người dưới 18
tuổi.
1.1.3. Khái niệm nguy cơ xâm hại người chưa thành niên
Nguy cơ xâm hại người chưa thành niên được hiểu là những yếu tố tiềm ẩn
khả năng dẫn đến tình trạng xâm hại người chưa thành niên ở mọi hình thức.
Những yếu tố này hiện diện trong mọi môi trường sống của người chưa thành
niên như: mơi trường gia đình, mơi trường học đồng hay từ cộng đồng, xã hội.
Thậm chí cơng nghệ thơng tin (thời đại công nghệ 4.0), thiết kỹ kỹ thuật số
thông minh cũng đặt người chưa thành niên vào tình trạng nhiều nguy cơ xâm
hại khác nhau từ môi trường internet ... Tuy nhiên, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi
của người chưa thành niên, thêm vào đó là lối suy nghĩ có phần cổ hủ từ người
lớn nên các vụ việc người chưa thành niên bị xâm hại thường bị che giấu.
1.2. Phân loại các nhóm nguy cơ xâm hại người chưa thành niên
Các nguy cơ xâm hại người chưa thành niên gồm 4 nhóm, cụ thể:
Nguy cơ xâm hại người chưa thành niên từ mơi trường gia đình:
Người chưa thành niên là đối tượng có nguy cơ gánh chịu nhiều hành vi xâm
hại với tính chất bạo lực từ mơi trường gia đình đã được pháp luật xác định tại
Điều 2 Luật Phịng, chống bạo lực gia đình năm 2017. Trong đó, các hành vi
bạo lực thân thể do cha mẹ gây nên là hành vi xâm hai dạng bạo lực thường
xuyên xảy ra nhất, bao gồm cả bạo lực về thể chất và tinh thần. Người chưa
thành niên, đặc biệt là các trẻ em gái, có thể bị lạm dụng tình dục từ thành viên
trong gia đình hoặc họ hàng. Hành vi xâm hại đối với người chưa thành niên có
thể được thực hiện bởi chính những người thân thích hoặc bởi những người mà
xã hội và pháp luật đặt lên vai họ trách nhiệm giáo dục, đào tạo đối với thế hệ
trẻ. Mơi trường gia đình trong trường hợp này thường có các đặc điểm: bố mẹ
thu nhập khơng ổn định, bất hịa, thiếu vắng cha hoặc mẹ và nghèo đói...
Nguy cơ xâm hại người chưa thành niên từ môi trường học đường
Trong trường hợp này, một số yếu tố nguy cơ phổ biến đáng được lưu tâm,
như: Trong mơi trường trường học có nhiều trẻ em thường xuyên chứng kiến
bạo lực hoặc là nạn nhân bạo lực; thầy giáo, cô giáo chưa thực sự là những
người được học sinh kính trọng; chương trình giáo dục thiếu tồn diện, trẻ em
không được trang bị các kiến thức về kỹ năng sống. Thêm vào đó, có thể hình
5
thức kỷ luật được áp dụng trong nhà trường không phù hợp cũng là một trong
những yếu tố nguy cơ dẫn đến bạo lực trường học...
Nguy cơ xâm hại người chưa thành niên từ xã hội, cộng đồng
Hành vi xâm hại người chưa thành niên trong cộng đồng tồn tại phổ biến dưới
tất cả các hình thức xâm hại người chưa thành niên, bao gồm: xâm hại về thể
chất, xâm hại tinh thần, xâm hại tình dục và khơng loại trừ cả hình thức xao
nhãng của các tổ chức có trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo vệ người
chưa thành niên, hoặc có trách nhiệm giáo dưỡng người chưa thành niên vi
phạm pháp luật. Các hành vi xâm hại người chưa thành niên này sinh từ các
nguy cơ trên trong xã hội và cộng đồng có thể kể đến các hành vi phổ biến, như:
đánh đập gây thương tích, bóc lột tình dục, bóc lột lao động hoặc sử dụng người
chưa thành niên với mục đích bn bán người. Bóc lột người chưa thành niên
cũng bao gồm hoạt động tuyển mộ và sử dụng người chưa thành niên trong các
băng nhóm tội phạm tổ chức cực đoan, mua bán nội tạng của người chưa thành
niên. Những hành vi bạo lực này đều gây hại đến sức khỏe thể chất và tinh thần,
sự phát triển về nhân cách, đạo đức và tâm lý của người chưa thành niên.
