Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Kỹ thuật trồng Nho potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.01 KB, 7 trang )

Kỹ thuật trồng Nho
Hầu hết các giống nho trồng thuộc loài
Vitis Vinifera L. Có một diện tích nhỏ
được trồng loài V. Rotundifolia
(Muscadines), V. Labrusca (Concord) và
con lai giữa các loài. Trong hầu hết các
trường hợp, các giống nho Vitis Vinifera cần được ghép với gốc ghép
chống được rệp hại rễ lấy từ các loài có nguồn gốc Mỹ.
Sử dụng phân bón cho cây nho

Năng suất nho cũng biến động rất lớn, từ 5 - 35 tấn/ ha/ năm tùy thuộc vào
vùng trồng, điều kiện canh tác và mục đích sử dụng (làm rượu nho loại ngon,
loại thường, làm nho ăn tươi). Tuy được trồng ở phổ rộng về khí hậu nhưng
đặc điểm rất đáng chú ý của nho là yêu cầu có một mùa khô đủ dài để tích
lũy đường.
Nhu cầu dinh dưỡng của cây nho
Lượng dinh dưỡng cây hút
Nhu cầu dinh dưỡng của cây nho phụ thuộc rất nhiều vào giống trồng, điều
kiện đất đai, khí hậu thời tiết và năng suất thu hoạch. Tuy nhiên giới hạn
chung của lượng dinh dưỡng lấy đi từ đất của cả thân, lá và quả biến thiên
như:
Lượng dinh dưỡng cây hút khi năng suất đạt từ 7 - 25 tấn/ ha
Lượng dinh dưỡng đa lượng (kg/ha/năm)
N : P2O5 : K2O : MgO : CaO = 22-84 : 5-35 : 41-148 : 6-25 : 28–204
Lượng dinh dưỡng vi lượng (g/ha/năm)
Fe : B : Mn : Zn : Cu -
292-1 37- 49- 110- 64-
121 228 787 585 910
Nếu phần thân và lá được vùi trở lại đất thì ước tính nó chiếm khoảng 70%
lượng N và 60% lượng P2O5 và K2O cây hút, do vậy nếu chỉ tính lượng
dinh dưỡng lấy đi do năng suất thì sẽ rất nhỏ so với tổng lượng cây hút ở


trên.
Chẩn đoán dinh dưỡng lá cây nho
Người ta có thể phân tích lá nho để chẩn đoán tình trạng dinh dưỡng của cây.
Sau đây là các nguồn số liệu khác nhau về chẩn đoán dinh dưỡng lá cho cây
nho. Do có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng nên khó có thể so sánh các nguồn số
liệu này. Cần có sự tham khảo và vận dụng linh hoạt trong điều kiện Việt
Nam.
Một số giới hạn và quan hệ của các nguyên tố dinh dưỡng trong cuống lá
thời kỳ quả chín
Hiện tại kết quả phân tích lá được sử dụng để chẩn đoán dinh dưỡng (thiếu,
đủ, gây độc) và để điều chỉnh sự khuyến cáo sử dụng phân bón. Mặc dù số
liệu phân tích lá không thể sử dụng trực tiếp để xác định lượng phân cần
thiết, nó vẫn cho phép đáp ứng được việc thực hành bón phân theo mục tiêu
năng suất, với điều kiện là các kết quả được làm sáng tỏ bởi các tiêu chuẩn
vùng đất, khí hậu, giống, gốc ghép và tập quán canh tác.
Dinh dưỡng cây trồng còn ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm. Thừa
N có thể làm giảm cấu trúc mầu của quả và tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng rượu và tăng khả năng bị nhiễm bệnh của cây. Tương tự, thừa Kali có
thể làm giảm độ axit của quả và của hèm rượu và chính vì vậy ảnh hưởng
xấu đến chất lượng rượu. Thừa Kali còn gây ra sự thiếu Magie do đối kháng
ion giữa K và Mg.
Bón trước khi trồng: Cần bón lót phân sâu trong đất để nâng hàm lượng dinh
dưỡng trong lớp đất sâu như Lân, Kali, Canxi, Magie. Những chất này rất ít
di động nên có thể tích lũy trong đất để cây sử dụng dần dần. Mặt khác, bón
phân lót còn có tác dụng điều chỉnh độ chua đất, làm giảm sự gây độc của Al
và Cu nếu đất chua. Ngoài ra phân chuồng trong phân lót còn nâng cao độ
mùn, tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng cho đất. Tùy theo số liệu phân tích
đất lớp mặt và lớp dưới, số lượng dinh dưỡng cần bón dao động từ 0 - 600
kg P2O5, 0 -1000 kg/ ha K2O, 0 - 300 kg/ha MgO, bón vôi (ở những nơi pH
< 6) với liều 2000-10.000 kg/ha CaO, và 0 - 100 tấn/ha phân chuồng hay

