Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

tóm tắt: Tác động của tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến mật độ carbon dioxide đối với phúc lợi con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 35 trang )

1.
1.1. Lý do nghiên cứu

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ĐỀ TÀI

Chính sách kiểm soát phát thải về carbon và phát triển nền kinh tế carbon thấp trở
nên cấp thiết hơn bao giờ hết ở các quốc gia trên toàn thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Lý thuyết đường cong Kuznets (EKC) đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và suy thối mơi trường có dạng hình chữ U ngược: suy thối mơi trường tăng
lên khi q trình phát triển tiếp diễn, sau đó đạt đến một bước ngoặt và sẽ giảm xuống
(Grossman và Krueger, 1991). Kilic và Balan (2018), Mosconi và các cộng sự (2020),
Sahoo và các cộng sự (2021), Shahbaz và Sinha (2019) và Rahman và các cộng sự
(2021) đã dựa vào 3 đặc tính kinh tế: hiệu ứng quy mô, hiệu ứng thành phần và hiệu
ứng công nghệ để lý giải cho các nhánh đối nghịch của quan hệ này. Bên cạnh đó, lý
thuyết hiện đại hố sinh thái cho rằng: (1) Thị trường và cơng nghiệp hóa đóng vai
trị quan trọng trong cải cách về môi trường (Mol và các cộng sự, 2009), (2) thay đổi
công nghệ và phát triển công nghệ, (3) chuyển tải ý thức xã hội mạnh mẽ hơn vào
trong các hoạt động tiêu dùng “xanh hóa” và trong khắp người dân toàn cầu (Mol,
2002 và Mol và các cộng sự, 2009). Hay nói cách khác, tăng trưởng kinh tế, phát
triển cơng nghệ và ý thức về môi trường xã hội được xem là những nhân tố thiết yếu
trong việc chuyển đổi sản xuất. Những quá trình biến đổi này giúp phi vật chất hóa
nền kinh tế vì cần ít tài ngun thiên nhiên hơn để phát triển xã hội (Mol, Spaargaren
và Sonnenfeld, 2009).
Gần đây, các nhà nghiên cứu đã phát triển một chỉ số đại diện cho sự bền vững
kinh tế, đó là “ mật độ carbon đối với phúc lợi con người- mật độ CO2 đối với phúc lợi
con người (Carbon intensity of well-being-CIWB)” (Jorgenson, 2014, Jorgenson, 2015,
Givens, 2017, Givens, 2018), Jorgenson và Givens (2015), McGee và các cộng sự
(2017); Briscoe và các cộng sự (2021) và Wang và các cộng sự (2022). CIWB tích hợp
đồng thời các phương pháp đo lường kết quả mơi trường (khí thải CO2) và phúc lợi con
người (tuổi thọ trung bình) vào thành một biến số duy nhất và được đưa ra đầu tiên bởi
Jorgenson (2014). Giải thích vì sao kết quả mơi trường được đo lường cụ thể bằng khí


thải CO2 trong cách tính CIWB, Jorgenson (2014) cho rằng đây là yếu tố chính gây ra
biến đổi khí hậu. Hơn nữa, khí thải CO2 cịn có khả năng thay đổi đáng kể chất lượng

1


cuộc sống của thế hệ tương lai trên toàn cầu (IPCC, 2014;2018). Bên cạnh đó, CIWB
được sử dụng để so sánh giữa các mức độ phát triển khác nhau ở các quốc gia. CIWB
tăng sẽ cho biết quốc gia đó ít đạt được sự phát triển bền vững. Ngược lại, CIWB giảm
sẽ cho thấy quốc gia đó đã đạt được sự cân bằng về tuổi thọ cao hơn và lượng khí thải
thấp hơn (Jorgenson, 2014). Ngồi ra, Givens (2017) cho rằng các quốc gia có tuổi thọ
trung bình cao và lượng khí thải CO2 thấp hơn sẽ được xếp vào nhóm Goldemberg.
Đây là nhóm mà nhu cầu cơ bản của con người có thể được đáp ứng ở mức năng lượng
tối thiểu (Goldemberg và các cộng sự, 1985). Các quốc gia ở nhóm Goldemberg có thể
đóng vai trị là mơ hình phát triển khơng những cho các quốc gia kém phát triển hơn (
thường là các quốc gia có mức phát thải CO2 thấp) cải thiện phúc lợi của con người
không cần đi theo con đường hủy hoại môi trường giống như một số quốc gia phát triển
hơn mà còn cho các quốc gia có mức phát thải cao (thường là các nước thuộc nhóm tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế-OECD) nếu muốn theo đuổi sự phát triển bền vững
(Global Commons Institute, 2003; Meyer, 2000).
Các quốc gia có thu nhập trung bình (Middle Income Countries-MICs) đang có
sự thay đổi cơ cấu mạnh mẽ từ phát triển kinh tế dựa vào nông nghiệp sang phát triển
kinh tế dựa vào công nghiệp. Kết quả là, tổng sản lượng đạt được chiếm tỷ trọng một
phần ba tổng sản lượng toàn cầu và cải thiện về phát triển con người thông qua giáo dục
khi tỷ lệ biết đọc biết viết của thanh niên tăng dần qua các năm, MICs dần trở thành
động lực chính trong tăng trưởng kinh tế tồn cầu. Thêm vào đó, theo Ngân hàng Thế
giới cho rằng tăng trưởng và phát triển bền vững tại MICs có tác động lan tỏa tích cực
đến các quốc gia cịn lại trên thế giới bao gồm xóa đói giảm nghèo, bất bình đẳng về
giới, ổn định tài chính quốc tế và các vấn đề xuyên biên giới toàn cầu, bao gồm biến đổi
khí hậu, phát triển năng lượng bền vững, an ninh lương thực và nước và thương mại

quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại MICs đang phải đối mặt với tình thế tiến
thối lưỡng nan với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, tiêu thụ năng lượng nhiều cho các
hoạt động, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi gia tăng mạnh và kèm theo đó lượng
khí thải CO2 cũng gia tăng. Theo ước tính của World bank (2013) cho rằng lượng khí
thải CO2 của MICs chiếm tỷ trọng 43,38% trên toàn thế giới, tăng gần 50% trong suốt
giai đoạn 1990-2010. Song song đó, Taghizadeh-Hesary và các cộng sự (2020) đã phát
hoạ thêm lượng phát thải CO2 theo đầu người tăng từ 2 tấn vào năm 1991 lên gần 3,8

2


tấn vào năm 2018 tại các quốc gia có thu nhập thấp và thu nhập trung bình. Đồng thời,
EBRD (2018) cũng kết luận rằng ơ nhiễm mơi trường tính trên một đơn vị GDP của các
nước thu nhập trung bình cao hơn các nước có thu nhập cao và các nước có thu nhập
thấp (EBRD, 2018). Mặt khác, MICs cịn được biết như là quê hương của khoảng 73%
dân số trên tồn thế giới sống trong có hồn cảnh khó khăn (Sohag và các cộng sự,
2017).
Mục tiêu về sự bền vững là giảm thiểu tác động đến môi trường và tối đa hóa
phúc lợi của con người (Prescott-Allen, 2001; Dietz và các cộng sự, 2009). Do đó, nếu
khơng có các chiến lược phát triển bền vững phù hợp về các hoạt động kinh tế trong
việc cắt giảm lượng khí thải CO2 và nâng cao phúc lợi con người thì có thể làm hỏng
sự thành cơng của q trình phát triển đã đạt được trước đây của MICs nói chung hoặc
từng quốc gia thuộc MICs nói riêng. Một trong những minh chứng thể hiện điều
này có thể tìm thấy thơng qua nghiên cứu của Taghizadeh-Hesary và các cộng sự
(2020). Các tác giả đã tìm thấy nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ tử vong ở các quốc gia có
thu nhập thấp và trung bình ln cao hơn tỷ lệ tử vong ở các quốc gia có thu nhập
trung bình cao trong giai đoạn 1991–2018 là do khí thải CO2 gia tăng.
Tuy nhiên, số lượng nghiên cứu về các hoạt động kinh tế liên quan đến CIWB
còn rất hạn chế. Đặc biệt là, nghiên cứu về tác động của tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ
năng lượng và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến CIWB tại các quốc gia thuộc MICs,

đặc biệt là tại các quốc gia thuộc MICs với các đặc điểm: dân số đơng và mức phát thải
CO2 bình qn theo đầu người cao là chưa có một học giả nào đề cập đến. Vì vậy, đây
là một nghiên cứu thực nghiệm rất cần thiết. Từ đó điều chỉnh lại các chính sách về tăng
trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sao cho
phù hợp với định hướng phát triển bền vững của các quốc gia này.
1.2.

Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án được xác định như sau:

i.

Nghiên cứu tác động của tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng và vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài đến CIWB.
ii.

Nghiên cứu về sự thay đổi riêng rẻ qua thời gian của vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài và tiêu thụ năng lượng tác động đến CIWB.

3


iii.

Đề xuất các gợi ý chính sách nhằm nâng cao hơn nữa vai trò và tác động của

tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng và vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi đến CIWB
tại các quốc gia thuộc nhóm quốc gia có thu nhập trung bình với các đặc điểm: dân

số đơng và mức phát thải CO2 bình qn theo đầu người cao.
1.3.

Câu hỏi nghiên cứu

Luận án này nhằm trả lời các câu hỏi sau:
i.

Tác động của tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng và vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài đến CIWB như thế nào?
ii.

Sự thay đổi riêng rẻ qua thời gian của vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi, tiêu thụ

năng lượng có tác động đến CIWB khơng?
iii.Những gợi ý chính sách nào nào nhằm thúc đẩy tác động tích cực của tăng trưởng
kinh tế, tiêu thụ năng lượng và vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi đến CIWB tại các
quốc gia thuộc nhóm quốc gia có thu nhập trung bình với các đặc điểm: dân số đơng
và mức phát thải CO2 bình qn theo đầu người cao?
1.4.

Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu về không gian: Nghiên cứu tại các quốc gia thuộc nhóm quốc gia
có thu nhập trung bình với các đặc điểm: dân số đơng và mức phát thải CO2 bình qn
theo đầu người cao.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn
2000-2019.
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Nghiên cứu tác động của tăng trưởng, tiêu thụ

năng lượng và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến đến CIWB và sự thay đổi qua thời
gian của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, của tiêu thụ năng lượng tác động đến CIWB.

1.5.

Ý nghĩa của nghiên cứu
Nghiên cứu này giúp hệ thống lại các lý thuyết khoa học: lý thuyết hiện đại hoá

sinh thái, lý thuyết sản xuất liên tục… Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu sẽ cung cấp
bằng chứng nhằm giúp các quốc gia nghiên cứu thấy được các chính sách hiện tại về
tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi có
phù hợp với mục tiêu giảm lượng khí thải CO2 ra mơi trường và gia tăng phúc lợi cho
người dân hay khơng. Từ đó, những chính sách nào chưa hiệu quả thì lập tức điều chỉnh

4


kịp thời.Hơn nữa, nghiên cứu cũng có thể là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho các
nhà khoa học, nhà quản lý và hoạch định chính sách trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và
môi trường.
1.6.

Điểm mới của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp một số điểm mới trên phương diện cả

về lý thuyết và thực nghiệm:
Thứ nhất, hiện tại chưa có tác giả hoặc nhóm tác giả nào trong nước đề cập đến
mật độ carbon dioxide đối với phúc lợi con người (CIWB) trong nghiên cứu ngồi nhóm
nghiên cứu của nghiên cứu sinh.
Thứ hai, nghiên cứu tác động của tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng và vốn

đầu tư trực tiếp nước ngồi đến CIWB trong cùng khung phân tích chưa có một nghiên
cứu nào xem xét vấn đề này ngồi nhóm nghiên cứu của nghiên cứu sinh.
Thứ ba, nghiên cứu về sự thay đổi qua thời gian của vốn đầu trực tiếp nước ngoài
tác động đến CIWB lần đầu tiên được luận án đề cập đến.
Thứ tư, nghiên cứu về sự thay đổi qua thời gian của tiêu thụ năng lượng tác động
đến CIWB chỉ mới tìm thấy qua nghiên cứu của Sweidan (2017) và nhóm của nghiên
cứu sinh ( Nguyen va Dang 2021). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của luận án về vấn
đề này rất khác biệt so với các nghiên cứu đề cập ở trên, cụ thể: hệ số co giãn của tiêu
thụ năng lượng so với CIWB đều thay đổi qua các năm nghiên cứu, trong khi điều này
chỉ xảy ra trong nghiên cứu của Sweidan (2017) và của Nguyen va Dang (2021) ở một
số năm và các năm khác thì hệ số co giãn bằng với năm tham chiếu.
Thứ năm, nhóm 21 quốc gia thuộc MICs với tư cách là một nhóm riêng thì chưa
có nghiên cứu nào chọn làm mẫu nghiên cứu.
1.7.

Kết cấu của luận án

Kết cấu luận án gồm 5 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan đề tài.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết.
Chương 3: Thiết kế nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận.
Chương 5: Kết luận và đề xuất hướng nghiên cứu mới.
2. CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

5


2.1.


Khái niệm Carbon dioxide (CO2), phúc lợi con người, mật độ CO2 đối
với phúc lợi con người (CIWB), tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng
và vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi.
Theo NASA (n.d.), CO2 là một loại khí hấp thụ nhiệt phát ra do các hoạt động

khác nhau của con người từ việc đốt cháy nhiên liệu hóa thạch ở các mỏ carbon hóa
thạch như dầu, khí đốt và than đá, các nhiên liệu sinh học có nguồn gốc lâm nghiệp, từ
thay đổi quá trình sử dụng đất và từ các quá trình tự nhiên như phun trào núi lửa.
Lamb và Steinberger (2017) cho rằng phúc lợi con người là một thuật ngữ cịn
có nhiều ý kiến khác nhau. Các thuật ngữ như chất lượng cuộc sống, mức sống, phúc
lợi, tiện ích, thỏa mãn cuộc sống, đáp ứng nhu cầu, nghèo đói và hạnh phúc thường
được sử dụng thay thế cho phúc lợi con người mà không cần thảo luận rõ ràng về tính
đặc biệt của chúng (Schaafsma, 2020).

Jorgenson (2014) đã tạo ra chỉ tiêu mới mật độ CO2 đối với phúc lợi con
người ( Carbon intensity of well-being- CIWB) và tính bằng tỷ lệ khí thải CO2
do con người tạo ra so với phúc lợi con người, CIWB cho biết lượng khí thải CO2
ra mơi trường là cái giá phải trả để có được một cuộc sống chất lượng.
Các nhà kinh tế đều thừa nhận khái niệm tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu
nhập hay sản lượng thực tế được tính cho tồn bộ nền kinh tế trong một thời gian nhất
định, thường là một năm. Nội hàm tăng trưởng kinh tế là tăng lên về sản lượng trong
một thời gian nhất định (Trần Thọ Đạt, 2010)
Theo tổ chức năng lượng thế giới định nghĩa rằng tiêu thụ năng lượng là toàn bộ
khối lượng/số lượng của loại năng lượng đó bị hao phí trong một quá trình hay một hệ
thống bởi một tổ chức hay xã hội cho các mục đích khác nhau trong một khoảng thời
gian.
Theo quỹ tiền tệ (IMF) định nghĩa rằng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là
một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó, một tổ chức trong một nền kinh
tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một DN đặt tại một nền kinh tế khác.
Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý DN

đặt tại nền kinh tế khác đó.

6


2.2.