Nguy cơ xâm hại người chưa thành niên trong quá trình tố tụng hoặc xử lý
vi phạm hành chính
Một, nguy cơ từ phía người tiến hành tố tụng: không tôn trọng nguyên tắc về
cách tiếp cận nhạy cảm đối với trẻ em và nhạy cảm đối với sang chấn, không
tôn trọng hoạt động điều tra thân thiện đối với người chưa thành niên; không
hiểu biết tâm lý người chưa thành niên hoặc hệ lụy của sang chấn tâm lý đối với
người chưa thành niên; coi thường hoặc không tôn trọng người chưa thành niên,
bức cung, mớm cung không bảo đảm các quyền của trẻ em về các hỗ trợ pháp lý
và các biện pháp hỗ trợ khác.
Hai, nguy cơ từ phía người chưa thành niên: là nhân chứng, là nạn nhân, là
người vi phạm pháp luật, chủ yếu là người chưa thành niên dễ bị sợ sệt, khơng
hiểu biết về quy trình tố tụng quyền của bản thân, bất hợp tác; tâm lý khơng ổn
định hoặc khơng có khả năng nhận hỗ trợ pháp lý hoặc hỗ trợ khác.
Ba, nguy cơ từ hệ thống pháp luật: pháp luật tố tụng nói chung đã có quy định
riêng về quy trình tố tụng đối với người chưa thành niên hay quy trình riêng về
xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Tuy
nhiên, chưa thực sự đủ và một số quy định cịn chưa rõ ràng.
2. Phân tích nguy cơ xâm hại người chưa thành niên tại môi trường gia
đình.
6
2.1. Biểu hiện của các hành vi mang tính chất nguy cơ xâm hại người chưa
thành niên từ môi trường gia đình
Hành vi bạo lực mang tính chất xâm hại mà người chưa thành niên phải gánh
chịu từ môi trường gia đình có các hành vi bạo lực thân thể do cha mẹ gây nên
là hành vi xâm hại dạng bạo lực thường xuyên xảy ra nhất, bao gồm cả bạo lực
về thể chất và tinh thần. Người chưa thành niên, đặc biệt là các trẻ em gái, có
thể bị lạm dụng tinh dục từ thành viên trong gia đình hoặc họ hàng. Hành vi
xâm hại người chưa thành niên xuất hiện trong mơi trường gia đình được hiểu là
hành vi của các thành viên có mối liên hệ trong cơ cấu gia đình, gây tổn hại
hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên
khác trong gia đình. Hành vi xâm hại đối với người chưa thành niên có thể được
thực hiện bởi chính thích hoặc bởi những người mà xã hội và pháp luật nhiệm
giáo dục, đào tạo đối với thế hệ trẻ.3
2.2. Nguyên nhân xâm hại người chưa thành niên tại mơi trường gia đình.
2.2.1. Yếu tố bản thân người chưa thành niên
Ở độ tuổi của mình, người chưa thành niên chưa có đủ nhận thức và hiểu biết
về quyền và lợi ích của mình, chưa có đủ khả năng đứng lên nói ra tiếng nói của
mình khi gặp tình huống bị xâm hại tại mơi trường gia đình. Vì vậy, trẻ em là
đối tượng có nguy cơ gánh chịu nhiều hành vi xâm hại với tính chất bạo lực từ
mơi trường gia đình. Mơi trường gia đình cịn tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến
xâm hại người chưa thành niên như: cha mẹ bị cuốn vào tệ nạn xã hội, nghiện
hút, cờ bạc, rượu chè; cha mẹ mâu thuẫn hoặc ly hơn, lối sống ích kỷ, thiếu
trách nhiệm với con cái.
2.2.2. Yếu tố gia đình
Nhận thức về bảo vệ người chưa thành niên còn hạn chế: thể hiện ở khía cạnh
thiếu hiểu biết về luật pháp, về các hành vi vi phạm quyền trẻ em, dẫn đến tình
trạng người thân trong gia đình xâm hại tình dục, bạo lực trẻ em (khoảng 50%
tổng số vụ vi phạm) và các thành viên khác trong xã hội phạm tội nghiêm trọng
đối với trẻ em đến mức phải xử lý hình sự. Về quan điểm giáo dục ở mỗi môi
trường gia đình có sự khác nhau, đặc biệt là quan điểm giáo dục hà khắc, mong
muốn duy trì quan hệ thứ bậc trên, dưới giữa các thứ bậc trong gia đình. Còn
nhiều quan điểm phong kiến, lạc hậu mặc định những điều mình làm đúng khiến
cho trẻ em chịu nhiều đả kích và tổn hại về thể chất lẫn tinh thần. Ngồi ra, tình
trạng nhiều gia đình có hồn cảnh kinh tế khó khăn; cha mẹ ly hơn, ly thân; cha
mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật, cha mẹ mâu thuẫn hoặc ly hơn, lối
sống ích kỷ, thiếu trách nhiệm với con cái… cũng là nguyên nhân dẫn đến việc
người chưa thành niên có nguy cơ bị xâm hại.
