MỤC LỤC
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG 3
TÀI CHÍNH – KHỦNG HOẢNG NỢ 3
Phân theo nguồn vay bao gồm: vay trong nước (các khoản vay từ người cho vay
trong nước) và vay nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước) 23
Phân theo chủ thể đi vay bao gồm: Chính phủ; chính quyền địa phương; doanh
nghiệp và các tổ chức tài chính, tín dụng được Chính phủ bảo lãnh 23
Chính phủ có thể phát hành trái phiếu Chính phủ để vay từ các tổ chức, cá
nhân. Trái phiếu Chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín
dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế, thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc
lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu Chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các
ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng
nội tệ vì Chớnh phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra cũn cú
rủi ro về tỷ giá hối đoái 24
Hiện nay, lượng phát hành trái phiếu Chính phủ của Mỹ đã vượt mốc 13.000 tỷ
USD, chiếm hơn 90% GDP. Trong khi tỷ lệ này của Nhật Bản là 229%, là quốc
gia có mức nợ công ở ngưỡng nguy hiểm nhất thế giới, gần gấp đôi so với tỷ lệ
115,1% của Hy Lạp 25
Vay trực tiếp: Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các NHTM, các thể chế
siêu quốc gia (ví dụ: IMF) Hình thức này thường được Chính phủ của các nước
có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức
phát hành trái phiếu Chính phủ của họ không cao 25
CHƯƠNG II: GIẢI QUYẾT CUỘC KHỦNG HOẢNG 28
NỢ CễNG CHÂU ÂU 28
Kinh tế thế giới nói chung và Châu Âu nói riêng vừa trải qua cơn bão khủng
hoảng tài chính tiền tệ năm 2008, cuộc khủng hoảng dữ dội nhất kể từ sau cuộc
Đại suy thoái 1929 - 1933, và đang chật vật hồi phục. Thế nhưng, sự hồi phục hiện
nay của kinh tế Châu Âu rất mong manh, bấp bênh và không loại trừ khả năng có
thể bị suy thoái trở lại bởi nhiều nguyên nhân, trong đó, tình trạng nợ công tràn
lan ở một số nước là một nguyên nhân quan trọng. 62
CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO 82
VIỆT NAM TỪ VIỆC GIẢI QUYẾT CUỘC 82
KHỦNG HOẢNG NỢ CễNG CHÂU ÂU 82
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Theo chu kỳ của nền kinh tế, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều những cuộc khủng
hoảng, dù lớn hay nhỏ đều để lại những hậu quả nhất định và những bài học quý báu.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 - 2009 thì nổi bật nhất trong khoảng thời
gian vừa qua là cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực Châu Âu.
Đến thời điểm hiện tại, cuộc khủng hoảng nợ công vẫn là một đề tài nóng trong các
cuộc thảo luận, diễn đàn kinh tế quốc gia, khu vực và thế giới. Điều mà mọi người
quan tâm nhất là Châu Âu nói chung và các quốc gia lâm vào cuộc khủng hoảng nợ nói
riêng đã làm gì và cần phải làm gì để có thể thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng này?
Đối với Việt Nam, tuy không chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng nợ công và
cơ sở nền tảng kinh tế cũng khiến cho việc so sánh với các nước Hy Lạp, Ireland, Bồ
Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia có phần khập khiễng, nhưng có lẽ dự ớt hay nhiều thỡ
trụng cách thức “người khỏc” giải quyết vấn đề thì “bản thõn” cũng rút ra được những
bài học hữu ích.
Vấn đề đối với Việt Nam hiện nay không phải là bắt chước các quốc gia rơi vào
cuộc khủng hoảng nợ những biện pháp ứng phó của họ bởi vì hoàn cảnh hiện tại cũng
như điểm xuất phát của mỗi nơi mỗi khác. Cụ thể: Việt Nam có điểm xuất phát thấp
hơn các quốc gia Châu Âu “dớnh” vào cuộc khủng hoảng nợ và hiện tại có mức nợ
công vẫn trong giới hạn cho phép; trong khi đó, Hy Lạp, Ireland, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, Italia đều là những nước có nền kinh tế phát triến từ trước và hiện đang phải
đối phó với nguy cơ vỡ nợ. Chính vì vậy, cần thiết đối với Việt Nam lúc này là nghiên
cứu các biện pháp mà các nước Châu Âu đang áp dụng để giải quyết cuộc khủng hoảng
nợ, xem những biện pháp nào có thể hữu ích trong trường hợp “bản thân” rơi vào hoàn
cảnh tương tự cũng như nhằm phòng tránh trong tương lai.
Xuất phát từ vấn đề thực tiễn này, em chọn đề tài “Giải quyết khủng hoảng nợ công
của EU: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” là đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Trên cơ sở lý luận về khủng hoảng nợ, luận văn trình bày thực trạng khủng hoảng
nợ tại một số nước Châu Âu, phân tích những nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng
nợ cũng như tác động của cuộc khủng hoảng này đến nền kinh tế Châu Âu, tìm hiểu
những biện pháp ứng phó nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng cũng như đỏnh giỏ tớnh
hiệu quả của các biện pháp này; từ đó, xuất phát từ thực trạng nợ công Việt Nam và
trên cơ sở một số nguy cơ tiềm ẩn xảy ra khủng hoảng nợ đối với Việt Nam để đề xuất
những bài học kinh nghiệm về các biện pháp mà Việt Nam có thể áp dụng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cuộc khủng hoảng nợ cụng Chõu Âu và
phạm vi nghiên cứu là từ thời điểm bắt đầu cuộc khủng hoảng đến hiện tại (tháng
3/2012).
4. Phương pháp nghiên cứu.
− Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá những thông tin từ nguồn tài liệu thu
thập được: sách báo, tạp chí chuyên ngành, internet cũng như các nghiên cứu và ý
kiến đánh giá của một số chuyên gia kinh tế.
− Phương pháp so sánh, duy vật biện chứng.
5. Bố cục của luận văn.
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về khủng hoảng tài chính - khủng hoảng nợ.
Chương 2: Giải quyết cuộc khủng hoảng nợ cụng Chõu Âu.
Chương 3: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ việc giải quyết cuộc khủng hoảng nợ
cụng Chõu Âu.
3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH – KHỦNG HOẢNG NỢ
Khủng hoảng tài chính.
Khủng hoảng tài chính là gì?
Sự phát triển của hệ
thống
tài chính toàn cầu bờn cạnh việc mang lại
những c
ơ
hội
lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dõn tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn
những
nguy cơ
khủng
hoảng.
Khủng hoảng kinh tế là sự suy giảm của hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng
hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Khủng hoảng kinh tế lên đến đỉnh điểm là
nguyên nhân xảy ra khủng hoảng tài chính; vì khủng hoảng kinh tế bị suy thoái, khủng
hoảng sản xuất thừa sẽ làm gia tăng nhu cầu sử dụng tiền cho mục đích tiêu dùng hàng
hóa. Khủng hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá nguồn cung của xã hội.
Nhu cầu về tiền của nhân dân hay của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã gây ra sức
ép cho hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính khiến cho ngân hàng và các tổ chức tài
chính có thể sụp đổ. Khủng hoảng tài chính chỉ là một phần của khủng hoảng kinh tế
nhưng khủng hoảng tài chính lại gây ra thiệt hại lớn nhất vỡ cỏc nước có tự do thương
mại, nguồn vốn được di chuyển qua những nước khác nhau nên khủng hoảng tài chính
là yếu tố lây lan còn khủng hoảng kinh tế nó không có yếu tố trực tiếp lây lan.
