ĐÂY THÔN VĨ DẠ 2 khổ đầu
Thơ ca Việt Nam đã có một bầu trời dành cho nỗi nhớ thương và nỗi niềm đớn đau
khao khát một cuộc đời. Phải chăng là vì tình yêu, về những kỉ niệm đẹp nơi xứ sở
mộng mơ gắn liền với người thương thuở ấy? Hàn Mặc Tử đã đánh rơi những giọt
nước mắt của mình lên thơ, cùng một dịng chảy nghệ thuật đầy ắp nỗi nhớ thương
hòa quyện vào thiên nhiên xứ Huế. Và chính khoảnh khắc đó, “ĐTVD” ra đời như
một đứa con tinh thần bù đáp những tổn thương lòng và phần nào an ủi một tâm
hồn buồn đau u uất. Hai khổ đầu bài thơ thể hiện một cách đặc sắc nỗi lòng chàng
thi sĩ họ Hàn mang trong mình căn bệnh quái ác vẫn vấn vương về một miền xứ sở
tuyệt đẹp nơi có người thương – Vĩ Dạ.
Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của HMT thì “ĐTVD” được gợi cảm hứng từ tấm
bưu ảnh của người con gái có tên Hồng Cúc – một người con gái dịu dàng thướt
tha của xứ Huế. Một kiệt tác của đời thơ HMT, một bài thơ trong trẻo hiếm hoi
được ông viết trong chuỗi ngày đau thương, tăm tối nhất đời mình. Đó là ngày
tháng ơng đang phải tự cách li cộng đồng, sống đơn côi với căn bệnh “quái ác” như
người đời xưa vẫn gọi.
Câu hỏi mở thật nhẹ nhàng, êm ái như nghe như giọng nói của người con gái xứ
Huế ngọt ngào:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Đại từ “anh” gợi cho người đọc nhiều cách hiểu khác nhau. Đó có thể là nhân vật
trữ tình tự vấn lịng mình “sao lâu q rồi mà chưa một lần về thăm thôn Vĩ?” như
nhắc nhở đến một việc cần làm, đáng phải làm, mà cũng chẳng biết giờ đây có cịn
cơ hội để thực hiện nó nữa không, ấy là về lại với thôn Vĩ, về thăm lại chốn cũ,
cảnh xưa. Cũng có thể đó là lời của Hồng Cúc đang hỏi dịu dàng, kín đáo nhưng
ẩn sau đó là lời trách móc “Thơn Vĩ đẹp sao anh chẳng về chơi?”. Chẳng phải vơ
tình mà nhà thơ viết “không về chơi thôn Vĩ?”, “không về” khác hồn tồn với
“chưa về”. Nó dường như khép lại mọi nẻo đường về thơn Vĩ, cộm lên biết bao xót
xa vì giờ đây thơn Vĩ chỉ cịn trong hồi niệm của quá khứ xa vời. Hố sâu ngăn
cách giữa Hàn Mặc Tử với thế giới ngồi kia chính là căn bệnh hiểm nghèo khiến
cho nhà thơ vô cùng cô đơn, tuyệt vọng. Thanh trắc duy nhất của câu thơ rơi vào
chữ “Vĩ” ở cuối cùng khiến cho nỗi buồn như đằm xuống thành nỗi nhớ vô hạn về
cảnh và về người thôn Vĩ. Câu hỏi tu từ như cái cớ để nhà thơ gợi lại vẻ đẹp thi vị,
nên thơ của thơn Vĩ Dạ.