3
Giáo trình Tư pháp đối với người chưa thành niên/Trường Đại học Luật Hà Nội.
7
2.2.3. Yếu tố xã hội
Có thể thấy, pháp luật chưa đủ mạnh, chưa đủ răn đe những người có hành vi
bạo lực, như Điều 110 BLHS Việt Nam có quy định: ″…Người nào đối xử tàn
ác với đối tượng là trẻ em lệ thuộc mình thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ từ 1 năm đến 3 năm…″. Mức án như vậy là quá nhẹ, chưa đủ mạnh
đối với người có hành vi xâm hại đến người chưa thành niên. Pháp luật về bảo
vệ trẻ em còn nhiều khoảng trống, chưa có quy định cụ thể về bảo vệ trẻ em là
nạn nhân, nhân chứng; chưa có quy định đặc biệt trong trường hợp nhận tố giác
từ trẻ em. Ngồi ra, do nhận thức của các gia đình về vấn đề bảo vệ người chưa
thành niên chưa đầy đủ và phần nào đó cịn bị xem nhẹ, nhiều thói quen, phong
tục, tập qn như văn hố ″Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” bấy
lâu nay khiến cho người ta coi chuyện đánh con là “bình thường” đó là quyền
của cha mẹ phải dạy cho con nên người. Đây là một lối giáo dục có thể tạo nên
những người trưởng thành chỉ biết phục tùng thụ động, thiếu bản lĩnh và tư duy
sáng tạo.
2.3. Hậu quả xâm hại người chưa thành niên tại môi trường gia đình.
Các hành vi xâm hại người chưa thành niên dù bất kỳ hình thức nào cũng đều
để lại hậu quả nặng nề, nghiêm trọng, lâu dài về thể chất, tinh thần đối với
người chưa thành niên đặc biệt là việc xâm hại diễn ra tại mơi trường gia đình.
Hệ quả của xâm hại người chưa thành niên luôn rất nặng nề, dai dẳng; đặc biệt
là xâm hại tình dục gây tổn thương nặng nề đến thể chất, tinh thần và hành vi
của người chưa thành niên, thậm chí làm người chưa thành niên bị tử vong hoặc
khiến người chưa thành niên bị trầm cảm, tự tử, hoặc tự gây tổn thương cho bản
thân. Đây sẽ là nỗi ám ảnh dai dẳng trong suốt cuộc đời và cịn có thể là nguyên
nhân khi các nạn nhân lại trở thành hung thủ gây ra các vụ bạo hành hay xâm
hại sau này đối với người khác.
Về thể chất: Những người chưa thành niên khi bị xâm hại không chỉ mang
những vết sẹo, những di chứng trên cơ thể suốt đời mà người chưa thành niên
còn rất dễ bị lây các bệnh qua đường tình dục như lậu, giang mai, HIV/AIDS ...
hay thậm chí là mang thai ở các em nữ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng sinh sản, mang thai của người chưa thành niên sau này do cơ thể của
người chưa thành niên lúc này chưa phát triển hoàn chỉnh.
Về tâm lý: Từ một số tài liệu bệnh nhân cho thấy nhiều trẻ chưa thành niên
sau khi bị xâm hại thường có sự hoảng loạn và xuất hiện các bệnh lý ảo giác
như ln bất an, giật mình, tưởng tượng ra hình ảnh kẻ xâm phạm, ... Đặc biệt
việc xâm hại này tại mơi trường gia đình, do đó điều này làm cho người chưa
thành niên bị hoảng loạn tinh thần, không tin tưởng vào người khác và môi
trường xung quanh. Người chưa thành niên thường buồn rầu, chán nản và tự đổ
lỗi, khơng cịn u thương q trọng bản thân. Trong một số trường hợp, do bị
8
sốc về tinh thần sau khi bị xâm hại và tâm lý xấu hổ, sợ phải đối mặt với mọi
người xung quanh niên một số nạn nhân bị xâm hại thường suy nghĩ tự tử để
chấm dứt những đau đớn phải chịu.
