Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Chính trị học nâng cao quan điểm của chủ nghĩa mác – lênin về quyền lực chính trị và vấn đề kiểm soát quyền lực chính trị ở việt nam hiện nay (tiểu luận cao học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.57 KB, 33 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH TRỊ HỌC NÂNG CAO
Tên đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền lực chính trị và vấn
đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
B. NỘI DUNG......................................................................................................4
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền lực chính trị...4
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền lực chính trị.......................................................4
1.1.1. Khái niệm quyền lực chính trị.....................................................................4
1.1.2. Đặc điểm của quyền lực chính trị................................................................5
1.2. Kiểm sốt quyền lực chính trị........................................................................9
Chương 2:Thực trạng kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay 13
2.1. Những thành tựu đạt được............................................................................13
2.2. Hạn chế và nguyên nhân..............................................................................17
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sốt quyền lực
chính trị ở Việt Nam..........................................................................................20
C. KẾT LUẬN...................................................................................................31
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................32


A. MỞ ĐẦU
Quyền lực chính trị là một trong những vấn đề được các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác – Lênin chú trọng nghiên cứu. Những quan điểm của họ là sự kế
thừa và phát triển những tư tưởng chính trị của các nhà chính trị đi trước để cho
ra đời những tư tưởng chính trị tiến bộ và khoa học với nhiều giá trị vượt thời
gian.
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Do đó việc vận dụng những thành tựu


lý luận đồ sộ và sâu sắc ấy chính là điều vơ cùng quan trọng và cần thiết để có
thể xây dựng được một nền chính trị vững mạnh với cơ chế kiểm sốt quyền lực
hiệu quả giúp tạo ra một mơi trường ổn định để phát triển.
Trong thực tiễn vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền
lực chính trị, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc kiểm sốt
quyền lực, tránh tình trạng lạm dụng chức vụ quyền hạn để đạt được những lợi
ích cá nhân hẹp hịi mà chà đạp lên lợi ích của tập thể, của quốc gia dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn nhiều tồn tại hạn
chế và những vấn đề đặt ra. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước, làm suy yếu hệ thống chính trị, mất niềm tin
của nhân dân với Đảng, với Nhà nước hay các cơ quan quyền lực khác. Nếu
không khắc phục kịp thời sẽ để lại những hậu quả khơn lường, thậm chí là ảnh
hưởng đến vận mệnh đất nước, sự tồn vong của chế độ.
Chính bởi lý do đó, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ càng để thấm nhuần
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền lực chính trị. Bên cạnh đó, xem
xét thực trạng của cơ chế kiểm soát quyền lực đất nước hiện này để chỉ ra những
nguyên nhân của những tồn tại hạn chế và đưa ra những biện pháp để khắc phục
những điểm yếu kém đó nhằm giúp cho chính trị nước ta phát triển.
Bởi những lẽ trên, chúng tôi chọn đề tài “Quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về quyền lực chính trị và vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam
hiện nay” làm đề tài tiểu luận mơn Chính trị học nâng cao.


B. NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền lực chính
trị
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền lực chính trị
1.1.1. Khái niệm quyền lực chính trị
Theo C. Mác và Ph. Ăng ghen, quyền lực là một mối quan hệ xã hội,
trong đó người này hay nhóm người này chi phối hành vi của nhóm người kia

theo cách áp đặt ý chí của mình đối với người khác, buộc họ phải phục tùng;
đồng thời phân biệt rõ các loại quyền lực: 1) Quyền lực chính trị là quyền lực do
chính đảng của giai cấp nắm quyền lực nhà nước đề ra chủ trương, đường lối…
phát triển đất nước. Sở dĩ giai cấp này nắm được quyền lực nhà nước vì nó đại
biểu cho quan hệ sản xuất thống trị. 2) Quyền lực nhà nước là quyền lực công
được các giai cấp trong xã hội chấp nhận dưới hình thức niềm tin tơn giáo hoặc
ý thức về luật pháp; quyền lực trong các tổ chức kinh tế, xã hội khi mọi người
cần phải hành động chung và phối hợp với nhau. Quyền lực của giai cấp thống
trị sẽ mất đi khi xã hội khơng cịn giai cấp đối kháng, nhưng quyền lực trong tổ
chức, quản lý xã hội sẽ không mất đi cùng với sự tiêu vong của nhà nước trong
xã hội khơng cịn phân chia thành các giai cấp đối kháng. Trong tác phẩm Bàn
về quyền uy (1872), Ph. Ăng ghen cho rằng, trong xã hội hiện đại, sự phức tạp
hóa các q trình sản xuất tùy thuộc lẫn nhau đã từng bước thay thế cho hoạt
động độc lập của cá nhân riêng lẻ. Hoạt động liên hợp là hoạt động tổ chức nhau
lại, mà tổ chức thì tất yếu cần đến quyền uy. Một quyền uy nhất định, không kể
được tạo ra bằng cách nào và một sự phục tùng nhất định đều là những điều mà
trong bất cứ tổ chức xã hội nào cũng phải có.
Từ khi xã hội lồi người phân chia thành giai cấp: Thống trị và bị trị thì
quyền lực của giai cấp thống trị xuất hiện và quyền lực của giai cấp thống trị lại
chỉ tập trung vào một nhóm người hay thậm chí một người được giao quyền
thay mặt cho giai cấp thống trị để cai quản, quản lý, điều hành xã hội, thống trị
những người bị thống trị. Quyền lực trong các xã hội có giai cấp thống trị và bị
thống trị là nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, thậm chí bảo vệ lợi ích