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Từ “nắng” được lặp lại hai lần cho ta cảm giác thôn Vĩ đang bừng sáng lên trong
ánh bình minh. Đó khơng phải là ánh nắng nhạt buồn của hồng hơn hay ánh nắng
chói gắt của buổi trưa mà là ánh nắng mới mẻ, trong sáng và tinh khôi của buổi
sớm mai. Cây cau xuất hiện trong vườn thôn Vĩ như cây thước của thiên nhiên để
đo mực nắng như thầy Chu Văn Sơn từng viết: “Đốt cau như thước đo mực nắng
trong vườn”. Phải yêu lắm, say lắm vẻ đẹp của đất trời, của thiên nhiên xứ Huế thi
nhân mới chụp được khoảnh khắc đặc biệt ấy vào tâm trí mình. Nắng dường như
làm bừng sáng cả khoảng trời kí ức của nhà thơ, nó lưu lại trong tâm hồn thi sĩ
những kí ức khơng thể nào phai. Ở câu thơ tiếp theo, thi nhân đã chuyển điểm nhìn
từ bầu trời tràn ngập ánh nắng xuống khu vườn phủ đầy một màu xanh lá, khu
vườn ấy như hóa thành một viên ngọc lớn trong đơi mắt của thi nhân:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ sử dụng một loạt các từ “mướt”, “xanh”, “ngọc” để miêu tả màu xanh non
tơ, trẻ trung, tươi mới. Vườn Vĩ Dạ sau một đêm những chiếc lá cây được sương
đêm lau chùi sạch sẽ giờ đây bỗng bừng sáng lung linh. Tác giả khéo léo sử dụng
từ cảm thán “quá” – không chỉ là từ chỉ mức độ gợi vẻ đẹp thanh sạch của cây lá,
nhà vườn xứ Huế mà còn bộc lộ cảm giác ngạc nhiên, đầy ngưỡng mộ. Hai thanh
trắc đứng liền nhau trong cụm từ “mướt quá” đã tạo ra ấn tượng về một tiếng reo,
một cảm xúc không thể kiềm chế. Vẻ đẹp của vườn cây còn được miêu tả qua phép
so sánh độc đáo “xanh như ngọc” – đó là cách nói ước lệ nhằm lí tưởng hóa đối
tượng thẩm mĩ, gợi ra màu xanh trong mướt, quý giá, cả vườn thôn Vĩ hiện lên như
một viên ngọc óng ánh sắc xanh và tỏa ra không gian một màu xanh long lanh ánh
sáng. Tiếp đến là cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “vườn ai”, vườn Vĩ Dạ vườn nào
mà chẳng đẹp, vườn nào mà chẳng tươi nhưng để có được vẻ đẹp khiến thi nhân
say đắm như vậy chỉ có thể là vườn của người mình thương, mình nhớ. Hai chữ
“vườn ai” như mang một sắc thái mơ hồ, mang lại cho cả câu thơ một chút nhớ
nhung, một chút ngậm ngùi và một chút xa vắng bởi tất cả đã thuộc về thế giới
khác, thế giới của ai đó ngồi kia chứ khơng cịn thuộc về mình nữa. Cuối cùng
Hàn Mặc Tử khép lại khổ thơ bằng một nét vẽ thi vị về cảnh và người thôn Vĩ:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
“Mặt chữ điền” chỉ những người có khn mặt vng vắn, đầy đặn với đức tính
thật thà, phúc hậu. Khn mặt ấy trở nên duyên dáng khi được những cành trúc tơ
điểm, bóng dáng con người làm cảnh Vĩ Dạ vốn đã đẹp nay lại càng đẹp hơn trong
sự hài hòa giữa cảnh và người, giữa tĩnh và động tạo nên nét đẹp e lệ, kín đáo,
duyên dáng của con người xứ Huế. Song khuôn mặt chữ điền kia là ai? Có người
cho rằng đó là khn mặt đơn hậu của người con gái xứ Huế, có người lại cho rằng
đó là khung cửa sổ, là cổng nhà q hay đặc biệt hơn cả đó chính là khn mặt của
tác giả. Hàn Mặc Tử tự vẽ mình lên trang thơ như một “kẻ đứng ngoài”, “kẻ đi
ngang qua cuộc đời”, vị “khách xa lạ” của mọi cảnh đẹp trần thế. Phải chăng đó là
sản phẩm của mặc cảm chia lìa?
Đắm chìm trong cảnh sắc tươi đẹp của vườn thôn Vĩ chỉ là khoảnh khắc với Hàn
Mặc Tử, để rồi khi tác giả chợt nghĩ đến hố sâu ngăn cản giữa mình với thơn Vĩ
bởi chứng bệnh nan y đang vẫy gọi như án tử hình. Cũng vì vậy bài thơ đã có sự
chuyển ý từ cảnh sắc vui tươi đã chuyển sang đau thương u hồi:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Hai câu thơ đầu của khổ thơ thứ hai đã nói tới một thực tại đầy phiêu tán. Gió thổi
mây bay là quy luật tất yếu của tự nhiên nhưng cái tưởng như không thể chia cách
ấy nay lại xa cách chia lìa, mỗi thứ một phương, gió một đường, mây một nẻo.