Như vậy có thể nói, khủng
hoảng tài chính có
một
lịch sử khá dài gắn liền
với sự ra đời và phát
triển của hệ
thống
tài chính trong nền kinh tế thế giới. Mặc
dự có
những
điểm giống nhau,
nhưng
các cuộc khủng
hoảng
những năm
vừa
qua
khác với các cuộc khủng hoảng
trước đõy trờn nhiều khía cạnh quan trọng, đặc biệt là
ở tác động quá mức và khả năng
l
õy
lan của khủng hoảng dường
như rất lớn
và
vượt
quỏ khả năng kiểm
soát.
Khủng
hoảng tài chính (Financial Crisis)
l
à
tình trạng tài chính (quỹ) mất cõn
đ
ố
i
4
nghiêm
trọng có thể dẫn đến sụp đổ quỹ.
Đ
ặ
c trưng của mỗi quỹ (fund) cấu thành
nên hệ thống tài chính là các dũng tiền vào/ra (input/output)
,
nhận/thanh toỏn
(receipt/payment), hình thành tài sản có
/tài
sản nợ
(assets
/
liabilities). Khi xảy ra hiện
tượng
mất cân
đối nghiêm
trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải thanh toán về số
lượng,
thời hạn, c h ủ ng
loại tiền thì có thể xảy ra khủng hoảng tài chính. Như vậy,
khủng
hoảng tài chính
l
à
khái niệm bao
trùm
được sử
dụng chung c
h
o
mọi loại
khủng
hoảng gắn với mất cân đối
v
ề
t
ài
chính và
thường
là gắn với nghĩa vụ
p
h
ả
i
thanh toán lớn hơn nhiều
phương
tiện
dùng
đ
ể
thanh toán tại một thời điểm
nào
đ
ó
.
Chính
vì vậy,
khủng hoảng
tài chính có đặc
điểm của khủng hoảng
“thiếu”
chứ không giống khoảng
“thừa”
diễn ra trong nền kinh tế thị
trường
từ
nhiều năm n a
y
. Nói một cách cụ thể ra thì khủng hoảng tài chính là sự đổ vỡ trầm
trọng các bộ phận của thị trường tài chính kéo theo sự vỡ nợ của hàng loạt ngân hàng
và tổ chức tài chính, khiến chúng không thể thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất:
• Thứ nhất, ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sản tài chính như một phương
tiện giao dịch, cất trữ tài sản.
• Thứ hai, là trung gian chuyển vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả
nhất.
Hệ quả của khủng hoảng tài chính là nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng
tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với lạm phát,
hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát.
Có thể sơ bộ chia ra 3 quan điểm chính về khủng hoảng tài chính:
• Nhóm thứ nhất là những người theo chủ thuyết tiền tệ (Monetarists View), dẫn
đầu là Friedman và Schwartz (1963). Họ cho rằng: Khủng hoảng tài chính là do
sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng (banking panics), gây nên sự co hẹp cung
tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tư. Họ bỏ qua
những nguyên nhân thực như: sự sụt giảm hiệu quả của nền kinh tế, sự suy sụp
của nhiều doanh nghiệp. Vì vậy, theo họ, sự can thiệp của Chính phủ là không
5
cần thiết, thậm chí có hại, bởi vì những doanh nghiệp bị phá sản lại được cứu
vớt, gây nên sự gia tăng quá mức về cung tiền tệ và dẫn tới lạm phát.
• Nhóm thứ hai là nhóm đối lập nhóm theo chủ thuyết tiền tệ là Keynesian View,
dẫn đầu là Kindleberger (1978) và Misky (1972). Họ có quan niệm rộng hơn về
khủng hoảng tài chính và tiền tệ, bao gồm sự sụt giảm hầu hết giá trị cổ phiếu,
sự vỡ nợ của nhiều công ty tài chính và phi tài chính, nạn giảm phát đi kèm với
sự rối loạn của thị trường ngoại hối. Những yếu tố này gây nên sự sụt giảm
mạnh về tổng cầu đầu tư và tiêu dùng, vì thế cần phải có sự can thiệp của Nhà
nước. Điều đáng nói là họ không đưa ra một đặc trưng rõ ràng về nguồn gốc của
khủng hoảng, để làm tiền đề cho một chính sách kích thích có hiệu quả. Vì vậy,
sự can thiệp của Chính phủ rất dễ dẫn đến lạm phát và trì trệ, như những người
theo chủ thuyết tiền tệ đã lưu ý.
• Nhóm thứ ba nhấn mạnh tới bản chất rủi ro của hoạt động tài chính, dẫn đầu là
Stiglitz và Weiss (1981). Theo họ, hoạt động của hệ thống tài chính, đặc biệt là
ngân hàng, chịu rủi ro cao, do ngân hàng đầu tư hay tổ chức cho vay thường
không nắm rõ thông tin về khả năng sinh lợi và mức độ rủi ro của dự án đầu tư
bằng cỏ nhân hay tổ chức đi vay, tức là những người chủ dự án. Sự khác biệt về
thông tin (asymetry of information), hay sự thiếu minh bạch về thông tin dự án,
khiến cho hệ thống tài chính có thể có vấn đề, bởi vì ngân hàng muốn ép lãi suất
thực, cộng cỏc phớ dịch vụ cho vay tăng lên để bù cho rủi ro mất vốn có thể xảy
ra. Nhưng điều này lại khiến cho những dự án có độ rủi ro cao nhất mới hy vọng
có khả năng sinh lãi đủ cao để trả nợ (nếu may mắn thành công). Ngược lại, nếu
đó là dự án của những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với độ rủi ro ít (mức sinh lãi
thấp hơn), thì họ sẽ khó có thể được vay vốn. Vì vậy, khi lãi suất cho vay tăng
lên thì:
+ Sẽ có một tỷ lệ lớn những chủ các dự án với độ rủi ro cao hơn (như đầu cơ
vào bất động sản, chứng khoán thời bong bóng) đi săn lùng vốn vay. Trong
khi đó, những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với những nhà đầu tư cẩn trọng, sẽ
6
bị loại ra khỏi danh sách các ứng cử viên. Người ta gọi đây là sự chọn lầm
phải điều ngụy hại (adverse selection), theo Akerlof (1974).
+ Với những chủ dự án lớn đã vay được vốn, thì họ có xu hướng làm thay đổi
bản chất dự án mang tính đầu cơ cao hơn hoặc có vẻ quan trọng hơn, để Nhà
nước không thể để cho bị thất bại. Do vậy, họ có thể giàu lên nhanh chóng,
nếu việc đầu cơ thành công; và để ngân hàng chịu tích tụ những khoản nợ
xấu; hay xã hội phải gánh vác tổn thất qua gánh nặng cứu trợ ngân sách nếu
dự án bị thất bại. Người ta gọi đây là hiểm họa do sự vô trách nhiệm (moral
hazard).
Chớnh vì những lý do trên đây, những người theo trường phái kinh tế học thể chế
(institutional economics) cho rằng hoạt động của ngân hàng nói riêng và hệ thống tài
chính nói chung phải được giám sát hết sức cẩn trọng, nhằm hướng các giao dịch tới sự
an toàn (Aoki 1991; Mc Kinmon 1991).