2.4. Tầm quan trọng của việc phòng chống xâm hại người chưa thành niên
tại mơi trường gia đình.
Vấn đề bảo vệ, chăm sóc người chưa thành niên được Việt Nam rất chú trọng.
Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới kí và phê chuẩn Cơng ước của Liên hợp
quốc về Quyền Trẻ em. Sau Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em năm 1990, Hội
đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định
Chương trình hành động vì sự sống cịn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ
em Việt Nam từ năm 1991 đến 2000, đặt thành một bộ phận của chiến lược, kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Cùng với đó Việt Nam đã và đang
hồn thiện các chính sách pháp luật về tư pháp đối với người chưa thành niên.
Vì vậy, việc phịng chống xâm hại người chưa thành niên tại mơi trường gia
đình đóng một vai trị quan trọng trong việc bảo vệ sự phát triển mọi mặt về tâm
sinh lý của người chưa thành niên. Đồng thời, việc phòng chống xâm hại người
chưa thành niên tại mơi trường gia đình cũng là một trong những vấn đề quan
trọng mà Việt Nam đang hướng tới.
3. Thực trạng xâm hại người chưa thành niên từ mơi trường gia đình ở
Việt Nam hiện nay.
3.1. Thực trạng nguy cơ xâm hại người chưa thành niên từ gia đình ở Việt
Nam hiện nay.
Theo thống kê từ Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111, trong 6 tháng đầu năm
2021, Tổng đài đã tiếp nhận 171.019 cuộc gọi đến, trong đó có 706 ca phải hỗ
trợ, can thiệp (tăng 299 ca so với cùng kỳ năm trước). Trong các ca hỗ trợ, can
thiệp cho trẻ em, có 362 ca bạo lực trẻ em, chiếm 51,27% (cao hơn cùng kỳ năm
2020 là 167 ca, tương đương 3,36%); 122 ca xâm hại tình dục trẻ em, chiếm
17,28% (tăng hơn cùng kỳ năm trước 13 ca). Trong đó, tỷ lệ trẻ em bị bạo lực
trong gia đình tăng 3% so với cùng kỳ năm 2020, đây là điều đáng báo động về
phương pháp giáo dục của cha mẹ, người chăm sóc đối với trẻ em. Đối với các
ca bị xâm hại tình dục, có 71 ca hiếp dâm trẻ em, chiếm 58,2% (tăng 16 ca so
với cùng kỳ 2020), 51 ca dâm ô trẻ em, chiếm 25,4% (tăng 21 ca so với cùng kỳ
năm 2020). Tỷ lệ trẻ em bị xâm hại tình dục bởi người thân trong gia đình vẫn
tương đối cao, chiếm 23,8% (tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2020).4
Theo số liệu của Bộ Công an, trong 02 năm 2021-2022, trên toàn quốc đã
phát hiện đã phát hiện 3.748 vụ xâm hại trẻ em, với 4.354 đối tượng, xâm hại
3.907 trẻ em.5 Bên cạnh đó, theo số liệu mới nhất của Bộ Công an, Quý I/2023
phát hiện 577 vụ, 752 đối tượng, xâm hại 608 trẻ em.
/> />4
5
9
3.1.1. Xâm hại về thể chất
Trong loại xâm hại này, các hành vi bạo lực thân thể do cha mẹ gây nên là
hành vi xâm hại dạng bạo lực thường xuyên xảy ra nhất. Trong năm 2021, theo
số liệu từ Tổng đài 111, trẻ em bị bạo lực bởi người thân trong gia đình chiếm
tỷ lệ cao nhất, chiếm 72,84% tăng 5,3% so với năm 2020.
Trẻ em, người chưa thành niên bị bạo hành thường ngay trong gia đình, nơi
vốn được coi là an toàn đối với các em. Và chính người thân, bố, mẹ, bố dượng,
mẹ kế là những người bạo hành đối với trẻ em trong gia đình, thậm chí có
những trường hợp thương tật hoặc tử vong. Thống kê của Bộ Công an cũng cho
thấy 97% vụ việc bạo lực do chính bố mẹ, cha dượng, mẹ kế, người thân của
các em gây ra. Nạn bạo hành đối với trẻ em chỉ có thể bị đẩy lùi khi cộng đồng
thay đổi cách ứng xử với trẻ em, chính từ trong mỗi gia đình phải ngăn chặn
những hành vi đánh đập, xúc phạm trẻ.