“Gió” và “mây” bị đẩy về hai đầu của câu thơ, gợi lên sự xa cách vời vợi, khoảng
cách giữa “gió” và “mây” dường như đã khơng còn cân đong đo đếm được. Tưởng
chừng ở gần nhau, ở cạnh nhau nhưng thực ra là đã vĩnh biệt, mãi mãi không về
chung một mối. Sự chia xa ấy cũng từng xuất hiện trong thơ của Thế Lữ:
“Em đường em tơi đường tơi
Tình nghĩa đơi ta có thế thơi”.
hay trong thơ của Huy Cận:
“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả”.
Nỗi đau cũng đã thấm đượm vào cả không gian khiến cho dòng nước cũng nhuốm
màu tâm trạng. Phép nhân hóa “Dịng nước buồn thiu” vừa làm hiện lên một dịng
sơng phẳng lặng như khơng trơi chảy, vừa như làm ngưng đọng nỗi buồn. “Lay”
chỉ là một động từ không buồn cũng chẳng vui, nhưng khi đặt vào câu thơ HMT
viết, nó dường như mang một màu sắc hiu hắt và đầy cô liêu, khiến cho bức tranh
thiên nhiên thêm phần trống trải, cũng như càng khiến cho tâm trạng của chủ thể
trữ trình phảng phất sự u buồn, nét cơ đơn của người mang án tử “treo” trên mình.
Ơng ghép “trăng” với “sông”, dùng “trăng” như một vật để “chở” tạo ra những
hình ảnh xen giữa đơi bờ hư - thực. Khơng biết dịng nước đang hóa mình thành
dòng trăng hay ánh trăng đang vỡ tan rồi hòa vào nước, chỉ biết rằng bến sông nay
đã trở thành “bến sơng trăng”. Tồn bộ hy vọng của ơng đã đặt cả vào con thuyền
chở trăng, và con thuyền ấy dường như khơng chỉ chở niềm tin, mà cịn là sự lo âu,
bất lực trước thực tại. Sức nặng của khổ hai rơi vào một chữ “kịp”. Nhãn tự của bài
thơ xuất hiện dường như đã chứa đựng hết tất cả những nỗi ám ảnh về thời gian mà
ông phải gánh chịu, chứa đựng cả nỗi đau và giọt nước mắt thi sĩ đánh rơi trên
trang giấy. Dường như kẻ sĩ đã chờ trăng từ rất lâu, và hắn có thể thức nhận được
rằng mình khơng cịn nhiều thời gian để chờ được nữa. Bởi vì bất kì lúc nào hắn
cũng có thể sẽ phải rời đi, đứt lìa ra khỏi đời sống, ngay cả khi chưa kịp tận hưởng
vẻ đẹp của trăng, sự thơ mộng của cuộc đời.
Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng câu hỏi tu từ xuyên suốt hai khổ thơ, thi
nhân đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn
trong đó là nỗi lịng của ơng: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau
cho số phận ngắn ngủi của mình.
“Trước khơng có ai, sau khơng có ai, Hàn Mặc Tử xuất hiện giữa làng thơ Việt
Nam như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời để lại cái đi chói lịa, rực rỡ của
mình.” Có gì đó ở một kẻ sống dưới lưỡi hái của tử thần khiến ta phải ngưỡng
vọng. Phải yêu thơn Vĩ, u người thương lắm thì những nét bút viết ra mới có hồn
như vậy, mới thành cơng tái hiện tuyệt vời đến như vậy. Thơn Vĩ và Hồng Cúc
vẫn sống trong tiềm thức của Hàn Mặc Tử cho đến ngày ơng lìa xa nhân thế. Tuy
“Đây thơn Vĩ Dạ” có một màu thơ đượm buồn, nhưng qua đó độc giả khơng chỉ
nhìn thấy sự phiêu tán, chia lìa mà còn thấy được những khao khát, ước vọng được
sống mãnh liệt đến khôn cùng, đến chao đảo cả trời đất của kẻ sĩ.