Ngoài sự phân loại chức năng các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và các
quỹ đầu tư theo mức độ rủi ro của từng lĩnh vực đầu tư, cần phải có nhiều tổ chức trung
gian khác làm chức năng giám sát và cảnh báo rủi ro. Chẳng hạn như các tổ chức xếp
hạng (rating companies), mà họ thường xuyên có sự thay đổi trạng thái tài chính của
các tổ chức tài chính và phi tài chính. Sự xếp hạng này ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng của các công ty trong việc gây quỹ từ thị trường vốn hay thị trường chứng khoán.
Nhìn chung, cho dù thuộc trường phái kinh tế nào, thì vẫn có một sự nhất trí rằng,
hệ thống tài chính cần phải được giám sát chặt chẽ, do tính phức tạp và rủi ro của hoạt
động này; và việc thiếu sự quản lý, giám sát luôn dẫn đến bong bóng đầu cơ. Tuy
nhiên, chỉ khi việc mất cân đối vĩ mô trỡ nên rất nghiêm trọng thì bong bóng đầu cơ
mới có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính và kinh tế trên quy mô lớn. Những nhà đoạt
giải thưởng Nobel kinh tế đã phát biểu quan điểm này bao gồm: Paul Krugman,
Edmund S.Phelps, Reinhard Selten và Josep Stiglitz. Họ nhấn mạnh rằng, khủng hoảng
có thể tránh được nếu có một hệ thống giám sát tài chính và cảnh báo rủi ro tốt. Vì vậy,
họ cho rằng, không phải cứ tự nhiên mà có sự can thiệp của Chính phủ thông qua cỏc
7
gúi kích thích, nếu như không hiểu rõ khiếm khuyết gì trong thể chế tài chính đã đẩy
đến khủng hoảng.
Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính.
Tùy theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính thể hiện ở các điểm sau đây:
• Sự giảm giá dây chuyền của các đồng tiền.
• Tỷ giá hối đoái tăng đột biến và dây chuyền.
• Lãi suất tín dụng gia tăng: lãi suất tăng kéo theo cầu tiền tệ, cầu tín dụng sụt
giảm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị suy giảm.
• Hệ thống ngân hàng bị tê liệt: Các ngân hàng thương mại (NHTM) không hoàn
trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền và các khách hàng vay vốn không
thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
• Thị trường cổ phiếu sụt giá nhanh chóng.
• Các hoạt động kinh tế bị suy giảm.
• Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
Nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng.
• Tăng lãi suất: Nếu lãi suất trên thị trường được nâng lên một cách mạnh mẽ vì
nhu cầu tín dụng tăng lên hoặc vì sự sụt giảm lượng tiền cung ứng thì những vụ
mạo hiểm vay tín dụng xấu vẫn có nhiều khả năng xảy ra. Điều này sẽ làm tăng
lựa chọn đối nghịch, khiến người cho vay không muốn thực hiện cỏc mún vay.
Sự sụt giảm nghiêm trọng trong việc cho vay sẽ dẫn đến sự sụt giảm quan trọng
trong đầu tư và hoạt động kinh tế tổng hợp.
• Sự sụt giảm ở thị trường chứng khoán: làm tăng vấn đề lựa chọn đối nghịch
và rủi ro đạo đức trong các thị trường tài chính và tạo ra một cuộc khủng hoảng
tài chính. Thị trường chứng khoán sụt giảm có nghĩa là giá trị tài sản ròng của
các công ty sụt giảm, khiến cho những người cho vay giảm bớt giá trị cho vay,
8
khiến cho việc đầu tư và tổng sản phẩm cuối cùng giảm. Ngoài ra, sự sụt giảm
giá trị tài sản ròng này cũng làm tăng ý muốn gây rủi ro đạo đức ở những công
ty đi vay để thực hiện những cuộc đầu tư rủi ro. Sự tăng rủi ro đạo đức khiến
cho việc cho vay trở nên kém hấp dẫn.
• Sụt giảm bất ngờ về giá cả: cũng làm giảm giá trị tài sản ròng của công ty. Do
việc thanh toán nợ đã được cố định theo hợp đồng thành những khoản danh
nghĩa, giá sụt giảm làm tăng giá trị món nợ của công ty theo hiện vật nhưng
không tăng giá trị thực những tài sản của các công ty. Kết quả là giá trị ròng
theo hiện vật (hiệu số giữa tài sản và nợ theo hiện vật) giảm và làm tăng vấn đề
về sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đối mặt với những người cho vay,
dẫn đến hoạt động cho vay và hoạt động kinh tế giảm xuống.
• Bất ổn tăng lên trong thị trường tài chính: có thể do sự thất bại của một tổ
chức tài chính hoặc phi tài chính nổi tiếng, sự suy thoái hoặc một sự đổ vỡ trong
thị trường chứng khoán tăng lên, khiến cho những người cho vay khó phân biệt
những dự án vay rủi ro và không rủi ro. Kết quả làm cho người cho vay không
có khả năng giải quyết vấn đề lựa chọn đối nghịch khiến họ giảm bớt ý định cho
vay, đầu tư và hoạt động kinh tế.
• Hoảng loạn ngân hàng: Hàng loạt ngân hàng sụp đổ sẽ làm tổng số những hoạt
động mà ngân hàng thực hiện giảm và làm giảm nguồn cung ứng vốn vay cho
những người cho vay và dẫn đến lãi suất tăng cao hơn.
• Sự ỷ lại quá mức vào ngân hàng trung ương (NHTW): Khi NHTW - “người
cho vay cuối cựng” cung cấp cho ngân hàng một nguồn tài chính tiềm tàng để
họ có thể dựa vào khi xảy ra khủng hoảng thì làm cho các ngân hàng có xu
hướng tự tin và sẵn sàng cung ứng nhiều khoản nợ hơn. Hơn nữa, vì NHTW bảo
đảm cho các ngân hàng một cách bình đẳng nên người gửi tiền đặt lòng tin vào
tất cả các ngân hàng như nhau. Do đó, sự hiện hữu của NHTW cũng tạo ra một
cấu trúc khích lệ sai lầm trong ngành ngân hàng. Người gửi tiền sẽ tỡm cỏc
ngân hàng đưa ra tỷ lệ lãi suất cao nhất cho khoản tiền gửi của họ và không chú
9
ý về vấn đề an toàn, với tâm lý: tất cả tiền cũng sẽ được NHTW trả lại. Tuy
nhiên, trong thực tế, ngân hàng nào mời chào tỷ lệ lãi suất cao nhất chắc chắn sẽ
là những ngân hàng mạo hiểm với tiền gửi nhiều nhất. Kết quả, sự hiện hữu của
NHTW lại tạo ra một xu hướng đẩy người gửi tiền tới các tổ chức mạo hiểm
nhất.
Các dạng khủng hoảng tài chính.
a) Khủng hoảng tiền tệ.
• Định nghĩa: Theo nghĩa hẹp, khủng hoảng tiền tệ gắn liền với chế độ tỷ giá hối
đoái cố định, tức là trong hoàn cảnh hết sức bị động như kinh tế đi xuống hoặc
vấp phải làn sóng đầu cơ cực lớn. Một quốc gia đang áp dụng chế độ tỷ giá cố
định sẽ phải tiến hành điều chỉnh chế độ này ở trong nước và phải chuyển sang
áp dụng tỷ giá hối đoái thả nổi. Và mức độ tỷ giá mà thị trường quyết định
thường cao hơn rất nhiều so với mức độ tỷ giá mà Chính phủ cố gắng duy trì.