Lược khảo các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với CO2 và với phúc lợi con người
2.2.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với CO2
Sự nóng lên tồn cầu liên quan đến biến đổi khí hậu đã trở thành một vấn đề

quan trọng vì CO2 là một trong những mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các quốc gia
(Fernandes và Paunov, 2012). Vấn đề này chỉ gia tăng đáng kể trong những năm gần
đây khi mà các nguồn tài nguyên thiên nhiên được sử dụng trong các lĩnh vực công
nghiệp, dịch vụ và vận tải khác nhau và có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng (Galeotti
và các cộng sự, 2009). Do đó, lý thuyết về đường cong Kuznets về mơi trường (EKC)
hình chữ U ngược đã được hình thành dựa theo ý tưởng của Kuznets (1955) nhấn mạnh
mối quan hệ bất bình đẳng về thu nhập và tăng trưởng kinh tế
Grossman and Krueger (1991) là các tác giả đi tiên phong nghiên cứu lý thuyết
EKC trong lĩnh vực kinh tế môi trường.
Tiếp theo nghiên cứu của Grossman và Krueger (1991), nhiều nghiên cứu đã tìm
hiểu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường dưới tiêu đề của giả
thuyết về đường cong Kuznets về môi trường (EKC). Các nghiên cứu gần đây về tính
hợp lệ của EKC cho từng quốc gia và nhóm các quốc gia: Rahman (2017; 2020);
Shahbaz và cộng sự (2018); Ozturk và Acaravci (2010); He và Richard (2010); Rahman
và cộng sự (2021); Pao và các cộng sự (2011); Ertugrul và cộng sự (2016); Tiwari và
các cộng sự (2013) và Zoundi (2017).
2.2.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phúc lợi con người
Về kinh tế, người ta cho rằng phúc lợi của người dân trong một quốc gia phải

phù hợp với mức độ tăng trưởng của một quốc gia đó. Do đó, phát triển sẽ bị suy yếu
khi tăng trưởng xảy ra mà các nhà chức trách không cung cấp đủ phúc lợi cho con người
(Sardar, Islam & Clarke, 2002; Awan, 2015).
Tella và các cộng sự (2003), Hagerty và Veenhoven (2003) và Beja (2014) tuyên
bố rằng thu nhập có tác động mạnh mẽ đến phúc lợi con người trong ngắn hạn hơn là
về lâu dài. Trong khi đó, Sarracino (2013) phát hiện ra rằng thu nhập có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến phúc lợi con người ở các nước thu nhập thấp hơn các nước thu nhập cao.

7


Diener và các cộng sự (2010) đều đồng thuận rằng phần tình cảm, tức là cảm xúc tiêu
cực và cảm xúc tích cực (hạnh phúc, vui vẻ, buồn bã và lo lắng) có mối quan hệ yếu với
thu nhập. Tuy nhiên, Kahneman và Deaton (2010) cho rằng hài lòng về cuộc sống khơng
có mối liên hệ yếu với thu nhập.
Diezt và các cộng sự (2012) cho rằng tuổi thọ trung bình là chỉ tiêu phản ánh rõ
nét phúc lợi con người hơn các chỉ tiêu đo lường phúc lợi khác. Rogers (1979) giải thích
khung khái niệm về tuổi thọ trung bình và thu nhập. Sau đó, một số nghiên cứu thực
nghiệm về mối quan hệ giữa tăng trưởng và tuổi thọ trung bình được thực hiện : Anand
và Ravallion (1993), Gulis (2000), Husain (2002), Shen và Williamson (1997), Mahfuz
(2008) và Wilkinson (1996)
2.3.

Lược khảo các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa giữa tiêu thụ năng
lượng với CO2 và với phúc lợi con người
2.3.1. Mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng với CO2
Mirza và các cộng sự (2022) nghiên cứu về “Tác động của hiệu quả năng lượng

đối với phát thải CO2: Bằng chứng thực nghiệm từ các nước đang phát triển”. Kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng việc cải thiện hiệu quả năng lượng có ảnh hưởng lớn nhất đến

việc giảm thiểu phát thải CO2. Cụ thể hơn, ở các nước đang phát triển, trong dài hạn
hiệu quả sử dụng năng lượng có mối quan hệ tích cực lượng khí thải CO2, trong khi
chuyển dịch cơ cấu có mối quan hệ tiêu cực với lượng khí thải CO2.
Adams và Nsiah (2019) sử dụng một loạt các kỹ thuật kinh tế lượng để kiểm tra
mối quan hệ giữa năng lượng tái tạo, năng lượng không tái tạo và phát thải carbon đối
với một số nền kinh tế châu Phi cận Sahara từ năm 1980 đến năm 2014. Kết quả nghiên
cứu cho thấy cả hai nguồn năng lượng tái tạo và không tái tạo đều tạo ra phát thải carbon
dioxide trong dài hạn, mặc dù tác động của năng lượng tái tạo đối với phát thải carbon
giảm dần trong ngắn hạn.
Theo kết quả của Mahjabeen và các cộng sự (2020) phân tích tại các nước D-8
(Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh, Indonesia, Iran, Malaysia, Ai Cập, Nigeria và Pakistan) trong
giai đoạn 1990-2016 về tác động tiêu thụ năng lượng tái tạo và khơng tái tạo đến khí
thải CO2. Các tác giả tìm thấy bằng chứng cả tiêu thụ năng lượng tái tạo và khơng tái
tạo đều có tác động dương và có ý nghĩa đến khí thải CO2. Tuy nhiên, độ lớn về hệ số

8


tác động đến khí thải CO2 của tiêu thụ năng lượng tái tạo thấp hơn nhiều so với tiêu thụ
năng lượng không tái tạo.
2.3.2. Mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng với phúc lợi con người
Pirlogea (2012) phân tích ảnh hưởng của năng lượng hoá thạch và năng lượng
tái tạo đến phát triển con người ở 6 nước thuộc châu Âu ( Bulgaria, Rumani, Ba Lan,
Bồ Đào Nha, Ba Lan, Ireland và Hà Lan ) giai đoạn 1997-2008. Tác giả đã ước lượng
mơ hình tác động cố định bằng cách sử dụng kỹ thuật bình phương bé nhất tổng quát
cho chuỗi dữ liệu thời gian. Kết quả nghiên cứu tiết lộ rằng năng lượng hoá thạch và
năng lượng tái tạo tác động tích cực đến q trình phát triển con người.
Ibrahim và các cộng sự (2021) sử dụng kỹ thuật GMM hệ thống đánh giá những
tác động của năng lượng không tái tạo đến chất lượng cuộc sống con người ở 43 quốc
gia cận Sa mạc Sahara từ năm 1990-2009. Kết quả nghiên cứu của các tác giả tiết lộ

rằng tiêu thụ năng lượng không tái tạo ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống
của con người
Lekana và Ikiemi (2021) phân tích tác động của tiêu thụ năng lượng đến phát
triển con người tại các quốc gia cộng đồng tiền tệ và kinh tế thuộc Trung Phi. Các tác
giả đã áp dụng các kỹ thuật kinh tế lượng bằng cách sử dụng dữ liệu bảng và đặc biệt
dùng kỹ thuật Driscoll-Kraay. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở các quốc gia cộng
đồng tiền tệ và kinh tế thuộc Trung Phi, tiêu thụ năng lượng là nhân tố cải thiện việc
phát triển con người. Trong đó, tiêu thụ năng lượng tái tạo tác động biên đến phát triển
con người.
2.4.

Lược khảo các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài với CO2 và với phúc lợi con người
2.4.1. Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với CO2
Birdsall và Wheeler (1993) cho rằng tự do hóa thương mại và tăng cường đầu tư

nước ngồi ở Mỹ Latinh khơng đi kèm với sự phát triển công nghiệp gây ô nhiễm và
thách thức giả thuyết thiên đường ô nhiễm. Bằng chứng thực nghiệm và các nghiên cứu
tình huống chỉ ra rằng sự cởi mở có nhiều khả năng khuyến khích ngành công nghiệp
sạch hơn theo các tiêu chuẩn ô nhiễm được phép chuyển giao của các nước phát triển.
Mặt khác, Eskeland và Harrison (2003) đặt nghi vấn liệu các công ty đa quốc gia
có đẩy các quốc gia vào thiên đường ô nhiễm hay không. Kết quả cho thấy bằng chứng

9


yếu về các cơng ty nước ngồi có xu hướng đặt trụ sở trong các ngành có mức độ ơ
nhiễm khơng khí cao. Các tác giả cũng cho rằng các cơng ty nước ngồi thân thiện với
mơi trường hơn là các công ty trong nước nhờ tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng
lượng sạch hơn.

