TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:
ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
Mục Lụcc Lục Lụcc
MỞ ĐẦU..................................................................................................1
NỘI DUNG..............................................................................................4
CHƯƠNG 1:....MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ DUY
LÝ LUẬN VÀ ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CHUNG VỀ MƠ
HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI:...............................................................4
1.1 Một số vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới tư duy
lý luận....................................................................................................4
1.1.1 Khái niệm về tư duy lý luận......................................................4
1.1.2 Khái niệm về đổi mới tư duy lý luận........................................5
CHƯƠNG 2:.....NHỮNG QUAN NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA MƠ
HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY:......6
2.1 Những quan niệm của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam....6
2.1.1 Quan niệm về mô hình CNXH ở Việt Nam trước đổi mới......6
2.1.2 Quan niệm về mơ hình CNXH ở Việt Nam từ 1986 đến nay..6
2.2 Đặc trưng của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm
1986 đến nay:........................................................................................7
CHƯƠNG 3:.....THÀNH TỰU VÀ THÁCH THỨC CỦA MƠ HÌNH
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ VẤN
ĐỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA:..................................................................................................11
3.1 Thành tựu của mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời kỳ đổi
mới.......................................................................................................11
3.2 Thách thức của mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời kỳ đổi
mới.......................................................................................................15
3.3 Vấn đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay......................................................................................18
KẾT LUẬN............................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................23
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn vấn đề nghiên cứu :
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, Việt Nam luôn kiên
định đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học do
C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập, V.I. Lênin bổ sung phát triển. Những
quan điểm duy vật lịch sử của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin về sự
thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội, về những đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội và thực tiễn sinh động của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô Viết trở thành tiền đề soi sáng con
đường phát triển của những nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở
châu Á nổi bật là Trung Quốc với quan điểm về “chủ nghĩa xã hội mang
đặc sắc Trung Quốc”, ở Mỹ Latinh nổi lên mơ hình "chủ nghĩa xã hội ở
thế kỷ XXI" lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng và tiến bộ
của Ximôn Bôliva, tư tưởng nhân đạo Thiên Chúa giáo làm nền tảng tư
tưởng. Kế thừa tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo, linh
hoạt vào điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
lên những quan điểm lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Về
chính trị, đó là chế độ do nhân dân làm chủ, một nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Nền kinh tế Việt Nam đang xây dựng là nền kinh tế phát
triển cao gắn với sự phát triển của sức sản xuất, của khoa học kỹ thuật,
với các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế phù hợp. Mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội Việt Nam là giữ gìn cốt cách dân tộc đồng thời với tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo mơi trường sống bình đẳng, dân chủ,
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân. Nếu vậy, “đổi mới tư duy lý
luận về mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ 1986 đến nay như thế
nào ?” Đây cũng chính là đề tài em chọn để làm kết thúc mơn học của
mình.
2. Những cơng trình nghiên cứu có liên quan
- Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm
đổi mới (1986 2005), trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị
quốc gia, H,2006.
- Nguyễn An Ninh: Quá trình phát triển nhận thức lý luận về mơ
hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí lý luận chính trị.
- Lại Văn Tồn: “Đổi mới tư duy lý luận- tư duy lý luận trong sự
nghiệp đổi mới”, tạp chí triết học, số 1-1989.
- Mạch Quang Thắng (chủ biên) (2010): Vận dụng và phát triển
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb.
Lao động, Hà Nội.
- Nguyễn Phú Trọng (chủ biên) (2001): Về định hướng xã hội chủ
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
- Vũ Văn Phúc (2009): Lý luận và thực tiễn về thời kỳ quá độ lên
chủ
nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 1/11/2016, của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, Về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp
tục đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Báo kiếm toán Nhà nước: Nâng cao vai trò, năng lực của khu
vực kinh tế tư nhân (31/10/2019).
- Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI,
VII, VIII, IX, X), Phần I.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đổi mới tư duy lý luận về mơ hình chủ
nghĩa xã hội
Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam, từ 1986 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là để làm rõ những thay đổi trong tư
duy của đảng ta về mơ hình xã hội chủ nghĩa ở nước ta từ năm 1986 tới
nay.
Để đạt mục đích đó đề tài sẽ giải quyết những nhiệm vụ nào? (Mỗi
nhiệm vụ sau này sẽ được giải quyết trong một chương)
Nếu là đề tài thực tiễn:
NV1: Làm rõ cơ sở lý luận giải thích những thuật ngữ có trong đề
tài.
NV2: Khảo sát thực trạng của vấn đề đổi mới nhận thức về mơ
hình CNXH ở Việt Nam. Chia làm hai giai đoạn trước 1986 và giai
đoạn sau năm 1986.