Theo nghĩa rộng, khủng hoảng tiền tệ chỉ sự biến động của tỷ giá hối hoỏi vượt
quá phạm vi mà một quốc gia có thể gánh chịu
• Nguyên nhân của khủng hoảng tiền tệ: Sự mâu thuẫn trong chính sách của
Chính phủ đã từng bước tấn công vào tỷ giá cố định bởi Chính phủ phát hành
tiền để trang trải cho thâm hụt ngân sách. Người dân không tin vào bản tệ nờn
đó chuyển sang tích trữ tài sản ngoại tệ. Dự trữ ngoại hối của Chính phủ cạn
dần. Chính phủ buộc phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Các nhà
đầu cơ sẽ tranh nhau mua lượng dự trữ cuối cùng của Chính phủ. Cuộc chuyển
giao khổng lồ này được xem là hình phạt cho những chính sách mâu thuẫn, trái
ngược giữa nhiều mục tiêu của Chính phủ như là Chính phủ muốn giữ ổn định
giá cả hoặc ra hiệu cho thị trường về dự định theo đuổi chính sách tiền tệ thắt
chặt trong tương lai. Chính phủ có thể đạt được các mục tiêu này với mức giá cố
định. Mặt khác, nó cũng có thể hạn chế các nghĩa vụ trả nợ, giảm tỷ lệ thất
nghiệp hay bơm vốn cho hệ thống ngân hàng nếu nó từ bỏ tỷ giá cố định để theo
đuổi chính sách tiền tệ mở rộng.
10
b) Khủng hoảng ngân hàng.
• Định nghĩa: là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt
khỏi ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi khách
hàng đồng loạt rút tiền, các ngân hàng sẽ rất khó có khả năng để trả nợ. Điều
này có thể dẫn đến sự phá sản của ngân hàng khiến khách hàng mất đi khoản
tiền gửi của mình, trừ phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Khủng
hoảng thanh khoản có thể bùng nổ và làm cho hiệu quả của hệ thống ngân hàng
giảm. Các ngân hàng yếu buộc phải bán gấp tài sản để đối phó với việc rút tiền
gửi của những khách hàng. Còn đối với những ngân hàng hoạt động tốt, khi nhu
cầu rút tiền gửi tăng thì giá trị tài sản của những ngân hàng này sẽ bị giảm. Hậu
quả là nguồn vốn của ngân hàng giảm và dẫn tới những vấn đề về thanh toán.
Một khi ngân hàng có vấn đề về thanh toán thì tới cao trào có thể thổi bùng
thành một cuộc khủng hoảng thanh khoản mới. Cuối cùng sẽ là khủng hoảng
ngân hàng. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng thì sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng
mang tính hệ thống hoặc nếu không lan rộng thì cũng gây ra sự tăng lãi suất tín
dụng do lo ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chớnh cỏc ngân hàng
sẽ trở thành nhân tố gây ra khủng hoảng tài chính.
Khủng hoảng ngân hàng cũng có thể do các ngân hàng can thiệp quỏ sõu hoặc
cho vay vốn đối với các doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động kinh doanh có
độ rủi ro cao và lĩnh vực như bất động sản, chứng khoán Tín dụng được đầu
tư quá nhiều cho bất động sản và lĩnh vực phi sản xuất sẽ dẫn đến tình trạng mất
cân đối tài chính kinh tế. Tỷ lệ nợ xấu quá lớn khiến cho các hoạt động kinh
doanh trì trệ dẫn đến nguy cơ phá sản.
Theo định nghĩa của Demirguc - Kunt và Detragiache (1998), một giai đoạn
được coi là khủng hoảng ngân hàng hệ thống khi:
+ Nợ xấu chiếm ít nhất 10% tổng tài sản của toàn hệ thống ngân hàng;
+ Chi phí giải cứu các ngân hàng lớn hơn 2% GDP;
11
+ Nhiều vấn đề khó khăn của ngân hàng dẫn tới cần được quốc hữu húa trờn
diện rộng;
+ Các biện pháp khẩn cấp như đóng băng tiền gửi, kéo dài ngày lễ ngân hàng,
bảo đảm tiền gửi toàn bộ được áp dụng.
• Dấu hiệu
+ Một trong những điểm chung đó là sự biến động tăng giảm bất thường và bất
ổn của thị trường chứng khoán ở giai đoạn trước khi diễn ra cuộc khủng
hoảng, góp phần làm trầm trọng hơn tình trạng khủng hoảng. Theo
F.Mishkin, khi mà sự bất ổn tăng lên và giá trị ròng toàn thị trường chứng
khoán suy giảm thì vấn đề thông tin bất cân xứng sẽ phát sinh.
+ Đối với ngân hàng, sẽ có nhiều khó khăn trong việc xác định đâu là đối
tượng cho vay tốt và đâu là không tốt. Suy giảm giá trị ròng toàn thị trường
cũng đồng nghĩa với việc suy giảm giá trị của tài sản thế chấp, ký quỹ, đồng
thời tăng khả năng đối tượng nhận vay nợ thực hiện các khoản đầu tư có
mức độ rủi ro cao do lượng tài sản họ mất đi (nếu khoản đầu tư không thành
công) sẽ nhỏ hơn. Trong khi đó, các bảng cân đối tài sản của ngân hàng ngày
một xấu đi, tất cả góp phần làm nảy sinh nhiều hơn vấn đề lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức.
+ Hoạt động đầu cơ nở rộ, xuất hiện đặc biệt nhiều trờn cỏc thị trường ngoại
hối, đẩy nền kinh tế vào cuộc khủng hoảng trên mọi phương diện.
+ Cấu trúc tổ chức thị trường nợ tương tác với tình trạnh phá giá tiền tệ đẩy
nền kinh tế tới cuộc khủng hoảng toàn diện. Sự mất giá đồng tiền trong nước
làm cho tình trạng vay nợ, xột trờn góc độ đồng nội tệ, thêm trầm trọng,
ngay cả khi trên thực tế giá trị tài sản của họ không hề thay đổi.
+ Một kết quả tất yếu khác từ sự mất giá tiền tệ là lạm phát thực tế và lạm phát
kỳ vọng đều tăng, từ đó lãi suất trên thị trường cũng tăng cao. Doanh nghiệp
12
và các hộ gia đình, do đó, cũng phải thanh toán lãi suất rất cao, làm tác động
tiêu cực đến bảng cân đối tài sản của họ.
+ Theo phân tích về tình trạng thông tin bất cân xứng của Mishkin: tác động
xấu tới bảng cân đối tài sản, tiêu hao tài sản của doanh nghiệp và hộ gia đình
làm cho các lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đối với thị trường vay nợ
cũng tăng theo và những tổ chức cho vay trong và ngoài nước không còn
muốn tiếp tục cho vay nữa. Khi mà hoạt động cấp tín dụng và cho vay sụt
giảm thì cũng đồng nghĩa với việc các hoạt động của nền kinh tế bị đình trệ
và tốc độ tăng trưởng GDP thực cũng sẽ sụt giảm theo. Kết quả, nó tác động
tiêu cực hơn đến cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng. Những vấn đề
mà các doanh nghiệp và hộ gia đình đang phải đối mặt là phần lớn những
đơn vị cơ bản của nền kinh tế này đã không còn khả năng thanh toán nợ.