của một nhóm người, thậm chí một người được giao quyền thống trị, cai quản,
quản lý, điều hành xã hội.
Từ đó, Mác và Ăng ghen chỉ ra rằng quyền lực chính trị là một dạng của
quyền lực trong xã hội có giai cấp. Đó là quyền lực của một giai cấp, một tập
đoàn xã hội hay của nhân dân trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội thể hiện “khả

năng của một giai cấp thực hiện lợi ích khách quan của mình”. Trong tác phẩm
Tun ngơn của Đảng Cộng sản, hai nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
viết: “Quyền lực chính trị là bạo lực có tổ chức của giai cấp để đàn áp một giai
cấp khác”. Như vậy, quyền lực chính trị ln gắn liền với quyền lực nhà nước,
phản ánh mức độ giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước của những tập đoàn
người trong xã hội để bảo vệ lợi ích của mình, chi phối các tập đồn khác. Nói
cách khác, quyền lực chính trị phản ánh mức độ thực hiện lợi ích của một giai
cấp, một nhóm người nhất định trong mối quan hệ với các giai cấp hay nhóm
người khác thơng qua mức độ chi phối quyền lực nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm của quyền lực chính trị
C. Mác và Ph. Ăng ghen quan niệm rằng, bản chất quyền lực nhà nước là
sự thống trị giai cấp, Nhà nước ra đời khi xã hội phân chia thành các giai cấp đối
kháng. Trong xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, Nhà nước là bộ máy
quyền lực mà giai cấp thống trị sử dụng để buộc giai cấp bị trị phải tuân thủ ý
chí của giai cấp thống trị. Ý chí đó bao gồm hai nội dung chính: duy trì quan hệ
sản xuất có lợi cho giai cấp thống trị và sử dụng quyền lực nhà nước để xây
dựng trật tự xã hội phù hợp với quan hệ sản xuất đó. Và đấu tranh giai cấp chính
là đấu tranh giành quyền lực, tức là giành quyền điều hành nhà nước, điều hành
quốc gia. Cũng theo Mác và Ăng ghen: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước
đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp…, những kẻ áp bức và những
người bị áp bức, luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh
không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng
kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của
hai giai cấp đấu tranh với nhau”; “các phe phái và đảng của giai cấp thống trị,
luân phiên nhau giành quyền thống trị, đã coi việc chiếm giữ và lãnh đạo bộ


máy chính phủ to lớn ấy là chiến lợi phẩm chủ yếu của kẻ chiến thắng. Trọng
tâm hoạt động của nó là tạo ra những đội quân thường trực to lớn, một bầy sâu
mọt ăn bám nhà nước và khoản cơng trái khổng lồ”. Các cuộc cách mạng xã hội

chính là cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các giai cấp với nhau để cố giữ lấy
quyền điều hành nhà nước, điều hành quốc gia cho những giai cấp cũ và sự vùng
lên giành lấy quyền điều hành nhà nước, điều hành quốc gia cho những giai cấp
mới. Khi đi sâu phân tích về quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước ở các nước
tư bản chủ nghĩa, C. Mác và Ph. Ăng ghen đã phát hiện những bất hợp lý trong
tổ chức xã hội, trong sử dụng quyền lực và kiểm soát quyền lực của xã hội tư
bản, từ đó phát hiện và chỉ dẫn những định hướng chiến lược cho các đảng cộng
sản trong lãnh đạo quần chúng làm cách mạng xây dựng một xã hội mới, xã hội
cộng sản chủ nghĩa, với giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Từ kinh nghiệm của Công xã Paris, C. Mác cho rằng, trong xã hội XHCN,
những nhân viên của nhà nước vô sản không chỉ được bầu ra, mà còn bị bãi
miễn bất cứ lúc nào; lương cho họ không cao hơn lương công nhân; các tổ chức
đại biểu cho giai cấp lao động phải thi hành ngay những biện pháp khiến tất cả
mọi người lao động đều có thể làm chức năng kiểm sát và giám thị, khiến tất cả
mọi người đều tạm thời biến thành “quan liêu” và do đó khiến khơng một ai có
thể biến thành quan liêu được nữa.
C.Mác đã sử dụng khái niệm “tha hóa” để lý giải hiện tượng cơng chức và
bộ máy nhà nước, vốn dĩ là một cơ cấu do xã hội tạo ra vì mục đích làm cho xã
hội con người tốt hơn lại trở nên xa lạ với những người tạo ra nó, ni dưỡng
nó, thậm chí bị nó áp bức. Tha hóa lao động là nguyên nhân của hiện tượng tha
hóa nhà nước, tha hóa đạo đức cơng chức. Để khắc phục hiện tượng tha hóa, C.
Mác đề nghị cải tạo xã hội theo các nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản, xóa bỏ
nhà nước của các giai cấp áp bức, bóc lột, xây dựng nhà nước kiểu mới của giai
cấp vô sản. Từ kinh nghiệm của Công xã Paris, C. Mác cho rằng, nên tổ chức xã
hội dưới hình thức tự quản, thay quân đội thường trực bằng dân quân, lấy thầy
giáo thay cho tăng lữ, tòa án là cơ quan của công xã, người lao động sẽ thông