Zhang và Zhou (2016) xem xét tác động của FDI đối với phát thải carbon ở Trung
Quốc ở cấp quốc gia và cấp tỉnh thành, sử dụng dữ liệu cấp tỉnh trong giai đoạn 1995 2010. Các tác động ngẫu nhiên bằng mơ hình hồi quy về dân số, sự sung túc và công
nghệ đã ủng hộ giả thuyết hào quang lan toả và cho rằng FDI giúp giảm lượng khí thải
carbon ở Trung Quốc và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn ở khu vực phía Tây so với các khu
vực miền Đông và miền Trung.
2.4.2. Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với phúc lợi con
người
Burns và cộng sự (2017) đã thu thập dữ liệu tại 85 quốc gia từ năm 1974 đến
năm 2012 để điều tra về mối quan hệ giữa FDI và sức khoẻ con người. Bằng cách sử
dụng mơ hình OLS và mơ hình các hiệu ứng cố định, các tác giả phát hiện rằng FDI
mang lại nhiều ích lợi về sức khoẻ cho người dân. Ngoài ra, khi điều tra tỷ lệ tử vong
theo độ tuổi cụ thể, các tác giả đã phát hiện ra rằng FDI quan hệ chặt chẽ với tỷ lệ tử
vong ở người trưởng thành, nhưng khơng có mối liên hệ nào với tỷ lệ tử vong ở trẻ em
hoặc trẻ sơ sinh.
Nagel và các cộng sự (2015) xem xét tác động của FDI đến sức khỏe dân số sử
dụng dữ liệu bảng cho tối đa 179 quốc gia trong giai đoạn từ 1980 đến 2011. Phát hiện
chính của các tác giả về mối quan hệ giữa FDI và sức khỏe là phi tuyến tính, tùy thuộc
vào mức độ thu nhập: FDI có tác động tích cực đến sức khỏe ở mức thấp mức thu nhập
và tác động giảm khi thu nhập tăng, sau đó đổi dấu và ngày càng trở nên tiêu cực ở mức
thu nhập cao hơn.
Azemar và Desbordes (2009) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và sức khỏe
ở 70 đang phát triển các quốc gia từ năm 1985 đến năm 2004 bằng cách sử dụng các
mơ hình tác động cố định. Các tác giả kết luận rằng thu hút FDI không đạt được theo
kỳ vọng là do việc cung cấp dịch vụ công không hiệu quả đặc biệt là giáo dục và sức
khoẻ.

10


Herzer và Nunnenkamp (2012) đã xem xét mối quan hệ giữa sức khỏe và FDI từ

năm 1970 đến năm 2009, sử dụng dữ liệu của 14 quốc gia và dùng biến tuổi thọ như
một đại diện cho sức khỏe như các nghiên cứu khác. Kết quả tìm thấy FDI tác động suy
giảm sức khỏe nhiều hơn là bù đắp bất kỳ tác động cải thiện sức khỏe nào của FDI ở
những nước thu hút đầu tư có thu nhập trung bình cao nhất.
Lược khảo các nghiên cứu trước về tác động của tăng trưởng kinh tế đến

2.5.

mật độ CO2 đối với phúc lợi con người (CIWB)
Thứ nhất, các nghiên cứu xem xét sự thay đổi qua thời gian của tăng trưởng kinh
tế tác động đến CIWB gồm có:
Jorgenson (2014) sử dụng bộ dữ liệu bảng giai đoạn 1970-2009 ở 106 quốc gia
trên thế giới để nghiên cứu vấn đề này. Tác giả chia các quốc gia thành 4 khu vực nghiên
cứu : châu Phi, Châu Á, Trung và Nam Mỹ và Bắc Mỹ-Châu Âu và Châu đại Dương.
Bằng phương pháp hồi quy PCSE với các sai số chuẩn điều chỉnh dữ liệu bảng và kỹ
thuật tự tương quan bậc nhất (AR1) nhằm khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi,
tương quan đồng thời giữa các quốc gia và hiện tượng tương quan chuỗi. Kết quả nghiên
cứu cho thấy giai đoạn 1970-2009, khu vực Châu Á, khu vực Trung và Nam Mỹ và khu
vực Bắc Mỹ-Châu Âu và Châu đại Dương đang gặp vấn đề về bền vững có nghĩa là
tăng trưởng kinh tế kéo theo sự gia tăng về CIWB. Trong khi đó, khu vực châu Phi thì
tăng trưởng kinh tế làm giảm CIWB hay nói cách khác phát triển ở khu vực này đang
đi theo đúng hướng về bền vững.
Sweidan (2017) xem xét sự thay đổi qua thời gian của tăng trưởng kinh tế tác
động đến CIWB tại 13 quốc gia thuộc khu vực MENA trong giai đoạn 1995-2013. Sử
dụng phương pháp hồi quy PCSE với các sai số chuẩn điều chỉnh dữ liệu bảng và kỹ
thuật tự tương quan bậc nhất (AR1) để khắc phục các khuyết tật của dữ liệu bảng. Kết
quả nghiên cứu cho thấy tăng trưởng kinh tế tác động tích cực đến CIWB chỉ trong giai
đoạn 1996-1998, ngồi giai đoạn này thì tăng trưởng kinh tế tác động tiêu cực đến
CIWB.
Thứ hai, các nghiên cứu xem xét tác động của tăng trưởng kinh tế (không đề cập

đến sự thay đổi qua thời gian) đến CIWB gồm có các nghiên cứu:
Greiner và McGee (2019) điều tra sự bất cân xứng giữa tăng trưởng kinh tế và
CIWB tại 153 quốc gia trong giai đoạn 1961-2013. Các tác giả đã chia mẫu nghiên cứu

11


thành hai nhóm: nhóm các quốc gia phát triển và nhóm quốc gia kém phát triển. Bằng
mơ hình hồi quy bình phương bé nhất tổng quát với sai số chuẩn vững, kết quả nghiên
cứu cho thấy rằng có một sự bất cân xứng về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và CIWB
ở các nước phát triển, nhưng ở các nước kém phát triển là cân xứng. Cụ thể hơn, tăng
trưởng kinh tế ở các quốc gia phát triển làm giảm CIWB một cách khơng có ý nghĩa
thống kê nhưng việc giảm tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia này kéo theo sự giảm đáng
kể và có ý nghĩa thống kê về CIWB. Tuy nhiên, ở các quốc gia kém phát triển việc tăng
hay giảm về tăng trưởng kinh tế đều có quan hệ với CIWB một cách có ý nghĩa thống
kê.
Li và các cộng sự (2019) phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, môi
trường và phúc lợi con người ở Trung Quốc. Các tác giả đã sử dụng dữ liệu bảng về
mật độ CO2 đối với phúc lợi con người (CIWB) để đo lường sự bền vững về môi trường
và phúc lợi con người tại 30 tỉnh của Trung Quốc trong giai đoạn từ 1995-2016. Sau
đó, bằng cách sử dụng mơ hình hồi quy khơng gian để nghiên cứu kiểm tra đường cong
Kuznet về môi trười giữa tăng trưởng kinh tế và CIWB. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và CIWB có hình dạng là chữ N ngược. Nói một
cách khác, khi tăng trưởng trưởng kinh tế tăng từ thấp đến cao thì đầu tiên CIWB giảm
sau đó lại gia tăng lên trong một thời gian dài và cho đến khi đạt được ngưỡng thì CIWB
lại giảm xuống. Các tác giả còn cho biết, trong dài hạn tăng trưởng kinh tế tác động tích
cực đến phát triển bền vững, tuy nhiên ở hiện tại cần có những chính sách về mơi trường
cần được ban hành nhằm điều chỉnh cho những tác hại về mơi trường ngồi ý muốn.
2.6.