Điều này quay trở lại gây thiệt hại cho ngân hàng. Mặt khác, hệ thống ngân
hàng còn phải đối mặt với một vấn đề trầm trọng khác là khối lượng rất lớn
những khoản nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ, trong khi đồng tiền trong nước bị
phá giá. Giá trị của những khoản nợ này tăng lên mạnh mẽ và tiếp tục làm
tiêu hao lượng tài sản thực đang còn rất ít của các ngân hàng. Mặc dù Chính
phủ có can thiệp nhưng với lượng vốn mà các ngân hàng đã mất thì hệ thống
ngân hàng cũng không thể ngăn được năng lực cho vay của các ngân hàng
sụt giảm mạnh. Mishkin giải thích khủng hoảng của hệ thống ngân hàng với
những đặc tính như mô tả tạo nên một rào cản và gây khó khăn đối với các
họat động cho vay của ngân hàng, làm trầm trọng thêm các vấn đề về lựa
chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán, ngân hàng
mất dần vai trò truyền thống trung gian tài chính.
Khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ có mối quan hệ rất chặt chẽ vì cả
hai liên quan đến việc giữ ổn định giá tài sản và cùng xuất hiện khi cam kết hỗ trợ ổn
định giá trị đồng tiền, lạm phát trong nước không còn đáng tin cậy. Một khi sự hỗ trợ
của Chính phủ mất đi hoặc tạm ngừng thì kế hoạch ổn định tỷ giá sụp đổ, các ngân
13
hàng sẽ mất khả năng thanh toán. Như vậy, khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng
tiền tệ giống nhau ở khía cạnh là làm giảm giá trị đồng tiền và xuất phát từ những
chính sách không nhất quán. Tuy nhiên, khủng hoảng ngân hàng xuất phát từ chính
sách của NHTW còn khủng hoảng tiền tệ bắt nguồn từ yếu tố chi tiêu Chính phủ.
• Nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng ngân hàng: Nguyên nhân gây ra khủng
hoảng ngân hàng ít khi là một yếu tố duy nhất mà thường gồm một tập hợp của
nhiều yếu tố khác nhau:
+ Chính sách không nhất quán: Gần 20 năm trước, Flood và Garber đã điều
chỉnh mô hình dự báo trước được cuộc tấn công vào tỷ giá hối đoái với
trường hợp phá sản ngân hàng ở các nước có nền kinh tế đóng. Hai nhà khoa
học đã mô tả tình trạng các ngân hàng chuyển đổi các tài sản nợ danh nghĩa
cố định. Các ngân hàng nhất trí trả lãi không kỳ hạn đối với một đơn vị tiền
dự trữ tương ứng với một đơn vị đồng bản tệ gửi tại NHTW. Khi không có
bảo hiểm tiền gửi, các ngân hàng có thể duy trì kế hoạch ổn định lãi suất
chừng nào tài sản của họ đủ trang trải các khoản tiền gửi. Flood và Garber
cũng chỉ ra rằng phá sản ngân hàng cũng có thể là kết quả nhìn thấy trước
của các chính sách không nhất quán. Chính sách theo đuổi giảm phát của
NHTW sẽ phá huỷ các cam kết hoàn trả các khoản tiền gửi của các NHTM.
Các NHTM phải mua tài sản mới để bù đắp cho những tổn thất gây ra, chi
phí nắm giữ các tài sản hiện tại vượt quá thu nhập mà nó đem lại. Như vậy,
giảm phát làm giảm thu nhập và cuối cùng các NHTM không thể có lãi từ
việc duy trì tài sản đảm bảo đầy đủ khả năng thanh khoản thì khủng hoảng
ngân hàng xảy ra. Khi khủng hoảng ngân hàng xảy ra ở những nước có nền
kinh tế đóng mà không có sự hỗ trợ của NHTW thì khủng hoảng sẽ không
làm giảm tài sản quốc tế và trong nước của NHTW mà chỉ tạo ra sự chuyển
đổi nguồn lực từ các ngân hàng sang các thành phần tư nhân.
+ Bùng nổ cho vay và sụt giá tài sản: Theo một trường phái kinh tế, khủng
hoảng ngân hàng do việc cho vay với số lượng lớn và tài trợ vốn không hiệu
14
quả trong giai đoạn mở rộng của chu kỳ kinh doanh; một cuộc khủng hoảng
xảy ra khi “bong búng” bị nổ. Ba đặc điểm sau của những cuộc khủng hoảng
gần đây đã chứng minh cho quan điểm nói trên: cả bùng nổ cho vay của
ngân hàng và giảm giá cổ phiếu thường diễn ra trước khủng hoảng ngân
hàng; những nước mới nổi cú dũng vốn đầu tư lớn là những nước mở rộng
khu vực NHTM nhanh nhất; sự lạc quan quá mức về hiệu quả của cải cách
chính trị tại những nước mới nổi. Quan điểm này dựa theo giả thiết rằng khó
phân biệt những khoản tín dụng rủi ro thấp và những khoản tín dụng rủi ro
cao khi nền kinh tế mở rộng quá nhanh bởi vì người đi vay thường có lợi
nhuận và tính thanh khoản tạm thời rất cao; thay đổi đột ngột về giá tài sản
cố định và cổ phiếu làm căng thẳng khủng hoảng bởi vì tập trung cho các
khoản vay quá nhiều; và giảm giá tài sản đẩy giá trị thị trường của tài sản thế
chấp xuống.
+ Chuẩn bị chưa đầy đủ cho tự do hóa tài chính: Tự do hóa tài chính mang
lại không ít lợi ích, xét về phương diện dài hạn, đối với những nước đang
phát triển. Nhưng những cuộc cải cách như vậy cũng sẽ đưa đến những rủi
ro mới cho ngân hàng – làm tăng nguy cơ của khủng hoảng ngân hàng. Khi
lãi suất được thả nổi, ngân hàng có thể mất sự bảo vệ mà họ được hưởng
trước đây từ cơ cấu lãi suất theo kỳ hạn được quy định nhằm duy trì lãi suất
ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn. Nói chung, tính không ổn định của tỷ lệ
lãi suất có xu hướng tăng, nhất là đối với các nước đang trong giai đoạn
chuyển đổi. Tốc độ mở rộng tín dụng thường xảy ra đối nghịch với tỷ lệ lãi
suất tăng sau tự do hóa tài chính. Nới lỏng hạn chế cho vay thường giải
phóng sức ép về nhu cầu vay tại các lĩnh vực được tự do hóa (ví dụ: bất động
sản, chứng khoán). Hạ thấp yêu cầu về dự trữ cho phép ngân hàng cú thờm
nguồn để điều chỉnh phù hợp với nhu cầu vay tăng khi nguồn vốn đầu tư
nước ngoài tăng. Thêm nữa, nhà quản lý tín dụng trong môi trường tài chính
kiểm soát trước kia có thể không có những kỹ năng chuyên môn cao để đánh
giá những yếu tố mới của rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường. Đồng thời, việc
15
gia nhập của những đối thủ cạnh tranh (trong và ngoài nước) có thể tăng sức
ép buộc ngân hàng chấp nhận các hoạt động rủi ro cao hơn. Ngoài ra, việc
ngân hàng dễ dàng tiếp cận thị trường tài chính thế giới có thể làm cho ngân
hàng đầu tư vào những hoạt động rủi ro hơn. Ví dụ, các ngân hàng sử dụng
hợp đồng phái sinh tại thị trường nước ngoài có thể tránh được những giới
hạn trong nước về trạng thái ngoại hối mở rộng. Tuy nhiên, nếu cơ sở pháp
lý về giám sát được tăng cường trước khi tự do hóa thị trường tài chính,
giám sát viên ngân hàng có thể có đủ năng lực hoặc được đào tạo để kiểm
soát và đánh giá đầy đủ những hoạt động mới này.