ĐÂY THÔN VĨ DẠ khổ cuối
Mặc dù đang sống với cảnh mộng và sống với người trong mộng, câu thơ đang
bồng bềnh phút chốc như trở nên hụt hẫng khi thi sĩ rơi về hiện thực của cuộc đời:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra”
Khi khơng cịn ánh nắng ấm áp, cũng khơng cịn ánh trăng mộng ảo thi nhân đưa
người đọc tới một cõi xa xăm, không gian đã chuyển sang hoàn toàn thế giới mộng
ảo. Màu sắc, âm thanh, đường nét đều mờ nhịa, chỉ cịn một bóng hình ai đó đang
chập chờn xuất hiện, phải chăng đó là hình bóng xa xơi của người thương thuở
nào… Chữ “mơ” đầu câu thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của thi nhân muốn
được cảm nhận, gần gũi với những hình bóng, hơi ấm của con người và cuộc đời
nơi trần thế song điệp từ “khách đường xa” trong hai vế câu như tái hiện hình ảnh
con người nơi trần thế đang xa dần, mờ khuất dần trong ánh nhìn tiếc nuối mà vơ
vọng của thi nhân. Hình ảnh người con gái xứ Huế xuất hiện trực diện bằng tiếng
“em” rất mơ hồ. Em gần gũi đấy nhưng mà sao lại quá đỗi xa vời? Gần gũi vì đây
là hình ảnh thường trực trong cõi lịng thi nhân, xa vời vì giữa hai người là khoảng
cách thời gian cùng màn khói sương của quá khứ mờ ảo hay là vì xuất phát từ sự
mặc cảm tự ti trong tình u. Dường như bóng dáng em xa khuất chỉ còn đọng lại
sắc áo trắng – một vẻ đẹp thánh thiện, tinh khôi. Hàn Mặc Tử muốn cực tả sắc
trắng trong câu thơ “Áo em trắng q nhìn khơng ra” ở độ tuyệt đối, tột cùng. Nó
chống cả khơng gian làm lập lịe cả thị giác. Hình ảnh “khách đường xa” đã trở về
trong cõi mộng khiến nhà thơ ngơ ngẩn, bâng khuâng, Hàn như bất lực trước cuộc
đời khi thấy nó mỗi ngày một xa dần tưởng như nắm bắt được rồi lại tuột ra khỏi
tay…
Say đến đâu rồi cũng phải tỉnh, mơ mộng đến mấy rồi cũng phải quay lại thực tại,
Hàn Mặc Tử cũng vậy, ông đã đến lúc phải quay về với thực tại u ám dù chẳng
muốn chút nào, ấy là chốn lãnh cung ảm đạm mờ mịt chẳng biết tương lai ngày
mai ra sao:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Cụm từ “ở đây” đã vẽ ra hai khơng gian hồn tồn đối lập. “Ở đây” là nơi nhà thơ
đang sống, là không gian nghiệt ngã và tăm tối đang bủa vây xung quanh Tử tựa
một lãnh cung nơi khơng có “niềm trăng và ý nhạc”, nơi có “người cung nữ nhớ
thương vua”. Khơng gian ấy bây giờ chìm trong sương khói mơng lung, lạnh lẽo
của xứ Huế buồn lắm nắng, nhiều mưa. Dường như bóng dáng của người đang dần
nhịa mờ “nhân ảnh” làm ta nhớ đến câu thơ của Nguyễn Gia Thiều:
“Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”
Dù tất cả đều chìm vào ảo ảnh nhưng tâm hồn thi nhân vẫn luôn băn khoăn, day
dứt với một câu hỏi:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Từ cõi hư vô ấy, câu hỏi cuối cùng vang lên như một nỗi xót xa, tuyệt vọng của
một con người tha thiết mê đắm với cuộc đời, khao khát bộc lộ tình yêu đời và
khắc khoải tìm kiếm sự đồng cảm, đồng điệu. Câu thơ sử dụng đến hai lần đại từ
phiếm chỉ “ai” gợi nhiều liên tưởng đến mối giao cảm của nhà thơ với người con
gái xứ Huế. Chẳng biết thơn Vĩ có hiểu cho mối tình đơn phương mà tha thiết đó
khơng? Chẳng hay người thơn Vĩ có tình cảm đậm đà với mình khơng? Đó là câu
hỏi của tình yêu và cũng là câu hỏi muôn thuở của tất cả những người đang yêu tha
thiết. Câu thơ của Tử rất mơ hồ, một câu hỏi đã hàm ý vô vọng nhưng vẫn thể hiện
được niềm khao khát của thi nhân. Hai chữ “đậm đà” khép lại bài thơ như muốn
nói dẫu vơ vọng nhưng thi nhân vẫn khao khát, vẫn mong ai đó biết và thấu hiểu
cho tình yêu, cho sự đậm đà của tình người.