Lược khảo các nghiên cứu trước về tác động của của tiêu thụ năng lượng
đến mật độ CO2 đối với phúc lợi con người (CIWB)
Thứ nhất, các nghiên cứu xem xét sự thay đổi qua thời gian của tiêu thụ năng

lượng tác động đến CIWB gồm có:
Nguyen và Dang (2021) nghiên cứu sự thay đổi qua thời gian của tiêu thụ năng
lượng tác động đến CIWB tại 9 nước thu nhập trung bình thấp trong giai đoạn 20002018. Với việc sử dụng phương pháp hồi quy bằng mơ hình PCSE với các sai số chuẩn
điều chỉnh dữ liệu bảng và kỹ thuật tự tương quan bậc nhất (AR1) để khắc phục các
khuyết tật của dữ liệu bảng. Nghiên cứu cho thấy tiêu thụ năng lượng qua các năm tác

12


động làm tăng CIWB. Vì vậy, việc sử dụng năng lượng cho phát triển là không hiệu quả
và không phù hợp với tổng quan về phát triển bền vững.
Sweidan (2017) xem xét sự thay đổi qua thời gian của tiêu thụ năng lượng tác
động đến CIWB tại 13 quốc gia thuộc khu vực MENA trong giai đoạn 1995-2013. Sử
dụng phương pháp hồi quy PCSE với các sai số chuẩn điều chỉnh dữ liệu bảng và kỹ
thuật tự tương quan bậc nhất (AR1) để khắc phục các khuyết tật của dữ liệu bảng. Kết
quả nghiên cứu cho thấy tác động của tiêu thụ năng lượng đến CIWB là tiêu cực trong
toàn bộ giai đoạn 1995-2013. Tuy nhiên, ở giai đoạn 1996-2003, tác động của các tương
tác giữa tiêu thụ năng lượng với thời gian làm giảm CIWB. Điều này ủng hộ ý kiến cho
rằng sử dụng năng lượng trở nên bền vững hơn trong giai đoạn này. Vì vậy, tác động
tiêu cực của tiêu thụ năng lượng đến CIWB trong giai đoạn này là giảm so với các năm
còn lại.
Thứ hai, các nghiên cứu xem xét tác động của tiêu thụ năng lượng (không đề cập
đến sự thay đổi qua thời gian) đến CIWB :
Nghiên cứu của Briscoe và các cộng sự (2021) đề cập đến tác động của tiêu thụ
năng lượng đến CIWB tại Mỹ trong giai đoạn 1998-2009. Kết quả của nghiên cứu cho
thấy tác động của tiêu thụ năng lượng làm giảm CIWB phân loại theo phụ nữ, trong khi

đó bằng chứng về tác động của tiêu thụ năng lượng đối với CIWB phân loại theo nam
giới không tìm thấy. Trong khi đó, nghiên cứu của Jorgenson và các cộng sự (2017)
cũng tại Mỹ vào các năm 2000, 2005 và 2010 thì khơng tìm thấy bằng chứng thấy bằng
chứng tác động của tiêu thụ năng lượng đối với CIWB trong cả hai trường hợp phân
loại theo nam giới và phân loại theo phụ nữ.
2.7.

Lược khảo các nghiên cứu trước về tác động của vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đến mật độ CO2 đối với phúc lợi con người (CIWB)
Egras và các cộng sự (2021) đề cập đến tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài (gọi tắt là FDI) đến CIWB tại 70 quốc gia trong giai đoạn 1995-2013. Tuy nhiên,
các tác giả khơng tìm thấy bằng chứng về FDI tác động đến CIWB.
Ngược lại, nghiên cứu của nhóm nghiên cứu sinh (Nguyen và Dang 2021 và
Dang và các cộng sự, 2023) thì tìm thấy bằng chứng FDI tác động làm giảm CIWB tại
9 nước có thu nhập trung bình thấp hơn.

13


2.8.

Lược khảo các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa đơ thị hố, giới và
giáo dục với CO2 và với phúc lợi con người
2.8.1. Mối quan hệ giữa đô thị hoá với CO2 và với phúc lợi con người
Mối quan hệ giữa đơ thị hố và CO2 có thể tìm thấy qua nhiều nghiên cứu nhưng

kết quả của các nghiên cứu thì vẫn chưa đạt được sự đồng nhất. Hầu hết các nghiên cứu
tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa đơ thị hố và khí thải CO2 (York và các cộng sự,
2003; Ying và các cộng sự, 2006; York, 2007; Poumanyvong và các cộng sự, 2012;

Menz và Jan, 2011; Zhu và các cộng sự, 2012). Trong khi đó, Jorgenson (2007);
Jorgenson (2012) và Jorgenson và Clark (2012) tìm thấy đơ thị hố ảnh hưởng nhỏ đến
việc làm tăng khí thải CO2. Ngược lại, Liddle (2004) kết luận rằng đô thị hoá càng tăng
càng làm giảm nhu cầu sử dụng phương tiện cá nhân ở các nước OECD.
Theo tài liệu kinh tế học đô thị, người dân ở các thành phố lớn khơng chỉ giàu
có hơn mà cịn hạnh phúc hơn (Glaeser, 2011; Albouy, 2008). Ở những nơi đây, người
dân có nhiều cơ hội hơn cho nhiều loại hàng hóa như bảo tàng, nhà hát, âm nhạc, thể
thao chuyên nghiệp, phương tiện cơng cộng, chăm sóc sức khỏe và các nhà hàng chuyên
biệt (Glaeser và cộng sự, 2001; Albouy, 2008; Berry và Waldfogel, 2010).
Tác động của đơ thị hố đến CIWB cũng tìm thấy qua một số các nghiên cứu
của: Greiner và McGee (2019), Mc Gee và các cộng sự (2017), Egras và các cộng sự
(2021) và Wang và các cộng sự (2022).
2.8.2.

Mối quan hệ giữa giới với CO2 và với phúc lợi con người

Một nhóm nghiên cứu quan trọng về thái độ môi trường và nhận thức rủi ro xem
xét nhiều quốc gia và nền văn hóa khác nhau, cho thấy rằng phụ nữ có xu hướng bày tỏ
các mối quan tâm khác nhau về môi trường hơn nam giới. Phụ nữ tích cực hơn trong
các dự án cải cách mơi trường và có xu hướng nhận thức hơn về môi trường rủi ro càng
đe dọa (Buckingham, 2010; Flynn và các cộng sự, 1994; Bord và O’Connor, 1997;
Davidson và Freudenburg, 1996).
Sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong một số chỉ số sức khỏe đã được xem
xét trong nhiều nghiên cứu (Denton và các cộng sự, 2004; Gorman và Read, 2006;
Crimmins và các cộng sự ,2011 và Heise và các cộng sự, 2019). Singh-Manoux và cộng
sự (2008) tìm thấy tỷ lệ tử vong ở nam giới và một số trường hợp vượt qua tỷ lệ mắc
bệnh của phụ nữ.

14



Tác động của phụ nữ đến CIWB chỉ mới được thể hiện qua nghiên cứu của Egras
và các cộng sự (2021).
2.8.3. Mối quan hệ giữa giáo dục với CO2 và với phúc lợi con người
Giáo dục có thể đóng góp vào chất lượng môi trường bằng sự gia tăng ý thức
môi trường, phát triển những công nghệ xanh và sử dụng năng lượng hiệu quả và sản
xuất năng lượng tái tạo ( Uddin, 2014; Khattak và các cộng sự, 2020).
Giáo dục giúp phát triển chức năng nhận thức như biết đọc, biết viết, thông tin
và dạy cho các cá nhân suy nghĩ hợp lý như thế nào, biết phân tích dữ liệu, biết giải
quyết vấn đề và biết đưa ra kế hoạch (Kingston và các cộng sự, 2003). Học vấn càng
cao rất quan trọng để có những cơng việc ổn định và công việc trả lương cao và thu
nhập gia tăng sẽ giúp cho việc chi trả cho các bữa ăn, ở nhà tiện nghi và dịch vụ y tế
chất lượng cao trở nên dễ dàng (Mirowsky và Ross, 2003).
Tác động của giáo dục đến CIWB có thể tìm thấy qua các nghiên cứu của: Egras
và các cộng sự (2021), Briscoe và các cộng sự (2021) và Jorgenson và các cộng sự
(2018).
Kết luận về lược khảo các cơng trình nghiên cứu trước

2.9.