phân hữu cơ tương ứng.
Bón hàng năm: Đối với giống nho rượu loại tốt, có năng suất nhỏ hơn 10
tấn/ ha bón 0 - 40 kg/ ha N, 20 - 50 kg/ha P2O5, 60 - 100 kg/ha K2O. Đối
với các vườn nho khác bón 60 - 120 kg/ha N (bón nhiều hơn nếu có tưới), 20
- 50 kg/ ha P2O5, 100 - 150 kg/ha K2O. Nhìn chung phân N bón vào cuối
thời kỳ ngủ nghỉ và trong thời gian sinh trưởng; lân và Kali bón lót vào thời
kỳ ngủ nghỉ của cây và ở những vùng khí hậu ẩm ướt và đất nhẹ, có thể bón
thúc như phân đạm.
Bón lên lá cho cây: Các nguyên tố K, Mg, B và Fe có thể được bón lên lá
nếu có biểu hiện thiếu. Một số nguyên tố khác có thể được bón không chính
thức thông qua thuốc trừ nấm, ví dụ: S dùng chống Oidium; Cu dùng trong
thuốc Bordeaux; Mn và Zn trong Dithiocarbamates dùng chống bệnh
mildew.
Từ năm thứ 3 trở đi lượng bón có thể còn tăng, phân chuồng chỉ bón 1 lần/
năm.
Dạng phân bón thích hợp: Nho là cây không đòi hỏi nhiều về mặt này. Các
dạng Kali như Kali sulfate cũng không hơn gì Kali Clorua. Tuy nhiên, cần
chú ý khi đất mặn thì Kali Sulfate tỏ ra tốt hơn, hoặc khi lượng bón lớn,
chẳng hạn 500 - 1000 kg/ ha K2O, thì Kali Sulfate cũng tốt hơn.
Ở những ruộng nho làm rượu loại tốt, phân hữu cơ có hàm lượng đạm thấp
thường được dùng nhằm không gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng.
Trên thực tế sử dụng phân bón cho nho ở Việt Nam cho thấy, có sự biến
động rất lớn. Trong cùng 1 vùng, việc dùng phân cũng biến động từ ruộng
này sang ruộng khác và từ năm này sang năm khác. Có những chỗ hoàn toàn
không bón phân, lại có chỗ bón với lượng lớn, thừa thãi so với yêu cầu của
cây. Điều này có thể gây ra những rủi ro của sự ảnh hưởng xấu đến chất
lượng sản phẩm do thiếu, thừa hay không cân đối dinh dưỡng. Cần có sự
nghiên cứu tìm ra cách bón phân hợp lý trên cơ sở hiểu biết đất, nhu cầu của
cây cùng với kết quả phân tích lá nho.


Sử dụng phân NPK

Thời kỳ kiến thiết cơ bản: Cây nho là cây có thời kỳ kiến thiết cơ bản ngắn.
Năm đầu tiên có thể coi như năm KTCB, còn các năm sau cây đã ở trong
thời kỳ kinh doanh. Trước khi trồng nho nhiệm vụ kiến tạo một môi trường
dinh dưỡng thích hợp cho cây nho là rất quan trọng như đã nói ở trên. Nho
cần được bón 30 - 40 tấn phân hữu cơ/ ha trước khi trồng. Chọn các loại
phân thích hợp để bón lót cho nho như các loại NPK 14-8-6; 18-8-8-6; 19-7-
8; 20-10-5; 20-10-10 v.v Với các loại phân này tính toán để bón lót cho
mỗi gốc được 30 - 50g N. Sau đó tiếp tục bón thúc cho nho ở các thời kỳ.
Liều lượng dành cho vườn nho có mật độ > 2000 cây/ha như sau.
 Một tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 15 g N.
 Ba tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 20g N.
 Năm tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 25 g N.
 Bảy tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 30 g N.
 Chín tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 35 g N.
 Một năm sau trồng: Bón mỗi gốc 40 g N. (lượng phân lân và kali
được ăn theo trong phân hỗn hợp NPK)
Mỗi liều phân trên có thể chia bón làm 2 lần, hoặc rải đều trên toàn hầm nho,
tránh bón quá tập trung có thể gây xót rễ. Bón phân phải luôn kèm theo tưới
nước để cây có thể sử dụng được ngay và tránh gây ra sự tranh chấp nước
với cây, vì phân ở nồng độ cao sẽ giữ nước.
Thời kỳ kinh doanh: Khi cây nho bước sang thời kỳ kinh doanh chọn phân
bón ở các thời kỳ như sau.
- Sau khi thu hoạch: Mục đích bón lúc này là tiếp tục nuôi bộ lá làm cơ sở
cho sự tích lũy dinh dưỡng để bắt đầu 1 chu kỳ sau. Loại phân đưa vào phải
có tác dụng duy trì bộ lá nhưng không kích thích ra chồi mới. Chọn các loại
phân sau để bón - NPK 11-7-14; 14-7-14, 10-5-10; 15-10-15; 16-6-16; 16-8-
16; 17-10-17; 20-15-20 v.v Lượng bón được tính toán khoảng 30 g N/gốc
(mật độ > 2000 cây/ha).

- Trước khi cắt cành: Thời kỳ này thường là 1-2 tháng sau thu hoạch. Bón
thời kỳ này nhằm chuẩn bị dinh dưỡng sẵn sàng cho cây sau khi đâm chồi.
Chọn các loại phân như NPK 14-8-6; 18-8-8-6; 19-7-8; 20-10-5; 20-10-10
v.v để bón. Lượng bón được tính toán khoảng 25 g N/gốc (mật độ > 2000
cây/ ha).
- Khi bắt đầu có trái: Khi có những trái đầu tiên lớn bằng đầu ngón tay út thì
bón. Chọn các loại phân như NPK 11-7-14 hay 20-7-25 và các loại phân có
hàm lượng Kali cao khác để bón. Lượng bón được tính toán khoảng 40 g
N/gốc (mật độ > 2000 cây/ha).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×