Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Sự Giao Thoa Và Khác Biệt Của “Tro Tàn Rực Rỡ” Từ Tác Phẩm Văn Học Sang Điện Ảnh.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.66 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA NGỮ VĂN

SỰ GIAO THOA VÀ KHÁC BIỆT CỦA “TRO TÀN RỰC RỠ” TỪ TÁC PHẨM
VĂN HỌC SANG ĐIỆN ẢNH

Chuyên ngành: Cử nhân Văn học
Mã ngành :7229030

TIỂU LUẬN
HỆ THỐNG THỂ LOẠI VÀ TÁC GIA TIÊU BIỂU
VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1945 ĐẾN NAY

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BÙI BÍCH HẠNH

ĐÀ NẴNG - 2023

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
NỘI DUNG...............................................................................................................4
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG..................................................................4
1.1. Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh......................................................4
1.2. Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ”, “Củi mục
trôi về”.................................................................................................................7
1.3. Đạo diễn Bùi Thạc Chuyên và tác phẩm điện ảnh “Tro tàn rực rỡ”..........9
PHẦN 2: GẶP GỠ VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRUYỆN NGẮN “TRO TÀN RỰC
RỠ” VÀ “CỦI MỤC TRÔI VỀ” CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ VỚI TÁC PHẨM


ĐIỆN ẢNH “TRO TÀN RỰC RỠ” CỦA BÙI THẠC CHUYÊN......................12
2.1. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật từ truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ” và “Củi
mục trôi về” sang tác phẩm điện ảnh “Tro tàn rực rỡ”.....................................12
2.1.1. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua ngôn ngữ....................................12
2.1.2. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua hành động..................................18
2.2. Nghệ thuật chuyển thể truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ” và “Củi mục trôi về”
sang tác phẩm điện ảnh “Tro tàn rực rỡ” nhìn từ khơng gian và kết cấu cốt
truyện.................................................................................................................24
2.2.1. Nghệ thuật chuyển thể qua không gian................................................24
2.2.2. Nghệ thuật chuyển thể qua kết cấu cốt truyện.....................................25
KẾT LUẬN.............................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................30

2


MỞ ĐẦU
Trong quá trình vận động và phát triển, nghệ thuật ngày càng đa dạng và
phong phú về mặt loại hình bởi nhu cầu ngày càng tăng trong đời sống tinh thần
của mỗi con người. Đó là văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc,... và sau
này là sâu khấu điện ảnh. Các loại hình nghệ thuật này đều có mối quan hệ tác
động qua lại, thâm nhập, cộng sinh và hỗ trợ lẫn nhau. Trong đó mối quan hệ giữa
văn học và điện ảnh cũng không tách rời quy luật này. Văn học và điện ảnh đều
thuộc các loại hình nghệ thuật tiêu biểu trong “gia đình nghệ thuật” song vẫn mang
những nét đặc trưng riêng của từng thể loại. Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh
mang tính chất hai chiều: điện ảnh lấy cảm hứng, chất liệu từ mạch nguồn phong
phú của kho tàng văn học, tiếp thu những thủ pháp nghệ thuật của văn học; ngược
lại, với xu thế phát triển thông tin giải trí ngày nay, các thủ pháp điện ảnh đã xâm
nhập vào địa hạt văn học và ngày càng chiếm một lãnh thổ rộng lớn. Vì ra đời khá
muộn, mơn nghệ thuật thứ bảy đã tiếp thu, kế thừa những kết tinh thành quả của

các loại hình nghệ thuật ra đời trước đó. Văn học chính là mảnh đất màu mỡ giúp
điện ảnh có thể khai thác đề tài, chất liệu và cách thức thể hiện để hình thành nên
những kịch bản phim, đồng thời khơng ít lần văn chương rất tự nhiên đi vào thế
giới điện ảnh để tỏa sáng. Việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện
ảnh đã xuất hiện từ lâu và đang là hiện tượng rất phổ biến trong đời sống văn hóa
nghệ thuật trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Bởi điện ảnh thật khó
vượt qua được sức hấp dẫn từ kho tàng văn học phong phú và giá trị được làm đầy
qua hàng ngàn năm lịch sử. Bởi thế, nghiên cứu về vấn đề chuyển thể các tác phẩm
văn học sang điện ảnh như một cầu nối tự nhiên để gắn kết mối nhân duyên của hai
ngành nghệ thuật này. Trên tất cả những phương diện đó nhóm chúng tôi đã lựa
chọn đề tài “Sự giao thoa và khác biệt của Tro tàn rực rỡ từ tác phẩm văn học sang
điện ảnh” và đặc biệt là tập trung vào việc phân tích nghệ thuật chuyển thể qua góc
nhìn từ nhân vật, không gian, kết cấu – cốt truyện từ đó làm rõ mối quan hệ giữa
văn học với điện ảnh. Đồng thời chỉ ra được điểm chung và thế mạnh riêng trong
việc tạo dựng lại thế giới hiện thực của hai loại hình nghệ thuật này.

3


NỘI DUNG
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.

Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh

Mọi loại hình nghệ thuật đều phản ánh cuộc sống, đều biểu hiện các tư
tưởng, tình cảm của con người, đều đứng chung trong một hình thái ý thức, ý thức
thẩm mỹ - nghệ thuật nhưng khác nhau về hình thức tái thể hiện. Mỗi loại hình
nghệ thuật đều mang trong mình những đặc trưng riêng, nếu như hội họa “nói”
bằng đường nét, màu sắc thì âm nhạc nói” bằng âm thanh, tiết tấu; sân khấu “nói”

bằng lời thoại và diễn xuất của diễn viên,... Các loại hình nghệ thuật tuy khác nhau,
song giữa chúng cũng có sự giao thoa, cùng tồn tại như những thế giới song hành,
không ngừng va đập, đối thoại, tác động qua lại và hỗ trợ cho nhau.
Trước hết phải khẳng định, văn học và điện ảnh đều là các bộ mơn nghệ
thuật mang tính tổng hợp, nhưng nếu như văn học là loại hình nghệ thuật mang
tính tổng hợp gián tiếp thì điện ảnh là loại hình nghệ thuật mang tính tổng hợp trực
tiếp. Sử dụng ngơn từ làm chất liệu, văn học có thể dựng lại tất cả các loại hình
nghệ thuật khác, vì thế mà được xem như là điểm giao thoa của nhiều loại hình
nghệ thuật. Lấy ngơn từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng, văn học có thể thỏa
sức sáng tạo thơng qua việc sử dụng đa dạng, linh hoạt các yếu tố về hình ảnh, sắc
màu, đường nét... vốn là chất liệu ngơn ngữ đặc trưng của các loại hình nghệ thuật
khác. Để từ đó hình tượng nhân vật tác động vào tư duy, vào thế giới tình thân của
con người, gợi lên những liên tưởng và tưởng tượng trong tâm trí người đọc những
cảm nhận bằng thị giác, thính giác, xúc quác, khứu giác,... Điện ảnh là loại hình
mặc dù sinh sau song phù hợp với nhu cầu, thị hiếu công chứng nên đã không
ngừng sinh sôi, phát triển, xâm lấn trở thành loại hình “nghệ thuật thứ 7” – mang
trong mình sự tổng hợp của 6 loại nghệ thuật trước đó nên cũng nhận được nhiều
sự hỗ trợ mạnh mẽ trong đó có văn học. Tuy nhiên, khác với văn học, điện ảnh
mang tính tổng hợp trực tiếp, ngơn ngữ điện ảnh sử dụng chất liệu nghe nhìn như
màu sắc, đường nét, hình khối,... để xây dựng nên hình tượng. Chính vì thế, nó vừa
có khả năng tái hiện đời sống một cách khách quan, chân thực thông qua hệ thống
âm thanh, hình ảnh, ánh sáng từ đó tác động trực tiếp lên các giác quan của người
xem; vừa có khả năng biểu hiện đời sống nội tâm phong phú của con người. Dẫu
4


cùng có sự tiếp nhận các yếu tố của các bộ môn nghệ thuật khác, nhưng dựa vào
đặc trưng của từng thể loại thì văn học và điện ảnh vẫn có cách tiếp nhận khác
nhau. Văn học, đặc biệt là trong thơ ca gắn bó chặt chẽ với âm nhạc. Tính nhạc
được tạo nên bởi các yếu tố ngữ âm từ: vần, nhịp, thanh điệu, ngữ điệu...) đến lớp