+ Yếu kém về chế độ kế toán, cơ chế công khai thông tin và khuôn khổ
pháp lý: Tại các quốc gia mà hệ thống kế toán, cơ chế công khai thông tin
và khuôn khổ pháp lý gây trở ngại cho việc thực hiện kỷ cương thị trường và
thực thi hoạt động giám sát hiệu quả sẽ ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động
cũng như gây tổn hại lợi nhuận của ngân hàng. Trong môi trường như vậy,
các nhà đầu tư tư nhân hoặc thanh tra viên ngân hàng sẽ kiểm soát và áp
dụng kỷ cương đối với những ngân hàng bằng những thông tin thiếu chính
xác, cập nhật, toàn diện và công khai về uy tín tín dụng của những ngân
hàng này cũng như khách hàng của họ. Tại nhiều quốc gia, những quy định
về phân loại tài sản ngân hàng (chẳng hạn các khoản nợ chậm trả hoặc nợ
xấu) chưa chặt chẽ để ngăn ngừa ngân hàng không chuyển nợ xấu thành
những khoản nợ đạt chất lượng bằng cho vay đáo hạn đối với những người
vay có vấn đề. Khi việc phân loại nợ chỉ phụ thuộc vào tình hình trả nợ
(thanh toán) chứ không dựa vào việc đánh giá uy tín tín dụng của người cho
vay và giá trị thị trường của tài sản thế chấp, sẽ dẫn tới tình trạng ngân hàng
và người vay thông đồng với nhau để che đậy tổn thất bằng nhiều phương
pháp khác nhau như cơ cấu lại khoản vay chẳng hạn. Nếu các khoản nợ xấu
không được đánh giá đúng mức một cách hệ thống, dự phòng tổn thất khoản
vay sẽ không đủ, thu nhập ròng và vốn của ngân hàng không phản ánh đúng
thực tế tình hình tài chính của ngân hàng. Chính vì vậy, báo cáo về tỷ lệ
16
khoản vay xấu của các ngân hàng Chi lê và Colombia đã gián tiếp dẫn tới
khủng hoảng ngân hàng tại những quốc gia này vào những năm 1980. Cơ sở
pháp lý cùng với thẩm quyền theo luật định của thanh tra ngân hàng cũng là
một vấn đề cần quan tâm. Nếu hệ thống pháp lý không tạo điều kiện cho
hoạt động thanh tra và ngân hàng cần nhiều thời gian để nắm được rõ hoặc
chuyển tài sản thế chấp của những khoản vay không trả nợ đúng hạn cho
người vay thế chấp hoặc công ty hoặc cá nhân bị phá sản, tổn thất tín dụng
và chi phí khoản vay sẽ cao bất thường. Nếu thanh tra viên ngân hàng không
đủ thẩm quyền theo luật định để yêu cầu “ngừng và chấm dứt” hoạt động đối
với ngân hàng hoặc chi nhánh cản trở thanh tra hiệu quả, hoặc đóng cửa
ngân hàng mất khả năng thanh toán, đóng góp của thanh tra ngân hàng sẽ
không đáng kể trong việc ngăn chặn chấp nhận hoạt động rủi ro quá mức và
hạn chế chi phí giải cứu ngân hàng. Bên cạnh đó, cơ chế khuyến khích hạn
chế hoạt động rủi ro đối với các ngân hàng, chủ sở hữu ngân hàng, các nhà
quản lý ngân hàng và người gửi tiền cũng chưa được quan tâm đúng mức
cũng gián tiếp góp phần gây ra khủng hoảng ngân hàng hoặc làm trầm trọng
hơn các cuộc khủng hoảng ngân hàng. Ngoài ra, cơ chế tỷ giá hối đoái và sự
can thiệp quỏ sõu của Chính phủ trong hoạt động của các doanh nghiệp cũng
là những tác nhân làm cho các cuộc khủng hoảng ngân hàng trở nên nghiêm
trọng hơn. Cơ chế tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng tới tính dễ bị tổn thương
của các hoạt động đầu cơ, trong đó giá trị thực của tài sản ngân hàng đã bị
suy yếu được điều chỉnh lên - xuống và nhiều khả năng NHTW phải thực
hiện vai trò người cho vay cuối cùng đối với ngân hàng mất khả năng thanh
khoản nhưng chưa mất khả năng thanh toán. Tăng đột ngột tỷ giá hối đoái là
yếu tố dẫn tới khủng hoảng ngân hàng 1998 tại các nước Đông Á.
+ Đặc điểm cụ thể của từng ngân hàng: như quản trị thiếu hiệu quả, các
quyết định cho vay thiếu thận trọng …
17
+ Các yếu tố kinh tế vĩ mô: như giảm tốc độ tăng trưởng, các điều khoản
ngoại thương, khủng hoảng tiền tệ, nâng giá đồng tiền, sự sụt giá của bất
động sản và thị trường chứng khoán có thể đẩy ngân hàng lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh toán, đóng cửa ngân hàng đơn lẻ và nhiều ngân hàng có
thể xảy ra.
+ Sự việc bất ngờ gây tâm lý hoang mang cho người dân: một trung gian tài
chính nổi tiếng hay uy tín, nhất là những ngân hàng “quỏ lớn để không bị
sụp đổ” có thể kéo theo sự hoang mang và gây ra sự rút tiền ồ ạt ở các ngân
hàng khác, làm cho hệ thống ngân hàng chao đảo vì thiếu vốn.
c) Khủng hoảng thanh khoản: Khủng hoảng thanh khoản của hệ thống ngân hàng
xảy ra khi vì một lý do nào đó, các NHTM không còn tiền mặt để cho vay và trả
nợ đến hạn, mà không vay được trên thị trường liên ngân hàng. Khủng hoảng
thanh khoản thường là hệ quả đi kèm của một khủng hoảng nợ xảy ra trước đó,
nhưng đôi khi là hậu quả của việc thắt chặt tiền tệ quá đột ngột. Chẳng hạn, từ
9/8/2007, trong không đầy một tháng, FED phải bơm khoảng 200 tỷ USD vào
hệ thống ngân hàng để tránh khủng hoảng thanh khoản, hậu quả của cuộc khủng
hoảng nợ vay mua nhà dưới chuẩn trước đó. Khủng hoảng thanh khoản nếu
không đi kèm với khủng hoảng nợ thì dễ khắc phục hơn vì chỉ cần NHTW bơm
thêm tiền vào hệ thống liên ngân hàng đúng lúc và đúng liều lượng, giữ lãi suất
liên ngân hàng ở mức ổn định.
d) Khủng hoảng nợ nần: là khủng hoảng xảy ra ở các nước đang phát triển từ đầu
thế kỷ XX. Có nhiều khả năng đánh giá khả năng thanh toán nguồn vay nước
ngoài của một quốc gia, trong đó chỉ tiêu quan trọng nhất là tỷ lệ thanh toán nợ
nước ngoài, tức là tỷ lệ giữa nguồn vay nước ngoài cả gốc và lãi mà quốc gia đó
phải trả trong một năm trên tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia đó trong
năm đó hoặc trong năm trước đó. Bình thường chỉ tiêu này nằm dưới 20%, nếu
chỉ tiêu này quá lớn, hơn 20%, chứng tỏ lượng vốn vay nước ngoài của quốc gia
đú quỏ lớn.