Dựa vào lược khảo về các cơng trình nghiên cứu ở trên, luận án có các kết luận
như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu về CIWB là một hướng nghiên cứu về phát triển bền vững
còn tương đối mới đối với các nhà nghiên cứu trong nước.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng và vốn đầu tư trực tiếp nước
ngồi có vai trị rất quan trọng trong các nghiên cứu về những nhân tố tác động đến khí
thải CO2 và phúc lợi con người. Bên cạnh đó, mặc dù số lượng nghiên cứu về mối quan
hệ giữa các yếu tố đơ thị hố, phụ nữ và giáo dục với khí thải CO2 và phúc lợi con
người khơng nhiều, nhưng kết quả các nghiên cứu cũng đã chứng minh được phần nào
đó tính cần thiết của các yếu tố này trong việc lý giải về sự thay đổi khí thải CO2 và

phúc lợi con người.
Thứ ba, ngoại trừ nhóm nghiên cứu của nghiên cứu sinh ( Nguyen và Dang, 2021
và Dang và các cộng sự, 2023) thì chưa có một nghiên cứu nào đề cập đến tác động của

15


tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến CIWB
trong cùng một khung phân tích).
Thứ tư, nghiên cứu sự thay đổi qua thời gian về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
tác động đến CIWB thì vẫn chưa có một nghiên cứu nào đề cập đến.
Thứ năm, nghiên cứu sự thay đổi qua thời gian về tiêu thụ năng lượng tác động
thì chỉ mới tìm thấy được qua hai nghiên cứu của Sweidan (2017) và Nguyen và Dang
(2021). Tuy nhiên, việc lựa chọn mẫu nghiên cứu trong hai nghiên cứu đã dẫn đến sự
sự khác biệt về kết quả nghiên cứu.
Thứ sáu, các nước thuộc nhóm quốc gia có thu nhập trung bình với dân số đơng
và khí thải CO2 cao được xem là một nhóm riêng thì chưa thấy được xem xét trong các
nghiên cứu về CIWB.
Thứ bảy, phương pháp hồi quy PCSE với các sai số chuẩn điều chỉnh dữ liệu
bảng và kỹ thuật tự tương quan bậc nhất (AR1) thường được các tác giả lựa chọn để
phân tích tác động của các hoạt động kinh tế đến mối quan hệ giữa khí thải CO2 với
phúc lợi con người (CIWB).
2.10.

Đề xuất các hướng nghiên cứu
Dựa vào nội dung kết luận về lược khảo các cơng trình nghiên cứu luận án đề

xuất các hướng nghiên cứu như sau:
2.10.1.


Nghiên cứu tác động của tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng

lượng và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến mật độ CO2 đối với
phúc lợi con người (CIWB) tại tại nhóm quốc gia đã đề cập trong
giai đoạn (2000-2019)-Hướng nghiên cứu thứ nhất

16


Tăng trưởng kinh
tế

Tiêu thụ năng
lượng

CIWB

Đơ thị hố, phụ nữ tham gia
lao động và giáo dục

Vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài

2.10.2.

Nghiên cứu riêng rẻ sự thay đổi qua thời gian về vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài, tiêu thụ năng lượng tác động đến mật độ CO2
đối với phúc lợi con người (CIWB) tại nhóm quốc gia đã đề cập
trong giai đoạn (2000-2019)- Hướng nghiên cứu thứ hai:

Thứ nhất, nghiên cứu sự thay đổi qua thời gian về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
tác động đến mật độ CO2 đối với phúc lợi con người (CIWB)

Vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài năm 2000

Vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài năm 2001

CIWB

….
Vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài năm 2019

17


Thứ hai, nghiên cứu sự thay đổi qua thời gian về tiêu thụ năng lượng tác động
đến mật độ CO2 đối với phúc lợi con người (CIWB)
Tiêu thụ năng lượng năm
2000

Tiêu thụ năng lượng năm
2001

CIWB

….


Tiêu thụ năng lượng năm
2019

3. CHƯƠNG 3. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu của luận án

3.1.

Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để phân tích các
kết quả trong các mơ hình hồi quy bao gồm: phân tích thống kê mơ tả và phân tích hồi

quy Prais-Winsten đơn vị chéo thời gian với sai số chuẩn hiệu chỉnh dữ liệu bảng
(PCSE)
3.2.

Các mơ hình nghiên cứu
3.2.1. Mơ hình nghiên cứu tác động của tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ
năng lượng và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến mật độ CO2
đối với phúc lợi con người (CIWB)
lnCIWBit= β0 + β1lnGDPit + β2lnECit + β3lnFDIit+ β4lnURit + β5lnLRit +

β6lnMYSit + eit (3.1)

Trong đó: CIWBit là mật độ CO2 đối với phúc lợi con người, GDPit là thu
nhập theo đầu người, ECit là tiêu thụ năng lượng, FDIit là vốn đầu tư trực tiếp
nước ngồi, URit là đơ thị hố, LRit là phụ nữ tham gia lao động và MYSit là giáo
dục. Dữ liệu được thu thập trong giai đoạn 2000-2019.
18



3.2.2. Mơ hình nghiên cứu sự thay đổi qua thời gian của vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài tác động đến mật độ CO2 đối với phúc lợi con
người (CIWB)

lnCIWBit = 𝜃1FDIit + 𝜃2FDIit *year2001+….+ 𝜃20FDIit *year2019+
𝜃21year2001+…+ 𝜃39year2019 +ui +εt+eit (3.2)
Trong đó: CIWBit là mật độ CO2 đối với phúc lợi con người, FDIit là vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài; year2001, year2002, …. year2019 là các biến giả thời
gian; FDIit*year2001, FDIit*year2002, ...... FDIit*year2019 là các biến tương tác
giữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với biến giả thời gian ở mỗi năm. Dữ liệu
được thu thập trong giai đoạn 2000-2019.
3.2.3. Mơ hình nghiên cứu sự thay đổi qua thời gian của tiêu thụ năng
lượng tác động đến mật độ CO2 đối với phúc lợi con người (CIWB)
lnCIWBit = 𝜃1lnECit + 𝜃2lnECit *year2001+….+ 𝜃20lnECit *year2019+
𝜃21year2001+…+ 𝜃39year2019+ ui +εt+eit (3.3)
Trong đó: CIWBit là mật độ CO2 đối với phúc lợi con người, ECit là tiêu thụ
năng lượng; year2001, year2002, …. year2019 là các biến giả thời gian; ECit*year2001,
ECit*year2002, ...... ECit*year2019 là các biến tương tác giữa tiêu thụ năng lượng với
biến giả thời gian ở mỗi năm. Dữ liệu được thu thập trong giai đoạn 2000-2019.
3.3.

Các kiểm định
Các kiểm định được sử dụng trong luận án bao gồm: Kiểm định nghiệm đơn vị,

kiểm định phụ thuộc chéo,kiểm định tự tương quan, kiểm định phương sai sai số thay
đổi, kiểm định hiện tượng nội sinh và kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến.
3.4.

Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu về khí thải CO2 được thu thập từ Ourworldindata (ourworldindata.org)

Dữ liệu tuổi thọ trung bình của người dân được thu thập từ World Bank (WB).
Dữ liệu về tăng trưởng kinh tế được thu thập từ World Bank (WB).
Dữ liệu về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thu thập từ UCSTAD
Dữ liệu về tiêu thụ năng lượng

được từ thu thập từ Ourworldindata

(ourworldindata.org)
Dữ liệu về đơ thị hố được thu thập từ World Bank (WB)

19


Dữ liệu về phụ nữ tham gia lao động được thu thập từ World Bank (WB)
Dữ liệu về giáo dục được thu thập từ Ourworldindata (ourworldindata.org) và
globaldatalab (globaldatalab.org).
3.5.