từ vựng (từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình...) và ngữ pháp (cách ngắt nhịp, gieo
vần, cách tổ chức câu thơ...). Có thể lấy dẫn chứng từ thơ tình của Puskin trong đó
có nhiều bài mang đậm tính nhạc, được thể hiện ở cách phối hợp âm thanh trong
cách ngắt nhịp và gieo vần từ tạo nên những nốt ngân vang, trầm bổng khơng dứt.
Đó là sự thay đổi những âm thanh cao thấp khác nhau giữa các thanh bằng – trắc
linh hoạt,... Còn đối với điện ảnh, âm nhạc từ chỗ minh họa cho hình ảnh, bộc lộ
sắc thái biểu cảm nội tâm của nhân vật hoặc tạo ra những tình huống kịch tính, nó
cịn tạo ra chiều sâu tâm lý, chất trữ tình cho bộ phim. Trên phương diện đối với
hội họa, văn học và điện ảnh cũng có cách tiếp cận khác nhau. Ngay từ khi ra đời,
điện ảnh đã được gọi là “hội họa tạo hình động” bởi khi đến với các bộ phim,
chúng ta ln có cảm giác được thưởng thức những bức tranh sống động như đang
hiện ra trước mắt, chính nhờ yếu tố hội họa. Chính sự kết hợp bố cục khn hình
với những đường nét, màu sắc, ánh sáng,... đã tạo nên những cảnh quay mang tính
chất “tạo hình động” trong điện ảnh.
Có thể thấy cho dù ở bất kì loại hình nghệ thuật nào người nghệ sĩ cũng tạo
dựng cho mình một chất liệu nhất định để xây dựng hình tượng. Trong đó, hình
tượng hội họa được xây dựng bằng đường nét, màu sắc; hình tượng điêu khắc được
tạo nên bởi các hình khối; hình tượng âm nhạc được xây dựng bởi nhịp điệu; hình
tượng sân khấu tồn tại qua hành động, cử chỉ, ngơn ngữ của người diễn viên; cịn
hình tượng điện ảnh được tạo nên bởi hình ảnh, âm thanh; và hình tượng văn học
được thể hiện bởi hệ thống ngơn từ. Có thể nói, ngơn từ là chất liệu, là ký hiệu của
mọi âm thanh, màu sắc, đường nét, có thể phản ánh bất cứ sự vật, hiện tượng nào
trong thế giới hữu hạn và vô hạn. Do sử dụng ngôn từ làm chất liệu, nên văn học
gắn liền với kiểu hình tượng phi vật thể, có khả năng tác động vào tư duy và trí
tưởng tượng của con người. Khi đến với một tác phẩm văn học, chúng ta khơng thể
trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy những gì mà nhà văn miêu tả bằng các giác quan như
thị giác, thính giác song lại có thể cảm nhận được tất cả thơng qua trí tưởng tượng
phong phú của mình. Nhờ vào sức mạnh của trí tưởng tượng thơng qua hệ thống
ngơn từ, người đọc đã có thể tái tạo lại một thế giới hiện thực bằng những cảm
nhận tinh tế, mơ hồ, ẩn sâu mà các loại hình nghệ thuật khác không thể làm được.

5


Cũng chính sử dụng ngơn từ làm chất liệu, nên hình tượng văn học khơng bị hạn
chế bởi yếu tố khơng gian và thời gian. Văn học có ưu thế trong việc miêu tả đối
tượng trong tính vận động, tái tạo dòng thời gian với những nhịp độ khác nhau bởi
thời gian có thể bị kéo căng bởi cách miêu tả chi tiết, tỉ mỉ cũng có thể bị dồn nén
khi được tái hiện trong một khoảng thời gian dài trong dịng trần thuật ngắn. Mặt
khác, văn học cịn có khả năng miêu tả mối thời gian trong mối liên hệ đa dạng,
nhiều chiều, nhiều lớp. Nhà văn có thể miêu tả thời gian tuyến tính, đồng dạng,
đồng nhịp với thời gian tự nhiên, hoặc có thể miêu tả thời gian ngược chiều từ hiện
tại trở về quá khứ, rồi từ q khứ đi tới tương lai. Chính vì thế, văn học có khả
năng chiếm lĩnh và tái hiện đời sống một cách bao quát, có chiều sâu, trong khi các
loại hình nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc khó có thể làm được. Khơng gian
trong văn học vừa là hình ảnh của khơng gian hiện thực của vũ trụ, xã hội vừa là sự
hiện diện của không gian tâm tưởng. Đó là một khơng gian gắn liền với mọi sự vật,
sự kiện, hiện tượng liên quan đến con người trong sự vận động của thời gian. Qua
không gian đó, con người tự biểu hiện những tư tưởng, tình cảm bằng một phương
thức chiếm lĩnh hiện thực đời sống đặc thù. Điện ảnh cũng là nghệ thuật của không
gian và thời gian nhưng không gian - thời gian trong điện ảnh thể hiện ở phương
diện khác so với văn học. Sự thay đổi mau lẹ của cảnh vật trên phim được gọi là
“tính nhảy của điện ảnh về khơng gian và thời gian”. Điện ảnh có thể tạo ra thời
gian riêng, khác với thời gian trong hiện thực khi gắn liền với các hình ảnh chuyển
nhanh, chuyển chậm, ngược lại, nó có thể bất chấp thời gian. Điện ảnh cũng có thể
tạo ra một khơng gian mới theo u cầu của kịch bản, bằng cách dùng kĩ xảo ghép
hai hoặc ba cảnh ở xa nhau thành một cảnh duy nhất. Đặc trưng của điện ảnh là sự
dồn nén về mặt thời gian, vì thế mà loại hình này mang đến cho người xem sự cảm
nhận cụ thể, trực tiếp trong suốt chiều dài diễn ra bộ phim. Tác phẩm điện ảnh vì
thể, rõ ràng thu hút sự tập trung của khán giả hơn là khi ta đọc một cuốn tiểu thuyết
diễn ra trong khoảng thời gian dài. Như vậy, tính phi vật thể của hình tượng nghệ

thuật là một đặc tính nổi bật để ta phân biệt đặc trưng của văn học với các loại hình
nghệ thuật khác. Nhờ có đặc trưng này mà các nhà văn khơng những có thể miêu tả
hiện thực cuộc sống đa dạng mang tính hình tượng mà cịn đi sâu vào thế giới bên
trong của con người, mở ra chân trời tưởng tượng cho người thưởng thức. Nếu như
văn chương là nghệ thuật của ngơn từ, mang tính phi vật thể, thì điện ảnh là nghệ
thuật của hình ảnh và âm thanh, mang tính vật thể. Tác phẩm văn chương là lời kể
về một thế giới hiện hình của hiện thực, cịn điện ảnh là cả thế giới hiện hình cụ thể
để kể một câu chuyện. Một bộ phim là cả một thế giới vật chất, bởi vì chất liệu
6


điện ảnh là tất cả những gì máy quay phim có thể thâu lại cả hình ảnh lẫn âm
thanh. Với ưu thế có thể diễn tả thế giới nội tâm của con người, văn học có tài năng
trong việc sử dụng ngôn ngữ để miêu tả nhân vật. Để khắc họa tính cách nhân vật,
nhà văn có thể thoải mái sử dụng các hình thức khác nhau, như ngơn ngữ người kể
chuyện (lời kể, lời tả) hay ngôn ngữ của nhân vật từ đối thoại đến cả độc thoại nội
tâm. Nhân vật tự biểu hiện, phơi bày diễn biến tâm trạng của mình qua những suy
nghĩ, cảm xúc cụ thể. Văn chương có thể bộc lộ gián tiếp tư tưởng, tình cảm của
nhà văn thơng qua hình tượng nhân vật. Tất cả những lời kể trong tác phẩm văn
học khi chuyển sang tác phẩm điện ảnh đều phải được cụ thể hóa bằng những hình
ảnh, âm thanh, màu sắc,... Đồng thời, ngoại hình, ngơn ngữ, hành động và thế giới
nội tâm nhân vật được thể hiện trực tiếp thông qua diễn xuất của diễn viên hay của
các yếu tố kĩ thuật khác. Trong văn học, nhân vật có thể độc thoại nội tâm hàng
trang dài, thì đấy lại là điều tối kỵ trong các tác phẩm điện ảnh. Các nhân vật trong
phim thường thông qua các phân cảnh đối thoại để bộc lộ bản thân. Và đó cũng là
điểm yếu của điện ảnh so với văn học trong việc thể hiện đời sống nội tâm của con
người. Có thể thấy rằng, tiềm năng tạo hình của ngơn từ văn học có thể đưa văn
học đến rất gần ngơn ngữ thị giác của hình ảnh. Chính nhờ tính phi vật thể của
hình tượng nghệ thuật ngơn từ mà ngơn ngữ văn học có thể “phiên dịch” bất kỳ
loại hình nghệ thuật nào. Tóm lại, nhà văn có thể tái tạo mọi phương diện của đời