qua bầu cử để chọn ra những đại diện tốt nhất cho mình. Khi đó chức năng của
nhà nước sẽ thu gọn vào các chức năng xã hội vì lợi ích chung.

Phê phán tình trạng dân chủ giả hiệu của nhà nước tư sản, C. Mác đề xuất
mơ hình nhà nước mới cho xã hội XHCN là: quyền lực nhà nước là thống nhất
và phải thuộc về quần chúng nhân dân lao động. Phân tích mơ hình cơng xã
Paris, C.Mác cho rằng: “Công xã không phải là một cơ quan đại nghị mà là cơ
quan hành động, vừa lập pháp, vừa hành pháp”. Mọi quyền lực đều tập trung
vào các công xã và công xã phải được thiết lập ở tất cả các trung tâm công
nghiệp lớn, các tỉnh, huyện và tất cả những thơn xóm nhỏ nhất, nghĩa là được tổ
chức thành một hệ thống từ trung ương đến địa phương. Về mặt tổ chức, khác
với các chính phủ cũ - nơi có đội qn binh lính thường trực rất lớn với bộ máy
quan liêu đồ sộ, C.Mác đồng tình với cách tổ chức ở Cơng xã Paris, nơi quân đội
thường trực được thay thế bằng những đội dân binh, đội ngũ viên chức của tất cả
các ngành được bảo đảm công vụ rõ ràng. C. Mác nhấn mạnh nguyên tắc tự
quản và công khai trong tổ chức bộ máy nhà nước XHCN. Ơng mong muốn:
“Tồn thể nước Pháp có thể sẽ được tổ chức thành cơng xã tự cai quản và tự
quản lý lấy mình”. Cơ quan tự quản đó là nhà nước của giai cấp cơng nhân. Cơ
chế này địi hỏi tính tự giác của các viên chức và của các cơ quan của công xã
phải rất cao. Cơ quan cơng xã phải kiểm sốt chặt chẽ hoạt động của các viên
chức: “Công xã không tự cho mình là khơng bao giờ sai lầm, như tất cả các
chính phủ cũ vẫn tự nhận là như thế, Cơng xã công bố tất cả những báo cáo hội
nghị của mình, thơng báo tất cả những hoạt động của mình, nói cho cơng chúng
biết tất cả những khuyết điểm của mình”.
Kế thừa những quan điểm của Mác và Ăng ghen về quyền lực chính trị và
quyền lực nhà nước, V.I.Lênin nêu ra một luận điểm rất quan trọng của là: “Vấn
đề chính quyền nhà nước nhất định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách
mạng. Giai cấp nào giữ chính quyền? Điều đó quyết định tất cả”.
Từ những quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin ta có
thể khái qt chung quyền lực chính trị có những đặc điểm chủ yếu sau:


- Quyền lực chính trị bao giờ cũng mang tính giai cấp, phản ánh lợi ích

của giai cấp thơng qua tổ chức đại diện của mình là đảng chính trị của giai cấp
thống trị.
- Quyền lực chính trị tồn tại trong mối liên hệ lợi ích khi đặt nó trong
quan hệ với giai cấp khác. Tuỳ thuộc vào tương quan, so sánh lực lượng mà các
giai cấp ở vào vị thế khác nhau trong quan hệ với việc sử dụng quyền lực chính
trị. Chẳng hạn, trong mối quan hệ với giai cấp cơng nhân ở các nước tư bản thì
quyền lực của giai cấp tư sản là thống nhất. Nhưng trong mối quan hệ nội tại, lợi
ích của các nhóm tư sản khác nhau cũng không giống nhau và do đó giữa các
nhóm này khơng chỉ có mâu thuẫn mà đơi khi cịn đấu tranh gay gắt với nhau về
lợi ích, về sử dụng quyền lực chính trị của mình.
- Quyền lực chính trị của giai cấp thống trị được thực hiện trong xã hội
thông qua phương tiện chủ yếu là nhà nước. Nhà nước là bộ máy quyền lực đặc
biệt nằm trong tay giai cấp thống trị để hiện thực hóa các lợi ích của giai cấp này
trong xã hội trong mối tương quan với các giai cấp khác. Quyền lực nhà nước là
một dạng của quyền lực chính trị mang tính cưỡng chế đơn phương đối với xã
hội. Trong toàn bộ cấu trúc xã hội hiện đại, chỉ duy nhất nhà nước có khả năng
hình thành và sử dụng pháp luật cùng với các công cụ cưỡng chế khác để buộc
các cá nhân công dân và tổ chức phải tuân thủ các quy định mà mình đặt ra.
- Quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước có mối quan hệ qua lại chặt
chẽ:
+ Quyền lực nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị.
Việc chuyển quyền lực nhà nước từ tay giai cấp này sang tay giai cấp khác sẽ
làm thay đổi bản chất của chế độ chính trị.
+ Mọi dạng quyền lực nhà nước đều mang tính chính trị nhưng khơng
phải mọi quyền lực chính trị đều có tính chất của quyền lực nhà nước. So với
quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị rộng hơn, đa dạng hơn về phương pháp
thực hiện cũng như hình thức biểu hiện.


1.2. Kiểm sốt quyền lực chính trị

Kế thừa quan điểm duy vật lịch sử của C. Mác và Ph. Ăng ghen,
V.I.Lênin cho rằng, đấu tranh để giải quyết vấn đề quyền lực, mà trước hết là
quyền lực nhà nước, chỉ có thể là cuộc đấu tranh chính trị với ý nghĩa là trình độ
phát triển cao nhất của đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp ở trình độ đấu
tranh chính trị là dấu hiệu chín muồi của cuộc cách mạng xã hội. Vấn đề của
mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền nhà nước. Đấu tranh của giai
cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh giành lấy quyền lực chính
trị, quyền lực nhà nước về tay giai cấp vô sản. Quyền lực chính trị, quyền lực
nhà nước của giai cấp vơ sản là nhà nước và nền dân chủ vô sản.
Nhấn mạnh bản chất giai cấp của nhà nước, V.I.Lênin cho rằng: “Nhà
nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt, nó là tổ chức bạo lực dùng để trấn áp
một giai cấp nào đó”. Tuy nhiên, nhà nước chun chính vô sản, mặc dù là
quyền lực của giai cấp vô sản và nhân dân lao động, nhưng là quyền lực của số
đông, của một xã hội đang tiến đến không còn giai cấp đối kháng nên là nhà
nước kiểu mới, dân chủ kiểu mới.
Để giành được chính quyền, Đảng Cộng sản cần: “Đấu tranh chống các
thế lực phản động có nghĩa trước hết là tách quần chúng ra khỏi ảnh hưởng tư
tưởng của thế lực phản động”. Đảng Cộng sản phải làm chủ cả ba hình thức đấu
tranh: kinh tế, chính trị và đấu tranh lý luận. Đặc biệt, V.I.Lênin đề cao vai trị
của các tổ chức chính trị - xã hội, coi đó là những thực thể cấu thành hệ thống
chun chính vơ sản. Ơng nhấn mạnh sự cần thiết xây dựng đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản trong điều kiện đã nắm chính quyền sao cho Đảng Cộng sản đủ
năng lực, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm và danh dự của thời đại. Trước thực tế
xuất hiện một số cán bộ lãnh đạo đảng thiếu tri thức, kinh nghiệm, trình độ văn
hóa thấp, có thái độ quan liêu, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn, thậm chí thối
hóa, biến chất bởi tham vọng quyền lực, thói kiêu ngạo cộng sản, vụ lợi cá nhân,
nhận hối lộ…, V.I.Lênin đề cao nhiệm vụ chỉnh đốn đảng trong sạch, vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, coi đó là nhiệm vụ có tính then chốt.