3.1.2. Xâm hại về tinh thần
Những đứa trẻ bị bạo lực gia đình cũng chính là xâm hại đến tinh thần của
chúng. Khi bị đánh quá nhiều khiến chúng bị ám ảnh tâm lý, lo sợ, cảnh giác
với mọi thứ, khơng thể hịa nhập, thân thiết với bạn bè, thầy cô và những thành
viên trong gia đình mình.
Thực tế cho thấy, hầu hết những đứa trẻ đều đã từng bị bố mẹ, người thân
trong gia đình “mắng” ít nhất một lần. Nhưng “mắng” như nào là sẽ xâm hại
đến tinh thần của đứa trẻ thì phải xem xét đến nhiều yếu tố. Hiện nay, một bộ
phận lớn cha mẹ, người lớn trong gia đình có những hành vi mắng chửi, bôi
nhọ, sỉ nhục, xúc phạm, nói xấu, đe dọa, uy hiếp những đứa trẻ trong chính gia
đình của mình. Điều này dẫn đến hệ quả nghiêm trọng cho tâm lý của các em,
khiến các em tổn thương, lo sợ, hoang mang, ám ảnh tâm trí làm lệch lạc nhận
thức, suy nghĩ của các em.
3.1.3. Xâm hại tình dục
Xâm hại tình dục trẻ em nói riêng và người chưa thành niên nói chung có xu
hướng gia tăng. Theo thống kê của Bộ Công an, trong 02 năm 2021, 2022, hiếp
dâm người chưa thành niên là 1.193 vụ, 1.260 đối tượng, xâm hại 1.218 em;
cưỡng dâm người chưa thành niên là 29 vụ, 30 đối tượng, xâm hại 29 em; giao
cấu với người chưa thành niên là 1.362 vụ, 1.369 đối tượng, xâm hại 1.364 em. 6
Ngoài ra, theo số liệu mới nhất, Quý I/2023 số vụ xâm hại tình dục trẻ em là
427 vụ (chiếm 74%), 446 đối tượng, 427 trẻ em. Trong đó, người chưa thành
niên bị xâm hại tình dục bởi chính người thân trong gia đình mình chiếm gần
60%.
Qua nhiều nghiên cứu cho thấy, mọi trẻ trong cộng đồng đều có nguy cơ bị
xâm hại tình dục kể cả những trẻ sống trong gia đình nghèo hay gia đình khá
giả. Khơng những trẻ em gái mà trẻ em là nam giới cũng có thể trở thành nạn
nhân bị xâm hại tình dục. Đáng nói, sau khi bị xâm hại nạn nhân thường khơng
/>6
10
hoặc khơng dám kể về những gì đã diễn ra với chúng. Số đơng trẻ bị xâm hại
tình dục bởi chính những thành viên trong gia đình mình.
3.1.4. Hành vi bỏ rơi, bỏ mặc
Theo số liệu trên Cổng thông tin điện tử Quốc hội, trong giai đoạn 2016 –
2018 có khoảng 469.869 trẻ bị bỏ rơi, bỏ mặc. 7 Điều đáng nói là con số này có
xu hướng tăng theo từng năm.
Tình trạng sản phụ sinh hoặc mẹ đưa trẻ đi điều trị bệnh rồi bỏ rơi tại các bệnh
viện hiện nay đang rất báo động. Trong suốt những năm nước ta chịu đại dịch
Covid-19, theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, từ cuối năm 2019 đến
tháng 12 năm 2022, cả nước có khoảng 25 triệu trẻ em trong đó có 141.256 trẻ
em mồ cơi (21.883 trẻ em mồ côi cả cha và mẹ). Trong số 21.883 trẻ em mồ cơi
cả cha và mẹ, hiện có 18.072 trẻ em đang được sống trong mơi trường gia đình
và 3.811 trẻ em đang sống tại các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em.8
3.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ người chưa thành niên trước nguy cơ bị
xâm hại từ gia đình.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em được nhà nước, gia đình và xã hội
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm
cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và
những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Tất cả những hành vi bạo lực, xâm
hại trẻ em (xâm hại tình dục, dâm ơ…) tác động rất lớn đến q trình phát triển
tâm lý và thể chất của trẻ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến những giá trị đẹp đẽ của
đạo đức xã hội, sự phát triển của đất nước.