Tính tốn CIWB
Luận án dựa vào các phương pháp được phát triển và cải tiến bởi Dietz và các

cộng sự (2012), Jorgenson (2014), Jorgenson và các cộng sự (2014) và Sweidan và các
cộng sự (2016) và làm tương tự là khống chế hệ số biến thiên của tử số và mẫu số bằng
nhau bằng thêm vào một giá trị không đổi (hệ số điều chỉnh) vào tử số. Thủ tục này sẽ
làm giá trị trung bình thay đổi nhưng khơng làm thay đổi phương sai. Kết quả, CIWB
điều chỉnh được luận án tính như sau:
CIWB= ((CO2+40,13)/LE)*100

4. CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Một số đặc điểm về nhóm nước nghiên cứu


4.1.

Đây là nhóm quốc gia có thu thập theo đầu người 1,036 USD- 12,535 USD và
được phân loại là nhóm quốc gia có thu nhập trung bình1 . Theo Sohag và các cộng sự
(2017) cho rằng nhóm quốc gia có thu nhập trung bình nói chung có những đặc điểm
như sau:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này rất ấn tượng do việc chuyển
mơ hình kinh tế từ phụ thuộc vào nông nghiệp sang phát triển công nghiệp phụ thuộc
vào năng lượng
Thứ hai, sự khác biệt quan trọng về cơ cấu trong tăng trưởng kinh tế mà nhóm
quốc gia có thu nhập trung bình đạt được và theo đuổi so với các nước khác trên thế
giới.
Thứ ba, đạt được tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu mà mọi chính phủ trên
tồn thế giới muốn theo đuổi. Tuy nhiên, đối với các nước có thu nhập trung bình, mục
tiêu này rõ ràng hơn so với các nước khác.
Thứ tư, các chính sách về biến đổi khí hậu và chính sách khí hậu ln chú ý đến
các khía cạnh của con người bao gồm: phá rừng, ô nhiễm nước cơng nghiệp, hậu quả
sinh thái (ví dụ: sức khỏe cộng đồng), phát thải khí nhà kính và phát triển bền vững.

1

/>
20


Cuối cùng, các quốc gia có thu nhập trung bình được chọn làm mẫu trong các
nghiên về cứu kinh tế xã hội là sự bổ sung rất cần thiết trong lĩnh vực nghiên cứu và
cơng bố khoa học.
Ngồi các đặc điểm được nêu trên, nhóm các quốc gia nghiên cứu cịn có những

nét riêng: Theo World Bank (2018) cho biết chi tiêu theo đầu người cho sức khoẻ thấp
hơn (700 USD) so với các nước thu nhập cao (5,600 USD) và các quốc gia thuộc OECD
(5,041 USD), vẫn còn 15% dân số khơng có dịch vụ về nước uống cơ bản và 29% dân
số khơng có các thiết bị vệ sinh cơ bản.
4.2.

Kết quả hồi quy tác động của tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng và
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến CIWB

Bảng 4. 1. Kết quả hồi quy tác động của tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng
lượng và FDI đến CIWB bằng phương pháp Prais-Winten với PCSE
Biến

Hệ số hồi quy

Xác xuất (P>|z|)

lnGDP

-0.026**

0.031

lnEC

0.086***

0.000

lnFDI


-0.007***

0.000

lnUR

-0.079***

0.000

lnLR

-0.0031

0.671

lnMYS

0.00027

0.763

Cons

3.86

0.000

Số quan sát


420

Số nhóm

21

R2

0.998

***,**: Có ý nghĩa thống kê ở mức 1% và 5%
Theo bảng 4.1, các biến chính: tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng và vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đều tác động đến CIWB một cách có ý nghĩa thống kê.
Trong khi đó, ba biến kiểm sốt trong mơ hình thì chỉ tìm thấy mỗi biến đơ thị hố tác
động đến CIWB và có ý nghĩa thống kê. Cụ thể hơn:
Tăng trưởng kinh tế tăng 1% dẫn đến làm giảm 0.026% về CIWB. Điều này được
biết là tốc độ cải thiện phúc lợi con người cao hơn tốc độ tăng CO2 theo đầu người. Nói

21


một cách khác, các quốc gia thuộc mẫu nghiên cứu đang theo đuổi mục tiêu phát triển
bền vững. Thật vậy, nhiều nghiên cứu thực tiễn cũng tìm thấy tăng trưởng kinh tế làm
giảm khí thải CO2 (Li và Li, 2021 và Grossman và Krueger, 1991) và làm gia tăng phúc
lợi con người (Zang và các cộng sự, 2023 và Sarracino, 2013). Cụ thể hơn, Li và Li
(2021) khi nghiên cứu tại 140 quốc gia trong giai 2000-2015 đã tìm thấy tăng trưởng
kinh tế ở giai đoạn đầu là nguyên nhân chính làm gia tăng ơ nhiễm mơi trường. Mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường sẽ yếu dần đi trong giai đoạn
phát triển sâu hơn. Kết luận này tương tự với lý thuyết đường cong Kuzznet về môi

trường của Grossman và Krueger (1991). Hơn nữa, trong nghiên cứu của Zhang và các
cộng sự (2023) tại 175 quốc gia trong giai đoạn 2000-2018, các tác giả đã tìm thấy bằng
chứng rằng tăng trưởng kinh tế tăng 1% dẫn đến tuổi thọ trung bình của con người cả
nam và nữ tăng lên là 0.033% một cách có ý nghĩa, trong đó tuổi thọ trung bình của nữ
giới tăng lên là 0,035% và tuổi thọ trung bình của nam giới tăng lên là 0,031%. Ngoài
ra, Sarracino (2013) cũng phát hiện ra rằng tăng thu nhập có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
phúc lợi con người ở các nước thu nhập thấp và các nước thu nhập cao. Hơn nữa, giai
đoạn nghiên cứu luận án lựa chọn là 2000-2019. Đây là giai đoạn bị chi phối bởi Nghị
định thư Kyoto và Hiệp định Paris nên lượng khí thải CO2 được đánh giá là có sự
khác biệt so với các giai đoạn trước. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận án về tác
động của tăng trưởng kinh tế đến CIWB tương đồng với các kết quả nghiên cứu của
Jorgenson (2014) trong trường hợp các quốc gia Châu Phi, của Nguyen và Dang
(2021) tại 9 nước thu nhập trung bình thấp. Tuy nhiên, kết quả này lại không tương
đồng với kết quả nghiên cứu của Mc Gee và các cộng sự (2017) tại hầu hết các quốc
gia trên thế giới, của Feng và Yuan (2016) tại 30 tỉnh của Trung Quốc, của của
Sweidan (2017) tại 13 nước Trung Đông và Bắc Phi và của của Jorgenson (2014)
trong trường hợp các quốc gia Châu Á và Nam Trung Mỹ.
Tiêu thụ năng lượng, luận án tìm thấy tiêu thụ ở mức ý nghĩa 1%, tiêu thụ năng
lượng gia tăng 1% làm CIWB tăng lên 0.086%. Kết quả này cho thấy tốc độ cải thiện
phúc lợi con người nhỏ hơn tốc độ tăng của CO2 theo đầu người. Hay nói một cách
khác, tiêu thụ năng lượng đang phá huỷ tiến trình phát triển bền vững ở các quốc gia
nghiên cứu. Liên quan đến tiêu thụ năng lượng tác động đến CO2, Ehigiamusoe và các
cộng sự (2020) nghiên cứu tại 64 quốc gia có thu nhập trung bình trong giai đoạn 1970-