sống hiện thực để người đọc có thể cảm nhận đầy đủ bằng các giác quan mà các
loại hình nghệ thuật khác khơng làm được. Tuy nhiên, do sử dụng ngôn từ làm chất
liệu nên trong văn học chúng ta khơng thể trực tiếp trơng thấy hình tượng, nghe
thấy âm thanh mà chỉ có thể tưởng tượng ra. Tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến
các giác quan tri nhận của độc giả chính là ưu thế của điện ảnh, song khi cảm nhận
hình ảnh trực quan, sự thu nhận của độc giả lại mang sự thụ động, áp đặt, khơng
phát huy được tính sáng tạo, tưởng tượng của độc giả. Đó cũng chính là mặt hạn
chế của điện ảnh so với văn học.
1.2.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ”, “Củi mục
trôi về”

Nguyễn Ngọc Tư, một nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam, cô sinh
năm 1976 tại Đầm Dơi, Cà Mau. Được xem như một hiện tượng văn học đặc biệt ở
Nam bộ, với chất mộc mạc và bình dị của thôn quê. Cuốn hút độc giả bằng lối kể
chuyện vừa mềm mại nhưng lại không kém phần sâu cay khi nói về những mảnh
đời, những số phận éo le, của những con người chân chất, đôn hậu tại miền sông
7


nước. Và từ những bất hạnh ấy, đó là nơi ta có thể tìm thấy cái nhìn sâu sắc, bao
dung, thấm đẫm cái tình làng, nghĩa xóm qua từng lời văn, từng nhân vật… Sau
khi thắng giải Nhất cuộc thi Văn học tuổi 20 của NXB Trẻ, chặng đường hoạt động
của Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục đạt dược nhiều thành tựu ngoạn mục trên chặng
đường văn chương của mình, các tác phẩm được giới chuyên môn đánh giá cao,
đặc biệt là tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận đã gây một tiếng vang lớn, nhận
được nhiều giải thưởng lớn, cũng như được chuyển thể thành phim vào năm 2010.
Đến với “Tro tàn rực rỡ” và “Củi mục trôi về”, cả hai tác phẩm đều nằm
trong tập truyện ngắn Đảo xuất bản năm 2014. Ở “Tro tàn rực rỡ”, Nam bộ khơng

hiện lên với sự lấp lánh của những dịng sơng mênh mông, cánh đồng bát ngát như
mọi khi, giờ đây nó bị thay thế bởi màu xám của khói, màu đỏ của ngọn lửa… Câu
truyện được kể qua lời kể của nhân vật “em”, về cái xóm Thơm Rơm nơi có
những lần đốt nhà của một người đàn ơng tên Tam, và một người vợ tên Nhàn sau
mỗi lần ấy lại dựng nhà để cho chồng đốt. Qua lời kể của “em” cho chồng của
mình sau mỗi lần anh đi biển về, những bí mật dần được tiết lộ, rằng Tam vốn là
một người hiền lành nhưng vì biến cố của gia đình, anh ta tìm đến men rượu như
cách để giải sầu, để rồi khi hơi thở nồng men rượu, anh đã tự mình châm lửa đốt
nhà. Nhàn, người dành chọn tình yêu của mình cho Tam chịu đựng mọi thứ, với hy
họng cứu vãn hôn nhân đã rơi vào ngõ cụt, để đến khi cô lựa chọn ở lại bên trong
ngọn lửa do chính tay chồng mình đốt nên, liệu đó là khát vọng dược chồng đối
hồi đến hay còn nhiều hơn. “em” người con gái cũng đang trơng ngóng vào sự
chú ý của chính chồng mình người đã mang tình cảm với Nhàn, chỉ biết dùng
những câu chuyện về gia đình Nhàn để níu kéo đoạn tình cảm gượng ép này...
“Củi mục trôi về” câu truyện tại làng quê Thổ Sầu, về sự tha hóa và sự cứu
chuộc của con người, bắt đầu với sự trở lại của “gã” người đã lựa chọn rời khỏi
cộng đồng để trốn tránh sự xấu hổ và nhục nhã mà bản thân đã gây ra, một cuộc
cưỡng hiếp của đứa con trai mười bảy tuổi với đứa bé gái ở mé ao trong xóm, gã bị
đi tù, gia đình thì bỏ xứ đi. Ra tù, gã vật vờ mưu sinh trên đất khách, sau cùng lại
trở về vì khơng chịu được cảm giác thiếu quê hương, đến trú tại ngôi chùa nghèo,
nơi duy nhất chào đón gã. Những kì thị khi xưa vẫn còn, nên gã chọn cách trốn
tránh, né mặt những người trong làng, đến khi thầy buộc gã phải lộ diện để làm
những việc trong chùa, với bộ dạng mới khiến nhiều người không thể nhớ ra, đến
cô bé từng bị hãm hại cũng không thể trở nên tức giận nhảy vào cào cấu, cắn xé gã
cho hả giận. Thậm chí, gã cịn khiến cho cơ nảy sinh tình cảm sau những lần tiếp
8


xúc, “Anh cưới tui đi, khơng là tui chết đó”, lời đề nghị được thốt ra khiến hắn ngỡ
ngàng, và chọn cách bỏ đi… để rồi đến cuối “Tới nắng gã lại về… đôi người ấy đi

cạnh nhau trên con đường xóm, như hai con số mười một… khói bếp bọc lấy ngôi
nhà nhỏ vừa dựng trên vườn ngũ bên sông…” (tr.78, 8)
1.3.

Đạo diễn Bùi Thạc Chuyên và tác phẩm điện ảnh “Tro tàn rực rỡ”

Đạo diễn Bùi Thạc Chuyên sinh năm 1968, gia đình ơng có truyền thống nghệ
thuật. Bố ơng là nhà văn Bùi Bình Thi, cịn mẹ là họa sĩ Nguyễn Thị Mỹ. Từ năm
1990, ông theo học Khoa Diễn viên của Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà
Nội và về đầu quân tại Nhà hát Kịch Việt Nam. Nhưng ông chỉ xuất hiện trên sân
khấu Nhà hát Kịch Việt Nam một thời gian ngắn rồi chuyển hẳn sang điện ảnh.
Năm 1997, Bùi Thạc Chuyên theo học lớp Đạo diễn của Trường Đại học Sân khấu
- Điện ảnh Hà Nội. Đến năm 2000, bộ phim “Cuốc xe đêm” của ông đã giành giải
thưởng tại hạng mục Cinéfondation - chú trọng đến các tài năng điện ảnh mới. Đây
là một trong những hạng mục chính của Liên hoan Phim Cannes 2000. Ông cũng là
biên kịch kiêm đạo diễn các phim ngắn: “Nỗi buồn vĩnh cửu” đạt giải Cánh én
Vàng - Liên hoan Phim Sinh viên toàn quốc lần thứ nhất năm 1993. Ngồi ra, cịn
có “Ăn mày”, “Ngôi nhà người khùng”, “Cảm xúc thật”, “Người trên phố”...
Các bộ phim của ông đều gây tiếng vang và ghi dấu ấn tại các giải thưởng
quốc tế lớn. Phim truyện dài đầu tay của Bùi Thạc Chuyên là “Sống trong sợ hãi”
(2006), xoay quanh nhân vật chính là một người lính của chế độ cũ cố gắng mưu
sinh tại vùng đất mới bằng nghề phá bom mìn cịn sót lại sau chiến tranh để lấy phế
liệu đem bán. Tác phẩm đã giành giải thưởng Giải thưởng tài năng mới châu Á của
Liên hoan Phim châu Á - Thái Bình Dương; Và các giải Đạo diễn xuất sắc nhất,
Biên kịch xuất sắc nhất, Diễn viên nam chính và nam phụ xuất sắc nhất tại Lễ trao
giải Cánh diều 2006 của Hội Điện ảnh Việt Nam. Phim cũng đã tham dự Liên hoan
Phim Rotterdam và được Trung tâm hợp tác văn hóa Việt - Mỹ tại New York mời
tham gia trong chương trình chiếu phim tại 15 trường đại học của Mỹ năm 2007.
Bộ phim “Chơi vơi” (2009) cũng giành các giải thưởng như: giải Đạo diễn xuất sắc
nhất, Quay phim xuất sắc nhất, Họa sĩ thiết kế xuất sắc nhất tại Liên hoan Phim