18
Các mô hình khủng hoảng cơ
b
ả
n.
Dựa trờn đặc điểm và tính chất của c
ác
cuộc kh ủ n g hoảng tài chính - tiền tệ đã
nổ ra, c
ác
học giả đã xõy d ự n g
nờn 3 mô h ì n h k h ủ n g
hoảng cơ bản:
− Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ
n
hấ
t:
Mô hình k hủng hoảng thế hệ thứ nhất được P.
Krugman
(1979) xõy dựng và
chủ yếu đặc trưng cho các cuộc kh ủ n g h o ả n g c á n
cân
vãng lai trong điều kiện
tỷ giá cố định
b
ị
c
ác
hoạt động đầu cơ tấn công. Mô h ì n h này xảy ra ở một số
nước có nền tảng kinh tế
v
ĩ
mô quá yếu kém, ngân sách thâm hụt trầm
trọng,
cung tiền tăng quỏ mức (có thể do Chính phủ in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách)
khiến lạm phát gia tăng;
những điề u này
dẫn đến cán cân vãng lai thâm hụt
trầm trọng. Trước nguy cơ đồng nội tệ bị giảm
g
i
á
, Chính phủ buộc phải liờn tục
can thiệp
bằng
cách bán ngoại tệ ra thị
trường
để duy trì t ỷ
g
i
á
cố định. Khi
lượng
dự trữ ngoại hối
g
i
ảm
xuống
một mức thấp nhất định nào đó, c
ác
cuộc tấn
công mang tính đầu cơ bắt đầu xảy ra, cùng với các điều kiện nền tảng kinh tế vĩ
mô
quá yếu kém và thậm chí là sự gia tăng c ă n g thẳng về chớnh trị và xã hội,
đến một t hời
điểm
nào đó, Chính phủ buộc phải chấm dứt chế độ tỷ giá cố định
và
chuyển
sang thả nổi tỷ giá làm cho đồng nội tệ bị mất giá liờn tục
và
khủng
hoảng tiền tệ xảy ra. Mô hình này được thể hiện rừ nhất trong các cuộc khủng
hoảng ở một số nước Châu Mỹ La Tinh vào cuối
những
năm 1970, đầu
những
năm
1980 và trong
những
năm 1990.
− Mô hình
khủng
hoảng thế hệ thứ
h
a
i:
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được
Obstfeld
(1994 & 1995) xõy dựng.
Khủng
hoảng dạng này còn được gọi
là khủng hoảng
tự phát sinh (
s
e
l
f - fulfilling
crisis), có thể xảy ra ở
những
nước có mức độ yếu kém về tài chính và vĩ mô vừa
phải, song cam kết duy trì chế độ tỷ giá cố định của Chính phủ bị suy yếu do các
biện pháp bảo
v
ệ
tỷ giá quỏ tốn kém (chẳng hạn do thắt chặt t i ề n tệ, lãi suất bị
đẩy lên cao, gây tác động xấu tới
tăng
trưởng
kinh tế và tạo việc làm).
Truớc
tín
19
hiệu đó, các nhà đầu cơ có thể bán t h á o
đồng
nội tệ để mua ngoại tệ. Những
sức ép này buộc Chính phủ
không
có cách nào khác
l
à
phải từ bỏ chế độ tỷ giá
cố định để thực thi chính sách tiền tệ mở rộng trước
những cuộc
tấn công quy mô
của giới đầu cơ tiền tệ,
và
hậu quả là khủng hoảng bùng phát.
Biến thể
khác của mô
hình khủng hoảng thế hệ thứ hai xuất phát từ tình trạng
thông
tin không hoàn hảo và
mất đối xứng . Trong điều kiện một hoặc một số ngân hàng c
ó
“vấn đề”, tình trạng
này dẫn đến hành vi
“
b
ầy
đàn”, gõy hoảng loạn tài chớnh và rốt cuộc dẫ n đến
kh ủng hoảng tài chính - tiền tệ.
M
ô
hình này có thể thấy trong cuộc khủng hoảng
của Hệ
thống
tiền tệ châu Âu (European
Monetary
System) năm 1992 - 1993.
− Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba:
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được
Yoshitomi
và Ohno (1999) xõy dựng,
đặc
trưng cho các cuộc khủng hoảng tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế
(Balance of
Payment - BOP)
.
Khủng
hoảng tài
khoản
vốn thường dẫn đến khủng
hoảng “kộp”: khủng hoảng tiền tệ và khủ ng hoản g ngân hàng. Việc tự do hoỏ tài
khoản v ố n
thiếu một trình tự thích hợp đã dẫn đến hai hệ quả là tiền đề cho cuộc
k h ủn g hoảng kép: (
i
) Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quỏ mức t h â m h ụt cán cân
vãng lai; và (ii) Vốn ngắn hạn c h i ế m tỷ trọng quá l ớn .
(i) Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quỏ mức thâm hụt cán cân vãng lai (Current
Account Deficit) đã khiến cán cân thanh toán (BOP) thặng dư
và dự
trữ ngoại hối
tăng. Điều này dẫn tới sự bành
trướng
tín dụng
,
đầu tư và tiêu dùng trong nước.
Điểm mấu chốt ở đõy là việc đầu tư quỏ mức (dư thừa năng lực sản xuất), đầu tư
kém hiệu quả (vào các lĩnh vực như bất động sản …), đã dẫn tới hậu quả là thâm
hụt cán c â n vãng lai tăng, xuất hiện nền “kinh tế
bong
bóng”
và mức cung dư
thừa. Khi các nhà đầu tư nhận thức được
những
yếu kém kể trờn
và
những
dấu hiệu
bất ổn khác như sự sụt
g
i
ả
m
giá bất động sản và cổ phiếu cũng như c
ác
hoạt động tấn
công đầu cơ tiền tệ, họ đồng loạt rút vốn ra khỏi nền kinh tế. Hậu quả là cá n câ n
thanh toán trở nờn thâm thụt trầm trọng
và
dự trữ ngoại hối dần cạn kiệt, báo hiệu về
một cuộc k h ủ n g hoảng tiền tệ xảy ra.
20
(ii) Trong điều kiện tự do hoỏ cán cân vốn, một
lượng
vốn ngắn hạn với tỷ trọng
quỏ lớn (lớn hơn nhiều dự trữ ngoại hối) đ ã đ ổ vào nền kinh tế. Trong điều kiện
giám sát c
ác
khoản
vay nợ kém hiệu quả, một lượng
lớn
vốn vay ngắn hạn bằng
ngoại tệ đã
được
cho vay bằng nội tệ để đầu tư dài hạn
v
ào
những
dự án kém hiệu
quả đã dẫn đến vấn đề “sai lệch kộp” trầm trọng. Bảng cân đối tà i
sản
của các công
ty cũng như của hệ thống ngân hàng - tài chính xấu đi một cách t r ầ m trọng khi
đồng nội tệ mất giá và một lượng vốn lớn của các nhà đầu tư nước ngoài bị rút r a
đột ngột; đến lượt nó, tài sản ròng của các ngân hàng bị sụt giảm, dẫn đến tín dụng
càng
b
ị
thắt chặt và bảng cân đối tài sản của các ngâ n hàng càng tồi tệ hơn. Quá
trình tác động
vòng
xoỏy và cộng hưởng này gõy nên k h ủ ng h oả n g bùng phát
trong một thời gian rất ngắn và đẩy c
á
c nền kinh tế ngập sõu vào vũng suy thoái.