22


2014 và tìm thấy bằng chứng rằng tiêu thụ năng lượng càng cao càng góp phần tạo ra
nhiều khí thải CO2. Bên cạnh đó, nghiên cứu tại 100 quốc gia trong giai đoạn 19802015, Dong và các cộng sự (2018) đã kết luận rằng do việc sử dụng nhiều năng lượng
để phát triển kinh tế, các nước thu nhập trung bình cao đóng góp nhiều nhất vào sự gia

tăng CO2 trên tồn cầu. Trong khi đó, liên quan đến mối quan hệ giữa năng lượng và
phúc lợi con người thông qua sức khoẻ con người, Feng và các cộng sự (2020) đã nghiên
cứu tại 27 quốc gia có thu nhập cao, 21 quốc gia có thu nhập trung bình cao và 16 quốc
gia có thu nhập trung bình thấp trong giai đoạn 2010-2014 và tìm thấy ở quốc gia có
thu nhập trung bình có hiệu quả về việc sử dụng năng lượng và hiệu quả về sức khoẻ
con người thấp hơn các quốc gia có thu nhập cao. Ngồi ra, việc sử dụng năng lượng
tái tạo có thể làm gia tăng phúc lợi con người nhưng chỉ ở mức thấp, trong khi , việc sử
dụng năng lượng không tái tạo lại làm giảm phúc lợi con người nhưng ở mức độ rất cao.
Bằng chứng này có thể tìm thấy trong nghiên cứu của Kumari và các cộng sự (2020) tại
các quốc gia G20 trong giai đoạn 2006-2019. Kết quả nghiên cứu của các tác giả trên
như sau: sử dụng năng lượng tái tạo gia tăng 1% sẽ dẫn đến phúc lợi con người gia tăng
0.004%, ngược lại, sử dụng năng lượng không tái tạo gia tăng 1% sẽ dẫn đến phúc lợi
con người giảm 0.017%. Kết quả nghiên cứu tác động của tiêu thụ năng lượng đến
CIWB tương đồng với nghiên cứu của của Nguyen và Dang (2021), Dang và các cộng
sự (2023) và Sweidan (2017).
Đối với FDI, luận án tìm thấy ở mức ý nghĩa 1% , hệ số co giãn của FDI đối với
CIWB là -0.007. Kết quả này cho thấy rằng FDI cũng góp phần làm tốc độ cải thiện
phúc lợi con người cao hơn tốc độ tăng CO2 theo đầu người mặc dù còn khiêm tốn.
Một số nghiên cứu thực tế cũng cho thấy lợi ích của FDI góp phần làm gia tăng phúc
lợi con người. Burns và các cộng sự (2017) nghiên cứu tại 85 nước thu nhập thấp và thu
nhập trung bình trong giai đoạn 1974-2012 đã tìm thấy bằng chứng FDI tác động làm
gia tăng sức khoẻ người dân ở các nước này thơng qua biến đại diện là tuổi thọ trung
bình. Immurana và các cộng sự (2022) nghiên cứu tại 39 nước châu Phi trong giai đoạn
1980-2018 và cho rằng FDI đã làm giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em là 0,05 và
0,12 đơn vị ở mức ý nghĩa 10% và 5% tương ứng. Trong khi đó, liên quan đến nghiên
cứu về tác động của FDI đến CO2 tại các nước thu nhập trung bình trong giai đoạn
1992-2017, Benli và Ascar (2022) đã cho thấy FDI có tác động làm gia tăng đến CO2

23



nhưng ở mức rất thấp, cụ thể: FDI gia tăng 1% làm CO2 gia tăng lần lượt là 0,0075%
và 0,003% tại các nước trung bình thấp và trung bình cao. Điều này rất phù hợp với kết
luận của Zhu và các cộng sự (2016) cho rằng ở các quốc gia có ơ nhiễm cao chú ý nhiều
về vấn đề mơi trường và các luật lệ về môi trường sẽ khắc khe hơn, cho nên dòng vốn
FDI sẽ đưa vào các quốc gia này những cơng nghệ có xu hướng phổ biến sạch hơn và
ít gây hại hơn cho mơi trường. Hơn nữa, để nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh,
các quốc gia có thu nhập trung bình có xu hướng chú ý thu hút đầu tư nước ngoài thiên
về cơng nghệ cao và đặc biệt có đầu tư các phịng nghiên cứu và phát triển, do họ khơng
muốn bị mắc kẹt vào “bẫy thu nhập trung bình” (Vivarelli 2015). Điều này cũng sẽ giúp
gia tăng phúc lợi con người và giảm khí thải CO2 tại các quốc gia có thu nhập trung
bình. Kết quả nghiên cứu tác động của FDI đến CIWB của luận án đồng nhất với các
nghiên cứu của Nguyen và Dang (2021) và Dang và các cộng sự (2023). Trong khi đó,
nghiên cứu của Egras và các cộng sự (2021) thì chưa tìm thấy bằng chứng tác động của
FDI đến CIWB.
Đối với biến đô thị hoá, cứ 1% sự gia tăng về UR sẽ làm giảm CIWB là 0.079%.
Điều này ám chỉ tốc độ cải thiện phúc lợi con người lớn hơn tốc độ gia tăng lượng khí
thải CO2 bình qn đầu người ở các quốc gia nghiên cứu và đây là tác động làm gia
tăng phúc lợi của đơ thị hố. Đơ thị hố có thể giúp người dân nâng cao tiêu chuẩn sống
về vật chất, thu nhập, tạo cơ hội tốt hơn cho việc tiếp cận các dịch vụ y tế và chăm sóc
sức khoẻ (Fosu 1989) cũng như những thuận lợi về mơi trường văn hố và giáo dục
(Ballweg, 1992). Tất cả các vấn đề được đề cập ở trên đều có lợi cho việc nâng cao tuổi
thọ trung bình và phúc lợi cho người dân. Minh chứng này được Zhang và các cộng sự
(2023) tìm thấy trong nghiên cứu của họ tại 175 quốc gia trong giai đoạn 2000-2018
như sau: 1% gia tăng tỷ lệ đơ thị hố sẽ dẫn đến gia tăng về tuổi thọ trung bình con
người lên là 0.179% và làm giảm tỷ lệ tử vong là 0,653% một cách có ý nghĩa. Tuy
nhiên, kết quả hồi quy đơ thị hố tác động đến CIWB của luận án mâu thuẫn với kết
quả nghiên cứu của Greiner và Mc Gee (2019) trong trường hợp các nước phát triển
trong giai đoạn 1961-2013. Ngược lại, kết quả này lại tương đồng với kết quả các nghiên
cứu của Egras và các cộng sự (2021) tại các quốc gia phát triển trong khoảng thời gian

1995-2013 và nghiên cứu của Wang và các cộng sự (2022) trong trường hợp toàn bộ

24


mẫu là 125 quốc gia trong giai đoạn 1990-2017 và trong trường hợp các quốc gia có tốc
độ đơ thị hoá ở mức thấp và vừa.
4.3.

Kết quả hồi quy sự thay đổi qua thời gian của vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tác động đến CIWB

Bảng 4. 2 Kết quả ước lượng mơ hình sự thay đổi qua thời gian của vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động đến CIWB bằng phương pháp hồi quy
Prais-Winsten với PCSE
Các biến độc lập

Hệ số tác động

FDI

0.00018

FDI_2001

-1.19e-06

FDI_2002

-0.000048


FDI_2003

0.00003

FDI_2004

-0.00001

FDI_2005

-0.000056

FDI_2006

-0.000142

FDI_2007

-0.0002*

FDI_2008

-0.0003*

FDI_2009

-0.0004***

FDI_2010


-0.0005***

FDI_2011

-0.0006***

FDI_2012

-0.0007***

FDI_2013

-0.0008***

FDI_2014

-0.0009***

FDI_2015

-0.001***

FDI_2016

-0.0009***

FDI_2017

-0.001***


FDI_2018

-0.001***

FDI_2019

-0.0011***

R-squared

0.998

Number of groups

21

Number of obs

420

Nguồn : Tác giả tổng hợp

25


×