NV3: Đưa ra đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề đổi mới nhận
thức về mơ hình CNXH ở Việt Nam.
Đề tài sử dụng phân tích các vấn đề trên để chỉ ra được tư duy của
Việt Nam về chủ nghĩa xã hội từ năm 1986 tới nay
Việc nghiên cứu đề tài giúp ta hiểu hơn về những thay đổi trong tư
duy của nước ta về chủ nghĩa xã hội trong 1986 tới nay , giúp cho chúng
ta rút ra được những thành quả và những mặt hạn chế để tiếp tục thay đổi
đẩy nhanh đất nước lên chủ nghĩa xã hội
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về kinh tế. Đồng thời có tham khảo một số cơng
trình nghiên cứu, sách báo, tạp chí, liên quan đến nội dung được đề cập
đến trong đề tài.
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
được sử dụng bao gồm: phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, tổng kết
thực tiễn,…
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 3 chương 6 Tiết
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ
ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CHUNG VỀ MƠ HÌNH CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
1.1 Một số vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới
tư duy lý luận
1.1.1 Khái niệm về tư duy lý luận
Có nhiều cách định nghĩa tư duy khác nhau. Tư duy lý luận là
trình độ cao hơn về chất so với tư duy kinh nghiệm, với sản phẩm là tri
thức lý luận, khác với tổng số những tri thức kinh nghiệm mảnh đoạn, tri
thức lý luận là hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật chỉ ra tính
tất yếu, phổ quát bao trùm toàn bộ biện chứng của đối tượng. Tri thức lý
luận là sản phẩm dựa trên sự tổng hợp, khái quát các tri thức về tự nhiên,
xã hội trong quá trình hoạt động của con người hướng đến sự giải thích,
làm sáng tỏ những mối liên hệ phổ biến và các quy luật phát triển của
hiện thực khách quan. Sức mạnh của tri thức lý luận đã vượt qua cái bề
ngoài hình thức của đối tượng, vượt lên những cái thường biến, sinh
động của đối tượng để thấy được những mối liên hệ bên trong, lắng
đọng, ít biến động, những quan hệ bản chất mà bằng nhận thức trực tiếp,
riêng lẻ không thấy nhận thấy được. Tư duy lý luận phản ánh bản chất,
quy luật ở các cấp độ các giai đoạn các hình thức của sự vật, hiện tượng.
Nó đi vào nghiên cứu sâu tầng lớp bên trong của sự vật và bóc tách vấn
đề để phản ánh một cách sâu nhất về đối tượng, phản ánh xu thế vận
động của đối tượng nên tư duy lý luận có khả năng bao quát, bám sát sự
vận động của đối tượng cũng như có khả năng vượt lên trên và dẫn
đường định hướng cho sự vận động và phát triển của đối tượng.
Vậy tư duy lý luận là gì? Tư duy lý luận là giai đoạn cao nhất của
tư duy, là quá trình mà tư duy tiếp cận, nắm bắt hiện thực, nắm bắt nhận
thức trong tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận và được thông qua
những giả thuyết, lý thuyết có quan hệ tương hỡ trợ nhau.
1.1.2 Khái niệm về đổi mới tư duy lý luận
Trong tiếng Việt, đổi mới được hiểu là thay đổi hoặc làm thay đổi
cho tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước, đáp ứng được yêu cầu của sự phát
triển. Đổi mới là đặc điểm có tính quy luật của q trình phát triển nói
chung, của chủ nghĩa xã hội nói riêng. Càng về sau, chúng ta càng nhận
thức đầy đủ hơn về đổi mới như là vấn đề chiến lược lâu dài trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; nói bao qt tồn diện, khơng trừ lĩnh
vực nào của q trình đó.
Đổi mới cịn là q trình sửa lại những nhận thức chưa đúng về
“cái cũ”, vận dụng nó hiệu quả hơn vào thực tiễn mới. Đổi mới còn là
làm rõ cái gì là đúng của ngày hơm qua, nhưng do hồn cảnh đã thay
đổi, hơm nay khơng cịn thích hợp, cần từ tổng kết thực tiễn để khái quát
lý luận nhằm bổ sung, phát triển nhận thức, phát triển nền tảng tư tưởng
của chúng ta, nhằm làm cho nền tảng tư tưởng đó thực hiện hiệu quả hơn
chức năng là cơ sở hoạch định và triển khai đường lối của Đảng, thúc
đẩy đất nước phát triển.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu đổi mới tư duy trước hết cần đổi
mới nhận thức của con người về đối tượng, đổi mới tư duy lý luận là
phải đổi mới cách thức, thao tác tư duy, đổi mới phương pháp tư duy,
đổi mới phương pháp phản ánh đối tượng.