Đặc biệt, trong xây dựng thể chế dân chủ mới, dân chủ XHCN, V.I.Lênin
cho rằng, sau khi giai cấp vô sản nắm được chính quyền, cuộc đấu tranh của nó
vì những mục tiêu dân chủ không những không dừng lại mà còn tiếp tục trong
những điều kiện mới với những nội dung, hình thức, chất lượng mới ngày càng
đầy đủ và triệt để hơn và vạch rõ: tính chất XHCN của dân chủ vô sản: một là,
các cử tri đều là quần chúng lao động; hai là, mọi thủ tục cũ đều phải phá bỏ,
nhân dân sẽ xây dựng lại các thủ tục, thời hạn bầu cử và có tồn quyền bãi miễn
những người mà họ đã bầu ra; ba là, hình thành một tổ chức quần chúng tốt nhất
của đội tiền phong của những người lao động để giúp tồn thể nhân dân có thể
làm chủ trong thực tế. Ngoài ra cần xây dựng chế độ tự quản như là một hình
thức của chế độ dân chủ vơ sản. Từng bước thiết lập một nền tự quản địa
phương rộng rãi. Ông chủ trương “Phế bỏ chế độ đại nghị; hợp nhất công tác lập
pháp và công tác hành pháp của nhà nước lại; hợp nhất công tác quản lý và công
tác lập pháp”.
Về cơ chế thực hiện dân chủ, V.I.Lênin cho rằng, nội dung dân chủ phải
được đảm bảo bằng Hiến pháp, bằng hệ thống pháp luật. Người đề nghị xây
dựng luật, xây dựng cơ chế để quần chúng kiểm tra, giám sát cơ quan nhà nước
và cán bộ quản lý nhà nước, coi đó là biện pháp hữu hiệu chống quan liêu, tham
ơ, lãng phí. Do đó, khơng phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc
lệnh về dân chủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho
những người đại diện nhân dân trong những cơ quan đại biểu là đủ, mà phải xây
dựng ngay chế độ dân chủ từ cơ sở, dựa vào ý kiến của bản thân quần chúng, với
sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, khơng có
sự giám sát từ trên, khơng có quan lại. Người nhấn mạnh: xây dựng và thực hiện
quyền lực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là mục tiêu, là động lực
của cách mạng XHCN. Cần xác lập và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và hiệu
lực quản lý của Nhà nước nhằm đưa lại nhiều nhất những cơ hội để nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình, phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần
chúng trong xây dựng chế độ mới. Thành công trong lãnh đạo và quản lý là ở



chỗ biết sống trong lòng quần chúng, biết tâm trạng quần chúng và giữ được
lòng tin tuyệt đối của quần chúng.
Bên cạnh đó, V.I.Lênin phát động phong trào cải cách bộ máy quản lý nhà
nước. Theo Người, bộ máy vững mạnh phải thích nghi được với mọi sự biến
đổi. Muốn chế độ vững mạnh thì bộ máy quản lý nhà nước phải hồn tồn phục
tùng mục tiêu chính trị. Thành phần bộ máy phải bảo đảm được việc đông đảo
quần chúng có thể kiểm tra được mọi cơng việc của nhà nước. V.I.Lênin đưa ra
chủ trương cơng nhân hóa các cục, các cơ quan trung ương, các bộ phận của
chính quyền Xơ viết nói chung để cho đơng đảo quần chúng học được cách quản
lý nhà nước và đẩy mạnh cải cách bộ máy hành pháp vì: “Bộ máy ấy rất thường
không phục vụ chúng ta mà lại chạy ngược lại chúng ta. Muốn cải thiện nó phải
có nhiều cố gắng và tài năng. Chống quan liêu đòi hỏi phải nâng cao khơng
ngừng trình độ văn hóa của cán bộ và phải rèn luyện cả đức tính kiên trì”.
V.I.Lênin đề cao tính thượng tơn pháp luật trong vận hành nhà nước XHCN và
tính thống nhất của pháp luật trong tồn quốc, chống lại thói quen tùy tiện, địa
phương chủ nghĩa. V.I.Lênin viết: “Chính phủ ta đã đấu tranh khơng khoan
nhượng chống thói chuyên quyền và những hành động vi phạm pháp luật”. Theo
đó, Người mong muốn: các Xơ viết địa phương và cơ quan trực thuộc của nó đề
ra được các biện pháp để đấu tranh với thói chuyên quyền và những hành động
vi phạm pháp luật. Để đảm bảo tính pháp chế trong hành pháp, ủy viên cơng tố
phải chịu trách nhiệm để các quyết định của Xô viết địa phương không đi ngược
lại pháp luật.
Theo V.I.Lênin, quan liêu là “những nhân vật có đặc quyền, thốt ly quần
chúng, và đứng trên quần chúng”. Nguồn gốc của quan liêu, tham nhũng là tư
tưởng tư hữu và tính bảo thủ. Để giải quyết tận gốc quan liêu, tham nhũng phải
giải quyết triệt để vấn đề giai cấp và tư hữu, Người viết: “Chừng nào mà bọn tư
bản chưa bị tịch thu tài sản, chừng nào mà giai cấp tư sản chưa bị lật đổ, thì
ngay những viên chức của giai cấp vơ sản cũng khơng thể tránh khỏi “quan liêu
hóa” đến một mức nào đó”. V.I.Lênin khẳng định: “Chế độ dân chủ vô sản là