Việt Nam 2010; Giải thưởng của Hiệp hội Phê bình quốc tế Fipresci tại Liên hoan
Phim Venice; tham dự và giành giải thưởng tại nhiều Liên hoan Phim quốc tế
khác. Với “Chơi vơi”, để kể câu chuyện tình u của những người phụ nữ Hà
thành, vừa khn phép vừa phá cách, vừa dịu dàng vừa dữ dội.
9


Với niềm say mê cuộc chơi điện ảnh, đạo diễn Bùi Thạc Chun khơng chỉ
làm phim vì mục đích thương mại mà qua đó cịn là thể hiện nghệ thuật chân
chính. Ơng cầu tồn, chỉn chu, kiên trì, lặng lẽ và tạo dựng cho mình một phong
cách làm phim riêng biệt. Khai thác đề tài tình yêu, phụ nữ, gia đình... nhưng mỗi
tác phẩm của Bùi Thạc Chuyên đều đem đến cho khán giả những dư âm và nhiều
điều bất ngờ. Những tác phẩm nào của ông đều ấn tượng, chỉn chu, gây tiếng vang
cả trong nước và quốc tế. Để dành ra khoảng chừng bảy đến mười năm tìm kiếm
và cho ra đời một tác phẩm, đạo diễn Bùi Thạc Chuyên khẳng định mỗi bộ phim
đều là cái duyên, đôi khi “phim chọn người”.
Phim “Tro tàn rực rỡ” (2022) đã được đạo diễn Bùi Thạc Chuyên “thai nghén”
gần mười năm. Ông mất hai năm chuyển thể kịch bản từ hai truyện ngắn Tro tàn
rực rỡ và Củi mục trôi về của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Rồi tiếp tục dành thêm 5
năm nữa để chuẩn bị cho việc quay phim. Ông đã vào Cà Mau để hiểu đời sống
của người dân bản địa, tìm thêm trải nghiệm và cảm hứng cho tác phẩm của mình.
Ơng lang thang qua nhiều làng nghề, sinh hoạt cùng dân chài, cùng họ ăn cơm,
theo họ ra biển đánh cá, trải qua nhiều ngày lênh đênh, từ đó tìm ra hướng đi cho ý
tưởng kịch bản.
Phim “Tro tàn rực rỡ” lấy bối cảnh ở xóm nghèo Thơm Rơm để kể câu chuyện
tình đầy khắc khoải của ba người phụ nữ Nam bộ Nhàn, Hậu, Loan. Phim mở đầu
là lời tâm sự của Hậu kể với chồng cơ là Dương, người một lịng dành tình yêu cho
cô gái khác là Nhàn, dù cô này đã lên xe hoa với Tam. Hôn nhân giữa Hậu và
Dương là chuỗi ngày bế tắc khi anh cưới cô chỉ vì cơ lỡ mang bầu. Ngày rước dâu,
ánh mắt anh chỉ hướng về Nhàn – cơ gái cùng xóm anh dành cả thanh xuân để yêu

đơn phương. Dương chọn cô độc, cheo leo giữa biển trời trong chiếc chịi tơn cất
tạm làm nghề chài lưới để trốn tránh cuộc hôn nhân đó. Và tưởng chừng Nhàn sẽ
có một mái ấm bên Tam - người chồng hiền lành, chịu khó. Thì sau một biến cố
tang thương mất con, hạnh phúc của Nhàn và Tam cũng lụi tàn. Thời gian sau, căn
nhà của vợ chồng Nhàn liên tiếp bị phóng hỏa khơng rõ nguyên nhân. Chỉ Nhàn
biết rõ là do sự ám ảnh lửa của chồng, lúc Tam say anh chỉ còn lại sự khao khát vẻ
đẹp của đám cháy. Còn Nhàn chỉ biết thu dọn những tàn tích sau mỗi trận hỏa hoạn
và dựng lại ngơi nhà khác, như gói ghém lại mảnh vỡ của một cuộc hơn nhân khó
cứu vãn.

10


Qua lời dẫn chuyện của Hậu, thể hiện thấm đẫm vị chua chát mỗi lần cô kể
chuyện cho chồng nghe sau khi Dương đi biển biền biệt cả tháng mới về. Cô kể lại
những đám cháy xảy ra ở nhà Nhàn, vì biết đó là chủ đề duy nhất chồng cô để tâm.
Cô tự kể về những lần Nhàn dạy cơ nấu ăn, những cuộc trị chuyện của cơ và Nhàn
như để tìm kiếm sự chú ý từ chồng. Đơi khi là sự ghen ghét với Nhàn, cô dấy lên
niềm vui khó tả mỗi lần nhà Nhàn cháy, rồi lại tự dằn vặt khi cảm thấy mình nhỏ
nhen, ích kỷ.
Bên cạnh đó cịn là mối quan hệ của bà Loan “khùng”, ông Khang và sư
thầy của ngôi chùa Thổ Sầu – nơi cưu mang Khang ngày ông quay lại. Sau nhiều
năm ở tù, Khang trở về quê nhà, đối mặt với Loan - người phụ nữ ông từng hãm
hại lúc bà 12 tuổi. Qua những chén rượu uống cùng Khang, nỗi oán thù năm xưa
dần phai nhạt và bà lại bỗng đem lịng u thương người đàn ơng đó. Nhưng rồi
Khang một lần nữa bỏ đi để lại trong Loan chỉ cịn lại sự cơ quạnh của một người
nửa khùng nửa tỉnh.
Đến lần Tam đốt nhà cuối cùng, người ta khơng cịn thấy Nhàn đem cất những
vật dụng quan trọng nữa, có lẽ Nhàn đã hịa vào ngọn lửa để một lần rực rỡ trong
mắt chồng mình. Kết thúc bằng cảnh, Hậu một mình trên con ghe đi thẳng ra biển

như chủ động đi tìm hạnh phúc của mình
Năm 2017, “Tro Tàn Rực Rỡ” nằm trong số 20 dự án, được lựa chọn từ trên
350 dự án gửi về, để tham gia chợ dự án ASIAN PROJECT MARKET, thuộc liên
hoan phim quốc tế BUSAN, nhận được giải thưởng đặc biệt BUSAN AWARD cho
dự án xuất sắc nhất. 2018, “Tro Tàn Rực Rỡ” là một trong 15 dự án trên thế giới
được lựa chọn tham gia CINEFONDATION L’ATELIER, CANNES 2018. 2019,
LORCANO OPEN DOOR HUB, nằm trong khuôn khổ Liên Hoan Phim Quốc tế
Lorcano diễn ra tại Thụỵ Sĩ, “Tro Tàn Rực Rỡ” cùng 7 dự án xuất sắc khác của
Đông Nam Á được mời đến để trình bày tại chợ dự án nghệ thuật tại đây. 2022,
Liên Hoan Phim Quốc Tế Tokyo (TIFF) lần thứ 35, lần đầu tiên, “Tro Tàn Rực
Rỡ” – một bộ phim điện ảnh của Việt Nam được chọn tranh giải ở hạng mục chính.
2023, đạt hàng loạt các giải thưởng tại Giải Cánh diều vàng như: Phim truyện điện
ảnh xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất,...