Hệ thống 25 quyền của trẻ em quy định tại mục 1 Chương II, trong đó có
quyền sống, quyền nhân thân, quyền tài sản, quyền được chăm sóc, ni dưỡng
và bảo vệ, quyền được học tập, giáo dục, vui chơi, giải trí, bày tỏ ý kiến và được
bảo đảm an sinh xã hội... Nhà nước là tổ chức đầu tiên được luật quy định trách
nhiệm bảo đảm quyền trẻ em bằng các chính sách, biện pháp hỗ trợ, tạo điều
kiện, khuyến khích các đơn vị, tổ chức, cá nhân khác cùng tham gia ủng hộ, đầu
tư trong mọi lĩnh vực để trẻ em được phát triển tồn diện, lành mạnh và cơng
bằng.
Luật trẻ em 2016 cũng quy định cụ thể các yêu cầu bảo vệ trẻ qua ba cấp độ:
phòng ngừa bằng tuyên truyền phổ biến hậu quả của hành vi vi phạm để cộng
đồng gia đình nhà trường có trách nhiệm quan tâm, bảo vệ con em mình, trang
bị kiến thức cho gia đình, cộng đồng phịng ngừa, phát hiện các yếu tố gây hại
đồng thời xây dựng môi trường an toàn cho trẻ và tư vấn, giáo dục kỹ năng tự
vệ cho trẻ; cấp độ hỗ trợ đối với trẻ có nguy cơ mất an tồn nhằm kịp thời phát
hiện, giảm thiểu hoặc loại bỏ nguy cơ gây tổn hại cho trẻ; cuối cùng là can thiệp
tích cực bằng các biện pháp bảo vệ, chăm sóc, theo dõi đối với trẻ em bị xâm
hại.
/>Lists/News&ItemID=48874
8
/>7
11
Bên cạnh đó, Luật Hơn nhân và gia đình 2014 cũng quy định nghĩa vụ của cha
mẹ, cha mẹ nuôi là Nghiêm cấm các hành vi bạo lực gia đình, lợi dụng việc
thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao
động hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 ghi nhận các đối tượng được trợ giúp pháp lý
bao gồm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự, nạn
nhân của các vụ bạo lực gia đình và của các hành vi mua bán người với điều
kiện những đối tượng này có khó khăn về tài chính (khoản 7 Điều 7).
3.3. Đánh giá chung.
3.3.1. Những kết quả đạt được:
Qua tổng kết các quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo
vệ người chưa thành niên trước nguy cơ xâm hại từ gia đình trong thời gian qua
của Việt Nam, có thể thấy rằng chúng ta đã đạt được một số kết quả tích cực
như:
- Đã xây dựng được một hệ thống pháp luật tư pháp người chưa thành niên
với nhiều đạo luật và các văn bản dưới luật, từng bước hình thành hệ thống
pháp luật về tư pháp người chưa thành niên;
- Hệ thống cơ quan bảo vệ trẻ em, người chưa thành niên, đặc biệt là hệ thống
Tịa gia đình và người chưa thành niên từng bước được kiện toàn;
- Quyền trẻ em đã tương đối đầy đủ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hài
hịa với pháp luật quốc tế và ứng phó kịp thời với những mối quan hệ xã hội
mới, tạo hành lang pháp lý toàn diện nhằm bảo vệ và thực hiện quyền trẻ em ở
mức cao nhất. Điều này được khẳng định bằng việc Việt Nam là một trong
những nước đầu tiên trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về
quyền trẻ em.
3.3.2. Những tồn tại, hạn chế:
Bên cạnh những quan tâm thích đáng của pháp luật Việt Nam để bảo vệ
NCTN trước nguy cơ xâm hại từ mơi trường gia đình thì vẫn cịn tồn tại những
hạn chế nhất định.
Thứ nhất, Quy định của pháp luật trong nước về trẻ em cịn có sự khác biệt so
với quy định của Cơng ước quốc tế về quyền trẻ em dẫn đến việc triển khai
cơng tác bảo vệ trẻ em với nhóm trẻ từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi gặp nhiều trở
ngại.
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm trẻ em không đồng nhất với khái niệm
người chưa thành niên (là người dưới 18), đó là người chưa phát triển đầy đủ về
thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người
đã trưởng thành trong khi tuổi trưởng thành trong pháp luật Việt Nam vẫn quy
định là từ đủ 18.