chế độ sẽ thi hành ngay lập tức những biện pháp để chặt tận gốc chế độ quan


liêu và sẽ có thể thi hành những biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ phá hủy toàn bộ
chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ cho nhân
dân”.
Để chống quan liêu, V.I.Lênin chủ trương: “lựa chọn người và kiểm tra sự
thực hiện. Đó là vấn đề then chốt”. Cán bộ phải học tập và rèn luyện tinh thần,
thái độ và phương pháp ứng xử dân chủ với nhân dân cùng với việc học các tri
thức khoa học, luật pháp, kỹ thuật quản lý, học bn bán. Phải đề phịng tình
trạng cán bộ thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng đem chức vụ ra dọa nạt dân chúng.
V.I.Lênin yêu cầu phải lựa chọn, đào tạo, thử thách cán bộ bằng một sự kiểm tra
nghiêm ngặt, nhất là đối với cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra lấy từ đội
ngũ công, nông ưu tú nhất. Đặc biệt là khuyến khích đưa người ngồi đảng vào
làm trong bộ máy nhà nước. Đồng thời, tăng cường kỷ luật lao động, tăng
cường sự kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ, xử lý nghiêm những kẻ quan
liêu. Phải tạo điều kiện để quần chúng lao động tham gia kiểm tra, kiểm soát.
Mọi người đều phải tham gia kiểm tra, kiểm sốt. Kiểm tra khơng mang nghĩa
xấu mà mang nghĩa cung cấp thơng tin để có quyết định đúng.


Chương 2: Thực trạng kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt
Nam hiện nay
2.1. Những thành tựu đạt được
Trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng, cơng tác xây dựng Đảng và
chính quyền nhà nước, trong đó có vấn đề kiểm sốt quyền lực ln ln được
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng. Đặc biệt, từ sau
khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa ra đời, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, vấn đề kiểm soát quyền
lực nhằm xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững

mạnh, bảo đảm cho sự bền vững của chế độ và sự thắng lợi của công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội càng được chú trọng hơn,
bắt đầu từ nhận thức về sự cần thiết, ý nghĩa, yêu cầu và phương pháp, cách tiếp
cận vấn đề kiểm soát quyền lực chính trị.
Đến giai đoạn hiện nay, Đảng ta vẫn kiên định về nhận thức sâu sắc việc
phải có cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị. Theo đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng có bài viết mang tính tổng hợp những tinh hoa về lý luận và thực tiễn của
Đảng trong suốt quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
Trong bài viết ấy, người đứng đầu Đảng ta đã nêu bật ra rất nhiều vấn đề hệ
trọng của đất nước. Tuy không đề cập trọn vẹn về vấn đề kiểm sốt quyền lực
chính trị nhưng qua toàn bộ tác phẩm, vấn đề kiểm sốt quyền lực trong thể chế
chính trị ở nước ta có thể khái qt ở những nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, về tính tất yếu khách quan của việc thực thi quyền lực chính trị
và kiểm sốt quyền lực trong thể chế chính trị.
Xã hội nào muốn tồn tại, phát triển cũng đều phải được quản trị bằng hệ
thống chuẩn mực đạo đức xã hội và bằng hệ thống luật pháp, nhất là trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Trong đó nhấn mạnh một đất
nước, một xã hội muốn tốt đẹp thì bên cạnh sự giáo dục, sự khuyên nhủ, càng
phải có kỷ cương, phép nước, phải có pháp luật nghiêm minh để bảo vệ cái tốt,


cái đúng; răn đe, trừng trị những cái xấu, cái sai, có hại cho dân cho nước, tức là
phải có sự quản lý bằng cơ chế, pháp luật, phải có phép nước”.
Như vậy, quyền lực trong thể chế chính trị là vấn đề khơng thể thiếu để
duy trì trật tự xã hội, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng nhưng quyền lực
chính trị cũng có xu hướng bị lạm dụng để vun vén lợi ích cá nhân bởi những
người được trao nắm quyền. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân được nhân cử ra để
duy trì trật tự pháp lý đó cũng có thể lạm quyền, lộng quyền và vi phạm pháp
luật và vì thế, cũng cần phải có chế tài xử lý nghiêm minh để xã hội thực sự

cơng bằng, thể hiện thượng tơn pháp luật. Vì vậy, kiểm sốt quyền lực chính trị
là tất yếu khách quan đối với bất cứ thể chế chính trị nào.
Thứ hai, về vai trị của kiểm sốt quyền lực trong thể chế chính trị một
đảng duy nhất cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Thể chế chính trị ở nước ta có những nét đặc thù: Đảng Cộng sản Việt
Nam là lược lượng duy nhất được nhân dân thừa nhận giữ vai trò lãnh đạo Nhà
nước và xã hội; Nhà nước quản lý xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và phục vụ
lợi ích của nhân dân; Nhân dân làm chủ thơng qua các hình thức dân chủ và đại
diện. Các thành tố trong hệ thống chính trị đều thống nhất về mục tiêu phấn đấu
vì lợi ích của nhân dân. Đây là nét khác biệt với các thể chế chính trị khác bởi
họ bảo vệ trước hết cho lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Đồng chí Tổng Bí thư giải thích rõ bản chất của chế độ chính trị của nước
ta: “Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi
ích của nhân dân, là hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mơ hình
chính trị và cơ chế vận hành tổng quan là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và
Nhân dân làm chủ… Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền
lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng
Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân


dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân, nơng dân và trí thức do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân
dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”. Nhân dân tin tưởng uỷ quyền,
trao quyền lực chính trị cho Đảng, cán bộ, công chức nhà nước trở thành công

bộc của nhân dân. Vì thế, Tổng Bí thư u cầu phải:“Đẩy mạnh phân cấp, phân
quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền
lực”.
Thứ ba, về nội dung chính của kiểm sốt quyền lực chính trị ở nước ta
hiện nay.
Kiểm sốt quyền lực chính trị đương nhiên phải bằng cơ chế và tổ chức
thực thi cơ chế. Cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị là hệ thống các thiết chế tổ
chức thực hiện và phương thức vận hành để kiểm sốt quyền lực trong thể chế
chính trị nhằm làm cho các quy định về quyền và thực hiện quyền lực chính trị
được thực hiện đầy đủ và đúng đắn. Nội dung của kiểm soát quyền lực chính trị
cũng chính là việc xây dựng cơ chế, thể chế và thực thi cơ chế, thể chế đó trên
thực tiễn.
Mặc dù được đề cập trong các bài viết khác nhau, khơng có điều kiện để
lý giải đầy đủ hệ thống các thiết chế và phương thức vận hành để kiểm sốt
quyền lực trong thể chế chính trị nhưng đồng chí Tổng Bí thư cũng đã tập trung
đề cập khá đầy đủ. Đó là các cơ chế tự kiểm sốt quyền lực (đối với từng chủ
thể), kiểm soát lẫn nhau và kiểm soát của nhân dân đối với nhà nước; đề cập
khá đầy đủ các chủ thể được giao quyền lực chính trị và thực thi quyền lực chính
trị.
Trên thực tế, cơ chế, thể chế kiểm soát quyền lực của Đảng đã được bao
hàm trong các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, được bổ sung, hoàn
thiện trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng và từ những bài học cụ thể rút ra
từ thực tế công tác xây dựng Đảng. Do vai trò đặc biệt của Đảng Cộng sản Việt
Nam là lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nên hầu như mọi cơ chế, chính sách kiểm


soát quyền lực trong nội bộ Đảng cũng đồng thời liên quan đến sự kiểm sốt
quyền lực chính trị trên phạm vi toàn xã hội. Về cơ bản, việc kiểm soát quyền
lực của Đảng hiện nay được thực hiện theo các cơ chế, thể chế sau:
+ Một là, sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được chế định trong Hiến pháp và hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật. Tại Điều 70, Hiến pháp năm 2013 quy
định, Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật
và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do
Quốc hội thành lập”.
+ Hai là, kiểm soát quyền lực bằng các chế định về bầu cử, bổ nhiệm,
miễn nhiệm theo nhiệm kỳ hoặc không theo nhiệm kỳ theo quy định của pháp
luật. Bầu cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm vừa là phương thức tổ chức bộ máy nhà
nước, bảo đảm việc lựa chọn đúng người, đúng việc, vừa là uy tín của cán bộ, tổ
chức và ý chí, nguyện vọng của nhân dân và tập thể tổ chức. Đồng thời, đó cũng
là phương thức để kiểm sốt quyền lực chính trị, bảo đảm quyền lực được thực
thi đúng đắn, hiệu quả, ngăn chặn, đề phòng sự lạm dụng quyền lực vì mục đích
cá nhân hoặc hạn chế hiệu quả sử dụng quyền lực vì hạn chế về năng lực.
+ Ba là, kiểm soát quyền lực bằng Hiến pháp, hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật và chế độ tư pháp, bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân hoạt động theo
đúng các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Một khi các chế định trong Hiến
pháp, pháp luật và pháp chế nói chung đúng đắn, cơng bằng, thì việc thực thi
nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật và các chế độ tư pháp cũng chính là điều
kiện để bảo đảm quyền lực chính trị được sử dụng đúng đắn, không bị lạm dụng
hoặc sử dụng sai mục đích.
+ Bốn là, kiểm sốt quyền lực chính trị bằng việc thực hiện vai trò làm
chủ, sự giám sát, phản biện của nhân dân một cách trực tiếp hoặc thơng qua Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Cũng như đối với tổ chức đảng và
đảng viên, các cơ quan, tổ chức nhà nước và các cá nhân nắm giữ các trọng


trách trong bộ máy nhà nước phải chịu sự giám sát, kiểm soát của nhân dân.
Theo các quy định của pháp luật, người dân có quyền kiểm sốt, giám sát, phản