CHƯƠNG 2:
NHỮNG QUAN NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA MƠ HÌNH CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
2.1 Những quan niệm của mơ hình chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
2.1.1 Quan niệm về mơ hình CNXH ở Việt Nam trước đổi mới
Theo cách hiểu chung quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội là
quan niệm về chế độ kinh tế - chính trị - xã hội được xây dựng theo
nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội khoa học và phù hợp với điều kiện cụ
thể của từng quốc gia. Nó bao gồm những đặc trưng về kinh tế, chính trị
xã hội, văn hóa tư tưởng.
Giai đoạn 1954 - 1975, chúng ta chưa thể dành nhiều thời gian, trí
lực đề tư duy sâu sắc, đầy đủ về mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Do bối cảnh lịch sử, vấn đề xác định mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam lúc ấy cũng chưa đặt ra trực diện và gay gắt như sau này. Trong
một thời gian khá dài, quan niệm về mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam chịu ảnh hưởng khả sâu của mô hình Liên Xơ” Lúc đó mơ hình
Liên Xơ được coi là tốt nhất. Quan điểm của Đại hội Đảng IV (1976) về
“chế độ làm chủ tập thể XHCN” có thể coi là điển hình cho nhận thức
của Đảng ta về chế độ xã hội chủ nghĩa giai đoạn 1976 - 1986. Báo cáo
Chính trị Đại hội Đảng IV viết: “Nội dung của làm chủ tập thể bao gồm
nhiều mặt làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội làm chủ xã hội,
làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân; làm chủ trong phạm vi cả nước,
trong mỗi địa phương, mỗi cơ sở là kết hợp hữu cơ quyền làm chủ tập
thể với quyền tự do chân chính của từng cá nhân".
2.1.2 Quan niệm về mơ hình CNXH ở Việt Nam từ 1986 đến nay
Cuối những năm 70 đầu 80 của thế kỷ XX, đã xuất hiện nhiều hành
động khoán chui xé rào” của quần chúng, cán bộ cơ sở. Đô là phản ứng tự
vượt thốt mơ hình cũ về chủ nghĩa xã hội. Với tinh thần “nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật nói rõ sự thật”. Đại hội VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã tự phê phán những bất cập sai lầm trong quan niệm cũ,
về mơ hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội Đảng VI (1986) khởi đầu
cho đổi mới tư duy về mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội Đảng VI xác định trọng tâm của đổi mới tư duy là đổi mới
tư duy trên lĩnh vực kinh tế. Trước hết, quan niệm mới về kinh tế xã hội
chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh, tập thể, kinh tế gia đình và “các
thành phần kinh tế khác”. Về cơ chế quản lý kinh tế cũ, Đại hội Đảng VI
nhận định thẳng thắn: “Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ
nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế
xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cãi tạo các thành phần kinh tế
khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả gây
rối loạn trong phân phối lưu thông đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong
xã hội[5].
Tuy vậy, tư duy giai đoạn này mới bắt đầu từ đổi mới biện pháp
chữ chưa hưởng tới mơ hình mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội Đảng XII (2016) đã tổng kết rằng: những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới về lý luận, trong đó có nhận thức
về mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã “tạo tiền đề, nền tảng quan
trọng để nước ta tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ trong những năm
tới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử [10, tr.66]; tuy vậy, “lý luận về
CNXH và con đường đi lên CNXH còn một số vấn đề cần phải qua tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ [9,tr.67].
2.2 Đặc trưng của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm
1986 đến nay:
Đúng như đồng chí Tổng Bí thư đã khẳng định, "Trước đây, khi
cịn Liên Xơ và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như khơng có gì phải bàn, nó
mặc nhiên coi như đã được khẳng định". Nhưng đứng trước tình hình cải
tổ của Liên Xơ có những biểu hiện chệch hướng xã hội chủ nghĩa , Đảng
ta sớm nhận ra phải xây dựng một mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Tổng kết thực tiễn 10 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh
2011 (bổ sung, phát triển) đã bổ sung, phát triển thành tám đặc trưng chủ
nghĩa xã hội Việt Nam theo đó mơ hình xã hội chủ nghĩa thể hiện như
sau :"Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn
kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam (1986) đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân của hạn
chế, yếu kém trong nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên
trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mơ hình xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xảy dụng đã được Đảng ta chỉ ra trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội
chủ nghĩa là một xã hội gồm 6 độc trung: Do nhân dân lao động làm chủ.