Thứ hai, các biện pháp bảo vệ trẻ em cịn mang tính khái qt chung, chưa cụ
thể. Theo quy định tại Điều 47 Luật trẻ em 2016 thì nhà nước bảo vệ trẻ em ở
ba cấp độ là: phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp.
Ở cấp độ phịng ngừa có biện pháp cung cấp thơng tin, trang bị kiến thức về
trách nhiệm bảo vệ trẻ em, kỹ năng phòng ngừa, phát hiện các yếu tố, hành vi
12
gây tổn hại, xâm hại trẻ em, tuy nhiên biện pháp này chỉ dành cho cha, mẹ, giáo
viên, người chăm sóc trẻ em, người làm việc trong cơ sở cung cấp dịch vụ bảo
vệ trẻ em là chưa đủ, bởi biện pháp này là cần thiết với mọi đối tượng chứ
khơng chỉ riêng người chăm sóc trẻ em.
Thứ ba, chế tài xử lý vi phạm chưa thực sự bảo đảm tính răn đe.
Pháp luật về hình sự hiện hành đã có nhiều quy định xử lý đối với những hành
vi bạo hành người chưa thành niên. Tuy nhiên mức xử phạt của một số tội chưa
thực sự nghiêm khắc và còn rất nhẹ như Tội hành hạ người khác (Điều 140 Bộ
luật hình sự 2015) thì mức xử phạt là cao nhất là 03 năm tù giam, Tội ngược đãi
hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có cơng ni
dưỡng mình thì mức xử phạt cao nhất cũng chỉ là 05 năm từ giam (Điều 185 Bộ
luật hình sự 2015.
Thứ tư, quy định khơng khởi tố vụ án hình sự do khơng có u cầu từ người
đại diện của người chưa thành niên đang “tiếp tay” cho những người phạm tội
thực hiện hành vi trái pháp luật của mình đối với NCTN, bởi vì theo quy định
tại Khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì chỉ được khởi tố vụ án
hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141,
143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự 2015 khi có u cầu của bị hại hoặc
người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Nếu quy định như vậy thì việc phát hiện và xử
lý hành vi bạo hành NCTN sẽ rất khó nếu như người đại diện của họ khơng u
cầu khởi tố vì trên thực tế rất nhiều cha, mẹ, người chăm sóc ni dưỡng NCTN
khơng u cầu khởi tố vụ án vì hành vi phạm tội được thực hiện bởi người thân
trong gia đình hoặc chính những bậc làm cha mẹ.
Thứ năm, cơ quan, người có thẩm quyền tham gia trong hoạt động tư pháp
người chưa thành niên còn thiếu chuyên nghiệp, chưa đồng bộ; chưa xây dựng
được các bộ phận, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chuyên trách về người
chưa thành niên ở tất cả các cơ quan, mới chỉ thực hiện một phần tại Tòa án
Nhân dân (tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên); hệ thống các cơ
quan, tổ chức hoạt động bổ trợ cho tư pháp người chưa thành niên cịn tổ chức
dưới nhiều hình thức khác nhau, thiếu đồng bộ, rời rạc, chưa được quan tâm
đúng mức.
Thứ sáu, hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật liên quan đến tư
pháp người chưa thành niên chưa được thực hiện chuyên nghiệp và chưa được
quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao.
4. Kiến nghị các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng xâm hại người chưa
thành niên tại mơi trường gia đình.
Thứ nhất, chế tài pháp luật cần mạnh tay hơn nữa đối với người thân thích
trong gia đình đã thực hiện hành vi xâm hại người chưa thành niên. Hiện nay
thấy rằng mức xử phạt hành chính đối với hành vi hành hạ, ngược đãi thành
viên gia đình là chưa thỏa đáng. Cần đặt ra trách nhiệm cao hơn đối với các cơ
quan, tổ chức để luôn quan tâm sát sao, lồng ghép các vấn đề vể trẻ em trong
các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, các lĩnh vực khác, theo dõi, giám
13
sát việc thực hiện các chính sách đảm bảo quyền trẻ em, hỗ trợ, tạo điều kiện,
hướng dẫn mọi chủ thể việc thực hiện quyền của trẻ.