11


PHẦN 2: GẶP GỠ VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRUYỆN NGẮN “TRO TÀN
RỰC RỠ” VÀ “CỦI MỤC TRÔI VỀ” CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ VỚI TÁC
PHẨM ĐIỆN ẢNH “TRO TÀN RỰC RỠ” CỦA BÙI THẠC CHUYÊN.
2.1. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật từ truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ” và “Củi
mục trôi về” sang tác phẩm điện ảnh “Tro tàn rực rỡ”
2.1.1. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua ngôn ngữ
Xét về nhân vật Hậu từ truyện ngắn cho đến bản điện ảnh, người đọc sẽ thấy
được nhân vật Hậu là một người sống khá lặng lẽ, Hậu thường dùng những câu
chuyện mà mình lượm nhặt từ mấy câu chuyện trong xóm hay câu chuyện về gia
đình Nhàn để giữ chân chồng mình. Nhưng Dương chỉ thật sự lắng nghe vợ mình
nói khi cô kể về Nhàn, lúc ấy người chồng mà cơ u mới ngối đầu nhìn lại và
lắng nghe câu chuyện từ Hậu. Đọc truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ” của Nguyễn Ngọc
Tư, ngôn ngữ kể chuyện của nhân vật Hậu là ngôn ngữ của người kể chuyện, nhân

vật xưng em, là người “ở ngồi” câu chuyện chứ khơng chạm vào nó, cũng chính
vì vậy mà khi qua những trang văn người đọc nghe sẽ thấy nhân vật bị chi phối bởi
vai trị người kể chuyện này mà lời nói, ngôn ngữ nhân vật rất đậm chất văn pha
trộn một chút sự phảng phất mộc mạc về lối sống sinh hoạt của miền Tây sơng
nước. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy những điều này qua những dòng văn
trong truyện như “chồng chưa từng nhìn thấy một đám cháy nào nên chẳng biết
mỗi đống lửa mang một mùi khác nhau. Mùi những con mối cánh bén lửa, mùi lá
mục, hay mùi nhựa khét xộc ra từ tấm bạt xóc nóc nhà và những sợi dây câu. Em
phân biệt được đám cháy nào có mùi những con chuột bị nướng trui trên mái ngói,
hay những cái trứng kiến quá lửa, đám cháy nào lẫn khuất mùi cơm sôi do Nhàn
đang bắc nồi cơm lên bếp thì đằng trước Tam rê quẹt gas vào mái lá...”[8,tr.89].
Qua ngôn ngữ kể chuyện của Hậu tái hiện lại những mùi hương tỏa ra từ trong đám
cháy, đó là những mùi quen thuộc của người dân nơi đây khi đốt lá mục, mùi của
những con mối, mùi chuột nướng, mùi cơm sôi,...Tất cả đã tạo nên chất văn rất
mộc mạc, gần gũi với lối sống sinh hoạt thường ngày nhưng không bị thô cứng mà
được Nguyễn Ngọc Tư tái hiện lại rất “văn” và giàu hình ảnh. Từ ngơn ngữ của
nhân vật Hậu khi kể chuyện người đọc còn thấy được thái độ của nhân vật này như
qua câu văn sau : “Em thường kể lại mấy vụ cháy Tam gây ra, vì chồng khơng bao
giờ chạy đến đó, kể cả lúc ghe biển vào bờ và chồng về thăm nhà. Tỉnh rụi và
12


dửng dưng, như vợ chồng Nhàn chưa bao giờ là xóm giềng, bè bạn. Dù vậy, em lại
nghĩ là chồng muốn biết chuyện Nhàn làm gì sau mỗi bận nhà cửa hóa tro
than”[8,tr.90]. Liệu rằng cái thái độ dửng dưng, tỉnh rụi ấy của Hậu xuất phát từ
sự ghen tuông của một người phụ nữ sống cùng chồng nhưng ánh mắt chồng cơ
chưa một lần hướng về mình mà chỉ có Nhàn trong mắt? Liệu rằng đó có phải là sự
hả hê vì Nhàn phải chịu cảnh như vậy? Hay chuyện Tam đốt nhà đã là câu chuyện
quá đỗi thường tình đối với người dân ở xóm Thơm Rơm này? Cũng có thể nhân
vật Hậu chỉ muốn chứng kiến đám cháy để về kể cho chồng chứ cũng chẳng bận

lòng đối hồi đến những điều khác nữa chăng? Chỉ qua lời thoại của nhân vật Hậu
cũng đã gợi lên trong lòng người đọc rất nhiều vấn đề, những suy tư trăn trở về số
phận của chính Hậu, một người phụ nữ hết lịng vì chồng chỉ mong cầu ánh mắt
hướng về mình chỉ một lần trong đơi mắt của người chồng chỉ biết hướng ánh nhìn
về người đàn bà khác. Qua mỗi lời kể chuyện của Hậu, người đọc sẽ có cái nhìn
đồng cảm, thương xót đối với nhân vật này. “Em cũng đến đám cháy như một
người coi hát. Vở tuồng của những con người đổ nát. Hồi con Tí cịn nhỏ, em bồng
nó theo, rồi kệ nó ngủ trên tay, em ở đó cho đến khi lửa rụi tàn. Thứ ánh sáng lộng
lẫy đó xáo động em đến cả mấy tháng sau. Em thấy mình chính là Nhàn kia, một
con đàn bà thèm khát được chồng nhìn thấy”[8,tr.91]. Có lẽ cái khát khao được
chồng nhìn thấy, để mình trong mắt dù chỉ một lần khiến cho Hậu đồng cảm với
Nhàn, nó xuất phát từ sự mong cầu hạnh phúc, sự u thương trong mắt người đàn
ơng mình u. Cũng có thể đó là vì sau mỗi đám cháy thì Hậu mới có chuyện để kể
cho chồng nghe, ánh lửa rực lên rồi để lại một chút tro tàn cứ ám ảnh day dứt trong
con người Hậu để rồi lắng đọng cảm xúc trong từng con chữ trong từng câu chữ
của Nguyễn Ngọc Tư. Đây có lẽ là ưu điểm truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ” của
Nguyễn Ngọc Tư nhưng xét về khía cạnh điện ảnh thì lời thoại của Hậu trong phim
gần như còn phụ thuộc nhiều vào lời văn truyện ngắn khiến cho bản điện ảnh còn
thiếu đi sự tự nhiên trong lời ăn tiếng nói thường ngày. Nhân vật Hậu trong phim
do Juliet Bảo Ngọc Doling thủ vai vẫn chưa thể hiện được chất giọng của miền
Tây Nam Bộ nên chưa lột tả được cảm xúc cũng như chạm được vào trái tim của
người xem gây tụt cảm xúc trong một vài phân cảnh.
Nhân vật Dương trong truyện ngắn cũng như bản điện ảnh đều rất ít thoại. Ở
bản truyện Dương chỉ có một lời thoại duy nhất với Hậu khi cô nửa đêm chạy sang
nhà Nhàn để xem cháy“Cơ lại bỏ chị em con Tí để chạy lại đó? Đã nói rồi, hay ho
gì mà nửa đêm lặn lội...”. Hay trong phim Dương chỉ giao tiếp với mọi người xung
13