ánh tâm tư, nguyện vọng của mình đối với các cơ quan, tổ chức và các cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước trong việc thi hành công vụ.
Như vậy, các cơ chế, thể chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng, Nhà
nước hay trong toàn xã hội đều gắn liền, đan xen hoặc bao hàm trong các
nguyên tắc, chế độ tổ chức hoạt động của các thành tố tạo thành hệ thống chính
trị ở nước ta. Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ, các cơ chế, thể chế kiểm soát quyền lực của mỗi thành tố trong hệ
thống chính trị của nước ta phần lớn đều liên quan hoặc đồng thời tác động đến
các thành tố khác. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, nhất là trong
thời kỳ đổi mới, các cơ chế, thể chế về kiểm soát quyền lực chính trị ở nước ta
khơng ngừng được hồn thiện, được chế định ngày càng đầy đủ trong hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật và có tác động tích cực đến q trình xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, cơ chế pháp lý kiểm sốt quyền lực nhà
nước cịn bộc lộ một số hạn chế sau:
- Việc thể chế hoá, cụ thể hoá chủ trương của Đảng về một số nội dung
trong cơng tác cán bộ cịn chậm, có nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của
Nhà nước và quy định của Đảng.
- Việc điều tra, phát hiện, xử lý những vụ án tham nhũng vẫn còn hạn chế,
nhất là việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ
cơ quan, đơn vị cịn yếu.
- Vẫn cịn tình trạng lợi ích cục bộ, sách nhiễu người dân, doanh nghiệp
trong giải quyết thủ tục hành chính. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 nhận định việc cơng khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình cịn hạn chế.


- Hoạt động kiểm soát quyền lực của Đảng được thể hiện thơng qua q

trình kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng đối với
đảng viên, cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, Ủy ban kiểm tra
của các tổ chức Đảng chỉ hoạt động khi có khiếu nại, tố cáo, nên thiếu tính chủ
động và khơng mang tính thường xun của kiểm sốt quyền lực. Vì vậy, cơng
tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy
lùi suy thoái.
- Một bộ phận đảng viên, cán bộ lãnh đạo quản lý có dấu hiệu vi phạm
điều lệ đảng, vi phạm pháp luật nhưng chưa được xử lý kịp thời và công
khai. Đảng ta nhận định công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chưa đáp ứng
đầy đủ yêu cầu trong tình hình mới, chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều ở các
cấp. Việc kiểm tra, giám sát thực hiện một số nghị quyết của Đảng chưa thường
xuyên. Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm
tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu.
- Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước chưa tạo ra sự gắn kết hiệu quả
giữa các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Hoạt động giám sát của Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp, hoạt động kiểm tra của Đảng, hoạt động thanh
tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước chưa có sự phối hợp chặt chẽ với hoạt
động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức
xã hội.
- Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và chức năng quản lý nhà nước
của Nhà nước chưa được phân định rõ. Hệ thống chính trị cồng kềnh, có hiện
tượng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan Đảng và Nhà nước,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới, có
mặt cịn lúng túng. Cơ chế kiểm sốt quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa
đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
- Hiến pháp quy định nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với bộ máy
nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội và cá nhân, cơng dân. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục để các cơ quan nhà
nước tiếp thu, xử lý những kiến nghị về giám sát của nhân dân chưa thật sự hiệu



quả. Trong khi đó, pháp luật hiện hành chưa quy định về các biện pháp theo dõi,
kiểm tra việc thực hiện kiến nghị, đề nghị giám sát của nhân dân. Một số kiến
nghị, phản ánh trong hoạt động giám sát của nhân dân gửi đến cơ quan nhà nước
chưa kịp thời xử lý, hoặc chưa được giải quyết thấu đáo. Văn kiện Đại hội lần
thứ XIII của Đảng nhận định “một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và
giải quyết kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân”. Do
đó, hoạt động kiểm sốt quyền lực nhà nước từ phía nhân dân thời gian qua chưa
thực sự hiệu quả, vai trò giám sát của nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ.
- Mơ hình hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội chưa hoàn toàn độc lập với các cơ quan nhà nước. Các thiết chế này
vẫn lệ thuộc vào chính đối tượng bị giám sát, phản biện về ngân sách, biên chế.
Mặt trận Tổ quốc các cấp mới chỉ đóng vai trị là cơ quan phối hợp, tham gia
thực hiện giám sát chứ chưa thể hiện được hết vai trò giám sát một cách chủ
động so với các thiết chế khác. Trên thực tế, việc đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có mặt
chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân
và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều.
Chính vì vậy, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhận định: “Cơ chế kiểm
sốt quyền lực chưa hồn thiện”.
Những ngun nhân dẫn tới bất cập nêu trên là:
- Do chưa có sự thống nhất trong nhận thức về yêu cầu hồn thiện và thực
hiện cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước.
- Những sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về kiểm sốt quyền lực nhà nước
chưa mang tính tổng thể. Do vậy, cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước
thiếu tính đồng bộ.
- Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu, tổng kết thực tiễn về hoạt động của
các thiết chế thực hiện nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được quan

tâm kịp thời để có những kiến nghị lập pháp phù hợp.




×