Thứ hai, trong môi trường gia đình, trang bị kiến thức cho gia đình phát hiện
các yếu tố gây hại đồng thời xây dựng mơi trường an tồn cho trẻ và tư vấn,
giáo dục kỹ năng tự vệ cho trẻ, cấp độ hỗ trợ đối với trẻ có nguy cơ mất an tồn
nhằm kịp thời phát hiện, giảm thiểu hoặc loại bỏ nguy cơ gây tổn hại cho trẻ,
cuối cùng là can thiệp tích cực bằng các biện pháp bảo vệ, chăm sóc, theo dõi
đối với trẻ em bị xâm hại. Cha mẹ là người gần gũi con cái nhất nên cần phải
thường xuyên để mắt, lắng nghe quan tâm, chia sẻ với con em mình để nhận
thấy những thay đổi tâm, sinh lý, nhẹ nhàng chỉ bảo những điều cần thiết. Bên
cạnh đó trước khi lập ra đình các cặp vợ chồng cần học các khóa học tiền hơn
nhân bắt buộc, học các khóa làm cha mẹ trước khi sinh con. Đồng thời phải thay
đổi quan niệm coi con cái như tài sản của mình nên tùy ý "cho roi cho vọt".
Thứ ba, ngồi việc tìm hiểu đặc điểm tâm lý, sinh lý của trẻ, cha mẹ còn phải
thường xuyên quản lý con mình. Do ở lứa tuổi này, các em chưa đủ độ chín
trong suy nghĩ và hành động, chưa tự kiềm chế được những hành động bằng các
chuẩn mực xă hội. Khi người lớn quá tin vào các em, buông lỏng việc quản lư,
giám sát và kiểm tra các em trong học tập, trong sinh hoạt và trong quan hệ bạn
bè thì đây là cơ hội tốt để những hành vi lệch lạc có thể hình thành và phát
triển.9. Để khắc phục tình trạng này, cha mẹ phải tạo điều kiện cho con em mình
chiếm một vị trí bên cạnh mình, tôn trọng sự độc lập, ý thức vươn lên làm người
lớn của chúng.
Thứ tư, tại nhà trường cần phải có phịng tâm lý và dạy các con gặp khó khăn
phải chia sẻ. Vì vậy Nhà trường tổ chức các biện pháp quản lý khoa học, chặt
chẽ đối với học sinh, nâng cao vai trò, trách nhiệm của giáo viên trong việc
chăm sóc, giáo dục học sinh, tăng cường cơng tác tuyên tuyền, giáo dục pháp
luật trong nhà trường và phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa nhà trường
với gia đình trong việc trao đổi thơng tin để cùng quản lý giáo dục các em phát
triển toàn diện nhất.
KẾT LUẬN
Gia đình là mơi trường xã hội đầu tiên mà con người tiếp xúc, là yếu tố chủ
đạo cho sự hình thành và phát triển những phẩm chất tâm lý nhân cách con
người. Thơng qua gia đình con người được nuôi nấng, được giáo dục và tiếp thu
những kinh nghiệm xã hội đầu tiên. Vì vậy gia đình bao giờ cũng để lại nhiều
dấu ấn trong tâm lý con người, và có ảnh hưởng rất lớn đến q trình hình
thành, phát triển nhân cách của con người. Vậy nên để phịng tránh xâm hại trẻ
em, phải tăng cường cơng tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức, trách nhiệm
và sự phối hợp giữa gia đình- nhà trường - xã hội. Đặc biệt, phụ huynh phải hơn
ai hết nhận thức rõ trách nhiệm trong việc chăm sóc, giáo dục giới tính và quản
9
Khuất Văn Q “Gia đình và vai trị của gia đình trong việc giáo dục đạo đức, lối sống trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa và hội nhập quốc tế”
14
lý, bảo vệ con em mình phịng tránh nguy cơ bị xâm hại; kịp thời tố giác các
hành vi xâm hại. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền, hướng dẫn kỹ năng, biện pháp
giúp các em nâng cao cách nhận biết, phịng tránh các hành vi xâm hại tình dục.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư pháp đối với người chưa thành niên/Trường Đại học Luật Hà
Nội.
2. Hiến pháp 2013
3. Luật trẻ em 2016
4. Luật Thanh niên 2020
5. Luật Trợ giúp pháp lý 2017
6. Luật Hôn nhân và gia đình 2014
7. Luật phịng, chống bạo lực gia đình 2022
8. Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em
9. Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy,
chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phịng, chống bạo lực gia đình
10. Nghị định số 130/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em
11. />12. />13. />14.
/>_ve_tinh_than
15. /> />16. />15
17. />18. />
16