quanh, với đám trẻ con, với bé Tí mà chẳng đối hồi gì đến vợ mình ngoại trừ

đoạn gần kết khi thấy Hậu đi từ đám cháy về mà chẳng kể chuyện như mọi khi.
Dương đã hỏi Hậu rằng: “Nhìn lửa khỏi cần ăn ln hả? Tơi với con Tí ăn cơm rồi.
Con nước này tàu đáy đi sớm á...Bắt đầu vào mùa tép...Kể đi...Đám cháy sao...Lần
này lửa có mùi gì...?” . Hay trong bản điện ảnh có phân cảnh tiếng Dương vọng từ
bên bờ sơng nói sang nhà Nhàn rằng “ Nhàn ơi, Sao em bỏ anh...”. Hay cái khoảnh
khắc anh ta cưỡng hiếp Hậu nhưng cũng chỉ gọi tên Nhàn mà khơng nghĩ đó là
Hậu... Ở đây người đọc bắt gặp sự khác biệt điểm khác biệt trong lời thoại giữa bản
truyện và phim điện ảnh nhưng đều thể hiện một hàm ý rằng từ đầu đến cuối trong
lòng Dương chưa một lần để Hậu ở trong tim. Những gì mà Hậu kể thực chất cũng
chỉ là lời nói thoảng qua mà Dương chẳng hề bận tâm, duy chỉ những câu chuyện
về Nhàn mới khiến anh lắng tai để nghe vợ kể chuyện. Qua ngôn ngữ nhân vật
trong bản điện ảnh, khán giả có thể thấy lần đầu tiên Dương mới nói chuyện với vợ
trước nhưng mục đích cũng chỉ nhằm dò xét xem nhà Nhàn đã cháy ra sao, câu
chuyện ở đấy diễn ra như thế nào. Cũng có lẽ nhân vật Dương đã linh cảm lần đi
xem cháy này vợ khơng cịn kể chuyện như trước nữa chắc hẳn đã có chuyện xảy
ra nên mới hỏi chuyện trước. Có thể thấy ở bản điện ảnh đã có phần thoại khác với
bản truyện để người đọc có nhiều “khoảng trắng” để suy ngẫm, nó khơng dừng lại
ở một câu nói hời hợt như trong truyện mà khiến khán giả phải suy ngẫm. Suy cho
cùng mục đích của Dương là muốn biết về cuộc sống Nhàn, trong trái tim của
Dương chỉ hướng về mình Nhàn mà chẳng đặt tâm ở bất kỳ ai, kể cả khi anh đã lấy
vợ nhưng trong cơn say anh vẫn luôn hiện lên hình bóng người con gái ấy mà chạy
sang nhà gào thét trong đêm. Qua ngôn ngữ của nhân vật Dương người đọc khơng
khỏi xót xa cho tình cảm của Hậu khơng được đáp lại, ngồi ra người thưởng thức
cịn thấy được sự cam chịu và khao khát được yêu của người phụ nữ, sự mong cầu
tình cảm trong đơi mắt người đàn ơng chỉ hướng ánh nhìn về người phụ nữ khác.
Cả hai nhân vật “gã” và “cô” trong truyện ngắn “Củi mục trôi về” khi được
đưa vào điện ảnh đều được định danh bằng tên với “gã” là Khang, “cô” là Loan. Ở
cả hai nhân vật trên, lời thoại ở phiên bản điện ảnh khơng có nhiều sự thay đổi so
với nguyên tác truyện ngắn. Ở nhân vật Loan các câu thoại ngắn, đơn giản nếu ở
truyện ngắn chỉ vỏn vẹn mấy câu “Ê”, “Đâu rồi”, “Thầy ơi, tui ế chồng thiệt rồi,

thầy tính sao đi chớ”, “Ê! sao ai cũng bỏ tôi đi tu hết vậy?”, “Anh cưới tơi đi”,
“Khơng là tơi chết đó”, “Đi ln rồi hả? Khơng cưới tơi thì thơi, mắc gì phải trốn
đi” dù các lời thoại ngắn song lại cho ta thấy được những diễn biến về mặt tâm lí
14


nhân vật Loan, từ xa lạ, mù mờ không nhớ rõ về kẻ đã từng xâm hại mình đến dần
nảy sinh tình cảm với chính hắn ta. Điểm tạo nên sự mới lạ là những giao tiếp của
Loan bên ngoài ngôi chùa Thổ Sầu, nhằm tạo sự liên kết giữa hai câu truyện. Theo
từng lời thoại của nhân vật ta có thể thấy khát vọng muốn được hạnh phúc của
Loan ngày càng rõ rệt từ câu hỏi vu vơ, đến trực tiếp bày tỏ. Loan người phụ nữ
hâm dở, nát rượu, khổ sở vì nỗi cơ đơn bủa vây, đến mức bám víu lấy sư thầy chưa
rũ được hồng trần, đến kẻ đã hại đời mình với khác vọng về hạnh phúc lứa đơi,
trên chính đám tro tàn của q khứ đau thương, kẻ từng một lần hại mình suýt chết.
Nếu ở Loan cịn có những đoạn thoại tạo sự gắn kết giữa hai tác phẩm thì ở
Khang lại khơng có. Các đoạn đối thoại của ơng ta chủ yếu vẫn là giữa thầy sư và
Loan. Ở những phân đoạn đầu Khang chỉ đối thoại với thầy sư, người mang lại cho
ơng ta cảm giác có thể nương tựa mà khơng nhìn vào khứ của hắn, nhưng lại đối
xử thờ ơ lạnh nhạt, không hồi đáp khi Loan kẻ hắn đã st giết chết, gây chú ý, vì
ơng ta cho rằng một người đã chết như mình thì làm sao có thể giúp một người
chết khác. Cho đến khi, được nhà sư nói rằng chính bản thân Khang, phải vươn tay
kéo cái người đã chìm kia xuống, thay vì chỉ ở đó mà đọc kinh sám hối, mà mong
rằng có thể khiến điều gì trở nên tốt hơn. Chính là lúc Loan được hắn ta hồi đáp
“chừng nào buồn, lại rủ tôi uống rượu với” (tr78, 8).
Cũng giống như hai nhân vật Khang và Loan, Nhàn cũng là một trong những
nhân vật có lời thoại khơng nhiều, khi được chuyển thể sang tác phẩm điện ảnh
nhiều lời thoại trong truyện ngắn được trích nguyên vẹn đã giúp nêu bật truyền tải
được tồn bộ những thơng điệp mà nhân vật Nhàn muốn gửi gắm với cái nhìn về
tình yêu mà những người phụ nữ của cái xóm Thơm Rơm này dành cho người
chồng. Chẳng hạn khi mẹ chồng bảo Nhàn bỏ thằng chồng trời đánh và cả những

lời khuyên của Hậu, Nhàn chỉ dửng dưng mà thốt lên: “Không lẽ chị bỏ ảnh, sao
chị bỏ ảnh được, tại chị mà con Hoa nó chết, nên ảnh mới ra nơng nỗi vậy” “Con
bỏ ảnh đi thì ai cất nhà cho ảnh đốt. Ảnh đốt nhà hàng xóm thì mang tội”. Thương
u chồng, Nhàn thấu hiểu cho tất những ẩn ức, đau thương mà chồng mình phải
gánh chịu bởi những lo toan của cuộc sống cơm áo gạo tiền, với nỗi lo “thất mùa
mất giá” và cả những nỗi đau âm dương cách biệt với con – niềm hi vọng níu kéo
Tam với cuộc sống đã mất chính vì thế mà Nhàn sẵn sàng cắp nhà lại sau mỗi lần
Tam đốt không một lần than vãn. Ngôi nhà sau mỗi lần ánh lửa rựa lên là một lần
thêm tàn tạ, rách nát, mỗi lần như thế Nhàn vẫn chỉ biết nói vui với Hậu: “Sơ sơ là
được rồi, làm tử tế chi mất cơng. Trước sau gì anh Tam cũng đốt”. Trong mắt
15


người chồng ấy thì sự tồn tại của vợ họ chỉ là sự tồn tại rỗng không, một khoảng
trống. Như một sự nghịch lí, người đàn ơng càng khơng nhìn thấy người phụ nữ lại
càng tha thiết, thậm chí thèm khát chồng nhìn thấy mình. Và ở Nhàn hành động
cắp nhà và cái nhìn si mê của cơ qua những lần đốt nhà của Tam như một sự hi
sinh đầy nghiệt ngã, để hy vọng từ đống tro tàn rữc rỡ ấy, tình u của cơ sẽ được
Tam nhìn thấy.
Tam trong truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ” là nhân vật ít biểu lộ qua lời nói, bởi
Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng Tam là nhân vật ít nói nhưng lại chất chứa nhiều nỗi
niềm khó chia sẻ. Khi Nhàn sinh đứa thứ hai không thành, đứa trẻ chết lưu, rồi con
Hoa – đứa con gái nhỏ là tất cả tình yêu thương của họ bị chết đuối dưới mé kênh.
Tam từ người hiền lành, chịu khó, u thương gia đình trải qua biến cố mất con mà
trở thành kẻ ngang tàng, ngạo ngược. Tính cách Tam khơng được miêu tả nhiều
qua lời nói mà chủ yếu là những hành động. Bởi không thể diễn đạt nỗi đau mất
mát thành lời mà dần chất chứa rồi trở thành nỗi ám ảnh trong Tam. Và rồi anh
phải giải tỏa bằng việc đốt nhà. Nỗi đau đã trở thành chấn thương tâm lý trong
nhân vật. “Phải khóc được thì tơi đâu có đốt nhà. Tam phân trần, mặt hiền queo
xẻn lẻn.” [8, tr.88] Lời phân trần tỉnh queo của gã đàn ông say xỉn thích đốt nhà.