Cuộ
c
khủng hoảng
tài chính - tiền tệ Chõu Á 1997 - 1998 được coi là ví dụ điển
hình của mô hình khủng
hoảng
thế hệ thứ
b
a
.
Nợ công.
1. Một số khái niệm cơ bản.
a) Khu vực công: bao gồm khu vực Nhà nước (gồm cả trung ương và địa phương)
và doanh nghiệp quốc doanh. Doanh nghiệp quốc doanh là doanh nghiệp mà
Nhà nước chi phối hoặc chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối và do đó thường vì áp lực
chính trị phải chịu trách nhiệm về nợ nần của chúng.
b) Nợ công.
Xung quanh khái niệm và nội hàm của nợ công vẫn còn nhiều quan điểm chưa
thống nhất. Theo Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thì nợ công,
theo nghĩa rộng, là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của Chính
phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, NHTW và các tổ chức độc lập (các
tổ chức mà nguồn vốn hoạt động do ngân sách Nhà nước (NSNN) quyết định hay trên
50% vốn thuộc sở hữu Nhà nước, và trong trường hợp vỡ nợ, Nhà nước phải trả nợ
21
thay). Còn theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của Chính phủ trung ương,
các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được Chính phủ bảo
lãnh thanh toán.
Tùy thuộc thể chế kinh tế và chính trị, quan niệm về nợ công ở mỗi quốc gia cũng
có sự khác biệt. Tại hầu hết các nước trên thế giới, luật quản lý nợ công đều xác định
nợ công gồm nợ của Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh. Một số nước, nợ cụng
cũn bao gồm nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan, Bungari, Rumani …), nợ của
doanh nghiệp Nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Macedonia …).
Ở Việt Nam, luật quản lý nợ công năm 2009 quy định: Nợ công bao gồm nợ Chính
phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong đó:
+ Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ
hoặc các khoản vay khác do Bộ tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát
hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chớnh phủ không bao gồm khoản nợ
do ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính
sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
+ Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
+ Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu Chính phủ (trong
cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị hay một tập đoàn kinh tế vay nợ
nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công.
Khi nghiên cứu khái niệm nợ công, cũng cần nghiên cứu đến khái niệm thâm hụt
ngân sách. Thâm hụt ngân sách trong kinh tế học vĩ mô và kinh tế học công cộng là
tình trạng các khoản chi của NSNN (ngân sách Chính phủ) lớn hơn các khoản thu,
phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách. Trường hợp ngược lại, khi các khoản thu
22
lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư ngân sách. Thu của Chính phủ không bao
gồm khoản đi vay. Đi vay chính là một cách mà Chính phủ tài trợ cho thâm hụt ngân
sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, và Nhà nước sẽ phải
thu thuế tăng lên để bù đắp. Trong lịch sử, phát hành thêm tiền đã từng là một cách tài
trợ cho thâm hụt ngân sách, nhưng do hậu quả nghiêm trọng của nó là dẫn đến lạm
phát ở mức cao nên ngày nay cách này hầu như không được Chính phủ của bất cứ quốc
gia nào sử dụng nữa.
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy rằng: Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu
của Chính phủ; khi chi tiêu của Chính phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được, Nhà
nước phải đi vay (trong hoặc ngoài nước) để trang trải thâm hụt ngân sách. Suy cho
cùng nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này
hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế dần dần, được hầu hết Chính phủ
các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi ngân sách. Nợ Chính phủ thể hiện sự
chuyển giao của cải từ thế hệ sau (thế hệ phải trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại (thế hệ
được giảm thuế). Nhìn nhận từ khía cạnh này có hai quan điểm cơ bản về nợ công:
+ Theo quan điểm truyền thống về nợ công, đại diện là Keynes, cho rằng: việc
vay nợ của Chính phủ làm giảm tiết kiệm của quốc gia và mức tích luỹ vốn,
vì số thuế cắt giảm được bù đắp bằng cách vay nợ nên khuyến khích thế hệ
hiện tại tiêu dùng nhiều hơn, số người thất nghiệp giảm đi mặc dù lạm phát
có thể cao hơn. Tuy nhiên, vay nợ để lại gánh nặng nợ cho thế hệ tương lai;
các thế hệ tương lai phải sống trong một quốc gia vay nợ nước ngoài lớn hơn
và vốn tích luỹ từ nội bộ nhỏ hơn.
+ Trái ngược với quan điểm truyền thống về nợ cụng trờn, những người theo
quan điểm kinh tế học vĩ mô cổ điển (hình thành từ thập niên 1970), đứng
đầu là Ricardo - Barro cho rằng, biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng
nợ Chính phủ không kích thích chi tiêu trong ngắn hạn, vì không làm tăng
thu nhập thường xuyên của các cá nhân mà chỉ làm dịch chuyển thuế từ hiện
tại sang tương lai. Chính sách cắt giảm thuế và tài trợ bằng vay nợ sẽ không
23
gây ra những tác động thực sự đối với nền kinh tế. Việc chấp nhận thâm hụt
giảm thu trong thời kỳ suy thoái, tăng thu trong giai đoạn hưng thịnh và vay
nợ cũng là cách “lưu thông thuế” để giảm thiểu những tác động tiêu cực của
thuế đối với chu trình kinh doanh.
Ngoài ra khi nghiên cứu về nợ công, ta cần phân biệt nợ công với nợ nước ngoài -
một phần quan trọng trong nợ công. Nợ nước ngoài của một quốc gia được định nghĩa
theo Luật Việt Nam là “số dư của mọi nghĩa vụ nợ hiện hành không bao gồm nghĩa vụ
nợ dự phòng về trả gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài của Việt
Nam. Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ
nước ngoài theo khu vực tư nhân ”.
2. Phân loại nợ công.
• Phân theo nguồn vay bao gồm: vay trong nước (các khoản vay từ người cho vay
trong nước) và vay nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
• Phân theo chủ thể đi vay bao gồm: Chính phủ; chính quyền địa phương; doanh
nghiệp và các tổ chức tài chính, tín dụng được Chính phủ bảo lãnh.
• Phân theo loại hình vay bao gồm: vay hỗ trợ phát triển chính thức (vay ODA);
vay ưu đãi; vay thương mại.
• Phân theo thời hạn vay bao gồm: vay ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống); vay trung
hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và vay dài hạn (trên 10 năm).
• Phân theo loại lãi suất bao gồm: lãi suất cố định; lãi suất thả nổi.
• Phân theo chủ nợ và nhóm chủ nợ: chủ nợ chính thức; chủ nợ tư nhân.
• Phân theo công cụ nợ bao gồm: thỏa thuận vay; tín phiếu; trái phiếu; công trái
và các công cụ nợ khác.
3. Chỉ tiêu xác định tình trạng nợ công và ngưỡng an toàn nợ công.