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
bất cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc
trong nước bình dáng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã làm rõ một số vấn
đề về nội dung xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
-
Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một
xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ nghĩa
xã hội phải là dân giàu, nước mạnh. Dân có giàu nước mới mạnh, nước
mạnh tạo điều kiện cho dân giàu có chính đảng. Dân giàu không chỉ giàu
về của cải vật chất mà giàu cả về trí tuệ, văn hóa, tỉnh thần, đạo đức. Sức
mạnh của đất nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Nước mạnh
dựa trên nền tảng kinh tế phát triển cao, chế độ chính trị tiến bộ, dân chủ,
ổn định quốc phịng, an ninh vững mạnh, xã hội đồn kết, đồng thuận,
trong ấm ngồi êm, khơng gây thù ốn trong quan hệ quốc tế. Nước
mạnh còn thể hiện ở ý chí độc lập, tự lực, tự cường, ở bản lĩnh vững
vàng trước mọi khó khăn, thách thức.
-
Thứ hai, đề cao dân chủ, nội dung dân chủ được đặt lên
trước công bằng, văn minh. Đây là một điểm mới trong nhận thức và
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta, Dân chủ là bước tiến,
là khát vọng của con người của mỗi dân tộc. Dân chủ tư sản là bước tiến
bộ so với chế độ phong kiến. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự phát triển
chưa từng có, giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức, bất công để
tạo dựng một xã hội tốt đẹp.
-
Thứ ba, điểm nhấn mới, về kinh tế của xã hội xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam: Có nền kinh tế phải dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Nơi quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp với lực lượng sản xuất hiện đại là phản ánh đúng quy luật về
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
-
Thứ tư, về vấn đề xã hội và con người, Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển năm 2011) diễn đạt khái quát: Con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện. Việc xóa bỏ
áp bức, bóc lột, bất cơng chỉ là giải pháp để đạt tới mục đích vì cuộc
sống tốt đẹp của con người.
Mục tiêu xây dựng, phát triển con người trong chế độ xã hội chủ
nghĩa cần xác định con người, nhân dân Việt Nam là chủ thể xây dựng,
tạo dựng xã hội tốt đẹp và được hưởng chính những thành quả đó. Con
người trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là những người năng
động, có trí tuệ, học vấn cao, vươn tới đỉnh cao của trị thức nhân loại. Để
làm rõ và cụ thể hóa những nội dung của Cương lĩnh, Văn kiện Đại hội
XII của Đảng xác định 4 trụ cột phát triển đất nước trong thời kỳ đổi
mới: Thời kỳ đổi mới đòi hỏi phải phát triển đất nước tồn diện, đồng bộ
hơn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối
ngoại, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là
then chốt; xây dựng văn hóa, con người là nền tảng tinh thần; tăng cường
quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên, Điểm mới nổi bật là:
Văn kiện Đại hội XII của Đảng không chỉ xác định xây dựng văn hóa là
nền tảng tinh thần mà cả xây dựng con người là nền tảng tinh thần. Đây
chính là mục tiêu, bản chất chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng.
CHƯƠNG 3:
THÀNH TỰU VÀ THÁCH THỨC CỦA MƠ HÌNH CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ VẤN ĐỀ KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
3.1 Thành tựu của mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời kỳ
đổi mới
Từ năm 1954 đến 1985 chúng ta chưa bỏ nhiều thời gian, công sức
để tư duy đầy đủ về mơ hình chủ nghĩa xã hội, hơn nữa sự thành công
của chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đơng Âu giai đoạn đó là cơ sở để
chúng ta tin rằng mơ hình chủ nghĩa xã hội Liên Xơ là đúng, mặt khác từ
1954 đến 1975, chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đạt được thành công
nhất định trở thành nhân tố quyết định cho chiến thắng ở tiền tuyến miền
Nam. Sau 1 thập kỷ thống nhất, hòa bình, những khuyết tật, sai lầm của
mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện thực kiểu Liên Xô mới trở nên trầm trọng,
đặt ra yêu cầu khẩn thiết của việc đổi mới. Đảng đã xác định đổi mới tư
duy là khâu đột phá.
Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam đã đạt được một số nhiều thành tựu bước đầu thể hiện
qua phương châm, Trước Đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một
nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả
hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái. Thí dụ, cho
đến nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm
ngàn trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi tác động của chất độc da cam/dioxin
do quân đội Mỹ sử dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam. Theo
các chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn
sạch hết bom mìn cịn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và
phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20
năm. Tình hình khu vực và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều
bất lợi cho chúng ta. Lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu
thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới
mức nghèo khổ.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và
phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với
mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỡi năm. Quy mơ GDP không
ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành
nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người
tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các
nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực
triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh
lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản
khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng
công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85%
GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên
540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ
ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài
tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu
nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc
nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ
kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và
20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngồi.
Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc
anh em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã
giúp đất nước thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những
năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỉ lệ hộ nghèo trung
bình mỡi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn
5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020
theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60%
số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nơng thơn đều có đường ô
tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ
sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo
dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hồn
thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập
giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng
gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết
đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp
dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng
cường y tế phịng ngừa, phịng, chống dịch bệnh, hỡ trợ các đối tượng có
hồn cảnh khó khăn. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi
được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ
tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng
từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước
phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người
có cơng, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho
phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hoá cũng
được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hoá phát triển phong phú, đa dạng.
Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong
những nước có tốc độ phát triển cơng nghệ tin học cao nhất thế giới.
Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu
trong việc hiện thực hoá các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số
phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm
nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ
phát triển.
Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại
những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế
phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh,
liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải
quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối
ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc
gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng
được củng cố. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm
2006) đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã giành được "những thành tựu
to lớn có ý nghĩa lịch sử". Trên thực tế, xét trên nhiều phương diện,
người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so với
bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những lý do giải thích vì
sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu
thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng,
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa khơng những có hiệu quả
tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn
nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế.
Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối
cảnh đại dịch Covid-19 và suy thối kinh tế tồn cầu bắt đầu từ đầu năm
2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện
tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh: Qua 35
năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về
đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực
hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, tồn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với
tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả
một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách
quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối
đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân
tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
3.2 Thách thức của mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời kỳ
đổi mới
Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn về mặt lý luận và kinh tế
xã hội, song CNXH hiện thực ở Việt Nam trong hơn 33 năm đổi mới vẫn
còn tồn tại những hạn chế nhất định:
-
Thứ nhất, đó là cộng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để
định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học ch định đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua
tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
-
Thứ hai, đổi mới chính trị đơi khi chưa bắt kịp đổi mới kinh tế,
nên tạo ra nhiều khoảng trống pháp lý; nhiều cơ chế, chính sách cịn
thiếu, chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nhiều chính
sách hiện khơng cịn phù hợp, thậm chí cản trở sự phát triển.
-
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta cao hơn mức
trung bình của khu vực và thế giới, song chất lượng tăng trưởng chưa
cao, tỉ lệ đóng góp của vào tăng trưởng GDP còn thấp, nguy cơ rơi vào
bẫy thu nhập trung bình. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương
xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động.
-
Thứ tư, bất bình đẳng về thu nhập, hưởng thụ có xu hướng
gia tăng. Mặc dù Đảng, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi, ban hành
nhiều chính sách hỡ trợ về cơ sở vật chất, đào tạo nghề, hướng nghiệp để
các hộ nghèo, hộ cận nghèo, các hộ kinh tế cá thể, doanh nghiệp vừa và
nhỏ vươn lên làm giàu, xích lại gần với nhóm trung lưu, giàu có trong xã
hội. Song, khoảng cách giữa nhóm người giàu và nhóm người nghèo về
thu nhập vẫn khơng giảm, mà có xu hướng ngày càng tăng. Năm 2002,
mức chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người giàu và nhóm người
nghèo là 8,1 lần, năm 2004 là 8,3 lần, năm 2006 là 8,4 lần, năm 2008 là
8,9 lần và năm 2010 là 9,4 lần 18. Một báo cáo của Oxfam năm 2017
cho biết, năm 2014 Việt Nam có 210 người siêu giàu (tài sản rịng trên
30 triệu đô la Mỹ), chiếm và con số này, sẽ tăng lên 403 vào năm 2025.
-
Thứ năm, giáo dục - đào tạo chăm sóc y tế khơng được Nhà
nước bao cấp như cơ chế cũ, nên phần đông số người nghèo khơng đủ
tiền chữa bệnh, con em khơng có tiền đóng học phí phải bỏ học. Như
vậy, sẽ dẫn đến tình trạng một bộ phận khá lớn lực lượng lao động trong
tương lai sẽ khơng đủ sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chun mơn
nghiệp vụ, sẽ rất khó tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, gây áp
lực lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm.
-
Thứ sáu, ô nhiễm môi trường ở mức báo động. Ba môi
trường, đất, nước, không khi đều diễn ra tình trạng ơ nhiễm nghiêm
trọng, đây là một thách thức lớn cho sự tăng trưởng bền vững trong thời