Tam đã trở thành kẻ chỉ tìm thấy sự thỏa mãn hay được giải phóng những ẩn ức bất
lực của mình qua sự rực rỡ của đám cháy.
Tam tìm đến rượu như là cách để che dấu đi sự mất mát Chính vì những cơn say
rượu khiến Tam có những lúc buồn tủi vơ cớ nhưng giấu sau sự nghiện rượu đó là
nỗi khổ sở, buồn bực và bất mãn với thực tại. “Chỉ vì Nhàn mệt q ngủ qn
khơng ngồi chờ bên cửa, chỉ vì con chó hàng xóm sủa dữ quá, và Tam nghĩ “nó
khinh ta”, hay vì cái rễ cây me tây gồ lên khỏi mặt đường làm anh ta vấp té.” [8,
tr.89]. Rượu trở thành thứ thuốc chữa lành nỗi đau và tiếp thêm cho Tam dũng khí
để làm những điều mà bình thường anh chẳng dám làm. “Ông Tam vẫn thường
lang thang ngoài đường lúc nửa đêm, lè nhè chửi rủa chiếc xuồng vuột dây trơi
mất, chửi đom đóm, chửi rạ rơm vướng chân.” [8, tr.89]
Nhân vật Tam trong phiên bản điện ảnh được thể hiện rõ hơn qua ngôn ngữ
nhân vật. Mặc dù vẫn giữ hình tượng khá giống so với truyện ngắn, Tam vẫn là
tuyến nhân vật có ít lời thoại. Ban đầu khi mới cưới Nhàn, Tam là người hiền lành
có phần hơi cục mịch. Trong ngày đám cưới, sự hạnh phúc của Tam thể hiện rõ khi
cưới được Nhàn. Khi được người trong xóm hỏi về chuyện sao cưới được Nhàn,
16


Tam trả lời “Tui hên thôi .... tại chị Nhàn chọn anh á.” Tam vốn dĩ là người được
mọi người q mến bởi tính tình hiền hậu, thương u vợ con. Thậm chí khi bị
những người ở chỗ làm trêu chọc, anh cũng cười xề cho qua. Nhưng đến khi mất
con, Tam như thay đổi thành con người khác. Từ các biến cố, cho đến chuyện nhà
cháy, ngoài mặt Tam vẫn tỏ ra bình thường nhưng thực chất đã có sự xa cách đối
với vợ. Đối với Tam, có thể tình u với Nhàn đã khơng cịn. Khi Nhàn bấu với vết
thương trên tay Tam “Cứ bóp mạnh lên đi, biết đâu như vậy sẽ dễ chịu hơn.” Tam
dần bị mọi người xa lánh, ẩn ức bị chính những người làm cùng, làng xóm dè bĩu
khiến Tam ngày càng khơng thể thoát khỏi những nỗi đau thương. Tiếng kêu của
Tam lạc ở rừng, “Có ai ở đâu khơng?” thì cũng ai đáp lại. Sự khắc nghiệt của sinh
tồn hay sự lặp lại của cuộc sống tù đọng, bế tắc biến con người càng lún sâu vào

tuyệt vọng. Dường như chỉ khi nhìn thấy lửa Tam mới ngi ngoai nỗi đau khổ
trong lịng.
Sư Thầy trong “Củi mục trơi về” được xây dựng như hình tượng ân nhân của
tuyến nhân vật chính “cô” và “gã” khi cả hai đều chết đi một phần tâm hồn. Sư
thầy của ngôi chùa Thổ Sầu đại diện cho sự tìm kiếm hướng đi cho linh hồn và sự
lạc lối giữa lịng người. Chính sư thầy là người nhận ra gã đầu tiên “đường sá gì
mà vắng hoe, buồn quá, ông” [8, tr.78] và muốn gã ở lại chùa, nơi mà “nghèo đến
mức người xa về không biết gọi là nhà hay chùa”, “đến nỗi xưng hô với người kinh
kệ trong chùa thế nào cũng ngại” [8, tr.78] Qua ngôn ngữ thể hiện trong truyện
ngắn, sư thầy vốn khơng phải người chính tu “Giận vẫn chửi, có điều chửi chay,
kiểu như rầy đám con nít hái trộm bông trang trong vườn chùa: “mấy đứa bây kiếp
sau sẽ biến thành cỏ.. cứt heo”. [8, tr.78] Mấy người xóm gặp thầy lần nào cũng
nói “thầy chùa mà khơng nên nết”. [8, tr.78] Thầy vần còn bận tâm đến chuyện
đời, thầy để ý đến cô khi thấy cô say nhiều hơn trước. Đan xen trong truyện là
những lời độc thoại nội tâm của sư thầy “ý nghĩ vừa loé lên thảng thốt, nếu mình
khơng theo Phật nữa? Mà cơ ta khơng lấy được chồng liên quan gì tới mình?” [8,
tr.78] Có sự sục sơi trong suy nghĩ của sư thầy về cơ, khi thầy thơi khơng tu thì ít
nhất cơ sẽ khơng cịn uống say nữa khi mùa cưới tới. So với bản điện ảnh, lời thoại
của sư thầy vẫn cịn dựa vào lời văn của truyện ngắn nên có phần không được tự
nhiên như khẩu ngữ. Những lời tâm sự cùng Khang khi hai người cùng uống rượu.
Một người đi trên con đường đạo đến gần bốn mươi năm vẫn chưa đủ hạnh, cũng
giận, cũng buồn, hứng chí vẫn uống chút rượu, vẫn phân vân trước một lời than thở
của Loan. Để rồi phải thốt lên “Ông là thứ cỏ chỉ vô dụng. Tối ngày chỉ biết làm
17


chuyện bá láp, may vơ đất thì có ý nghĩa gì? Người ta té sơng, ơng đọc kinh sám
hối thì tự dưng người ta nổi lên sao? Phải lấy tay mình kéo họ kìa, ơng ơi.” Đến
sau cùng, sư thầy nhận ra tình u thương đơi khi là sự cứu rỗi con người hơn cả
kinh sách.

2.1.2. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua hành động
Trong truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ” của Nguyễn Ngọc Tư, nhân vật Hậu là
người kể chuyện, là người chứng kiến đám cháy với những điểm nhìn bên ngồi
nên hành động trong truyện khá ít và không cụ thể, sinh động như trong bản điện
ảnh. Ở tác phẩm điện ảnh “Tro tàn rực rỡ” của Bùi Thạc Chuyên người đọc thấy
được một thoại của nhân vật khơng q nhiều nhưng thay vào đó thể hiện khá
nhiều qua hành động. Nhóm chúng tơi dẫn chứng qua một số hành động như trong
ngày cưới của mình ánh mắt của Hậu ln hướng nhìn về Dương nhưng anh ta
chẳng hề nhìn cơ dù chỉ một lần. Khi Hậu biết ánh mắt người chồng của cô đang
hướng về Nhàn bên kia sông đã khiến cô trở nên căm ghét Nhàn hơn. Có lẽ đó là
một trạng thái bình thường của bất cứ người đàn bà nào có chồng nhưng biết anh ta
chẳng thương mình mà đang dành tình cảm cho một người khác. Nó kéo theo một
loạt hành động phía sau như khi nhân vật Nhàn nhờ chở đi chợ, Hậu đã cố tình
phóng nhanh hết mức để Nhàn phải say sóng mà chịu khơng nỗi, trên chuyến ghe
ấy Nhàn như độc thoại một mình khi Hậu chẳng thèm trả lời lại những câu hỏi của
cơ. Cơ cịn ni một con chim tên Nhàn để chồng mình có thể chú ý đến nó, Hậu
cũng thường đi coi cháy để kể chuyện cho Dương nghe,....Tất cả điều mà Hậu làm
đều mong cầu tình u từ Dương mặc dù cơ biết trái tim của chồng mình đã dành
cho Nhàn, nhưng cái khao khát được yêu thương ấy vẫn luôn thôi thúc Hậu để
mong một lần Dương có thể nhìn về phía mình. Diễn biến hành động trong nhân
vật này cũng dần thay đổi sau lần Tam đốt nhà, Hậu trở nên cảm thơng, đồng cảm
với Nhàn. Bởi có lẽ Hậu cũng thấy ở Nhàn có những điểm giống Hậu đó là mong
cầu, khát khao ánh nhìn từ người chồng hướng về mình giống như cô. Từ lúc ấy,
Hậu đã sang nhà Nhàn để học nấu ăn, may thêu, khi nhà Nhàn cháy thì dỡ nhà của
chính mình để cho Nhàn...Khán giả sẽ thấy từ hành động của Hậu đã góp phần thể
hiện sự tiến triển bên trong tâm lý nhân vật, Hậu đã có sự đồng cảm đối với Nhàn.
Tính cách của Hậu khơng xấu, cơ cũng cảm thấy xót xa khi chứng kiến cảnh Tam
đốt nhà mà Nhàn phải cam chịu, nhưng chỉ vì sự ghen tng nên ban đầu cơ mới
có sự ganh ghét với Nhàn. Tất cả những hành động của Hậu đều xuất phát từ tình
yêu dành cho chồng mình, những hành động trong cuộc sống của người phụ nữ ấy

18


đều thể một khát khao duy nhất là mong chồng có thể đáp lại tấm chân tình của
mình, mong một ngày nào đó trái tim chồng Hậu có thể đặt cơ ở trong lịng...
Trong tác phẩm điện ảnh “Tro tàn rực rỡ” hành động của nhân vật Dương
cũng được tái hiện rõ nét hơn so với truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Ngọc Tư.
Hành động của Dương luôn thể hiện một tình cảm thầm kín dành cho Nhàn, cái
anh nhìn của đàn ông này luôn hướng về Nhàn chứ không hề để tâm đế vợ mình.
Người đọc có thể thấy qua hành động của Dương đã thể hiện rất rõ điều đó như
trong đám cưới Tam và Nhàn, Dương đã có thái độ rất bực tức sau đó trên đường
về dưới cơn men say anh đã hãm hiếp Hậu nhưng lại gọi tên Nhàn. Sau cái đêm đó
anh bỏ đi biển biệt tăm, đến khi má gọi về cưới Hậu vì cơ đang mang, “Một bữa
má anh nhắn tàu đị kêu thằng con về gấp. Về cưới vợ. Bụng con nhỏ chang bang
rồi. Chắc anh mất nhiềuthời gianmới nhớ ra con nhỏ mà má nói là em, nhớ ra một
đêm tối trời, say, đuốc chìm trên mặt nước, và mấy cọng rơm cứ cọ vào bẹn nhột
ran”[8,tr.92]. Thế nhưng đến cuối cùng Dương cưới Hậu cũng chỉ vì trách nhiệm
mà khơng hề tồn tại tình u đối với Hậu. Anh luôn dành thời gian để bỏ đi biển
đánh cá mà chẳng hề đối hồi đến vợ ở nhà, chỉ thỉnh thoảng về thăm nhà mà
thôi. Anh chẳng bận tâm đến những điều vợ nói trừ những việc liên quan đến
Nhàn, thậm chí khi vợ anh dỡ nhà để cho Nhàn lợp lại nhà mới Dương khơng hề
trách mắng mà cịn nhiệt tình phụ cơ dỡ để Nhàn có cái lợp lại chỗ ở. Thậm chí lần
đầu tiên anh mở miệng nói chuyện trước với Hậu để hỏi về đám cháy hôm nay xảy
ra như thế nào? Tại sao vợ lại không kể chuyện như mọi khi về đám cháy nữa...Tất
cả việc làm ấy đều xuất phát từ việc anh đang quan tâm đến cuộc sống của Nhàn,
mọi chuyện xảy ra xung quanh người đàn bà ấy mới khiến anh để tâm. Đến khi
Hậu không kể chuyện về Nhàn nữa mà chỉ có tiếng khóc nức nở, có lẽ Dương đã
biết đã có chuyện khơng hay xảy ra nên anh lại khăn gói đi biển và cũng chẳng biết
có quay về hay không...Bởi những câu chuyệ về đám cháy là sợi dây kết nối Hậu
với Dương, chỉ khi kể về những điều ấy anh mới để tâm nhưng nay Hậu chẳng kể

mà thay vào đó là sự thất thần và tiếng khóc có lẽ anh cũng phần nào đốn ra được
câu chuyện sau đó. Qua hành động của Dương, người đọc có thể thấy được Dương
khơng xấu nhưng bởi lẽ anh không yêu Hậu nhưng vẫn chịu trách nhiệm với cô
làm trịn trách nhiệm của một người đàn ơng,vẫn giúp Hậu đuổi rắn, Dương vẫn
yêu thương chăm lo cho bé Tý, đùa giỡn cùng nó, dạy nó đánh răng,...Có lẽ cái
chấp niệm tình yêu của Dương dành cho Nhàn quá lớn, cái bóng hình của Nhàn
khắc sâu q đậm trong thanh xuân của Dương nên anh mới luôn hướng ánh mặt
19


của mình về Nhàn, nhưng chính điều này lại khiến người đàn ơng trở nên “vơ
hình”, tồn tại cũng như khơng trong chính gia đình nhỏ của mình. Có thể mỗi
người có một cách nhìn một cách đánh giá về nhân vật Dương khác nhau nhưng
qua hành động của anh, khán giả lại khơng khỏi xót xa trước tình cảm Hậu dành
cho anh, Hậu dành tất cả để rồi nhận lại được gì khi đơi mắt chồng mình chỉ một
lịng hướng về người đàn bà khác...
Nếu như trong tác phẩm văn học nhân vật Nhàn chỉ hiện lên qua lời kể của
Hậu với chồng như một cách níu kéo chồng ở lại nhà thì đến với tác phẩm chuyển
thể của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên một mặt Nhàn vẫn hiện lên qua lời kể của Hậu
xong một mặt ông đã để cho Nhàn tự tái hiện cuộc sống của chính mình, vì thế mà
tuyến câu chuyện của Nhàn được đặt song hành trong sự phát triển với câu chuyện
của Hậu và người đàn bà cịn lại trong “Củi mục trơi về” là bà Loan “khùng”. Khi
chuyển thể thành phim, hầu như các làm làm phim đều kế thừa, tiếp thu hệ thống
nhân vật từ tác phẩm văn học nhưng đây khơng đơn giản chỉ là q trình sao chép
y ngun hệ thống nhân vật sang phim mà ở đó biên kịch và đạo diễn thể hiện thao
tác chọn lọc: tiếp thu và làm mới nét tính cách, kế thừa và cải biên sự kiện trong
cuộc đời nhân vật. Cũng dựa trên tình thần đó đạo diễn Bùi Thạc Chun đã giữ
nguyên từ tên nhân vật cho đến những đặc điểm điển hình của nhân vật Nhàn: một
người phụ nữ giỏi nội trợ, đảm đang, yêu thương chồng con và hết lịng vun vén
hạnh phúc cho ngơi nhà nhỏ,... nhưng trong một lần đểnh đoảng bỏ mặc con nhỏ

một mình ở nhà lo kiếm tiền. Rồi một sự vụ kinh hoàng đã xảy ra đúng lúc, kéo
mạch phim có phần rề rà ban đầu trở nên quyết liệt hơn: Hoa – đứa con gái nhỏ là
kết tinh tất cả của tình yêu thương của họ bị chết đuối , chết ngay khi vừa kịp vớt
xác, Nhàn bị chồng đánh và mất ngay đứa trẻ thứ hai khi chưa thành hình. Từ đây,
hình ảnh về một mái ấm với vợ đẹp con ngoan trong tâm trí Tam hồn tồn sụp đổ,
Nhàn từ một phụ nữ xinh đẹp trở nên cằn cỗi, khắc khổ. Nhưng cũng như Hậu,
Nhàn tiếp tục nuôi hy vọng rằng cô sẽ chữa lành vết thương cho chồng, cô chịu
đựng sự ghẻ lạnh của Tam nhưng vượt trên tất cả, Nhàn chấp nhận để chồng đốt
nhà chỉ vì cơ tin rằng mọi thứ là do cô gây ra. Nhàn hiểu cho những gánh nặng và
nỗi đau thường trực của Tam vì thế Nhàn chọn cách quên đi nỗi đau của mình để
tìm mọi cách xoa dịu vết thương tinh thần cho chồng. Những chất liệu đầy ẩn ức
và thậm chí dữ dội ấy được Nguyễn Ngọc Tư mơ tả với những ngôn từ đầy tinh
giản và sắc lạnh thông qua lời kể đầy dửng dưng của nhân vật Hậu trong một dung
lượng nhỏ của một truyện ngắn chưa đến 10 trang. Còn trong bộ phim điện ảnh của
20



×