TRƯỜNG ĐHSP NGHỆ THUẬT TW
KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN
TRIẾT HỌC HỌC MÁC-LÊNIN
Số thứ tự......
Họ và tên ............................................................
Mã sinh viên: ……………............................................………
Lớp: ……………
Khoa ......................................
Lớp tín chỉ: .......................................
HÀ NỘI, THÁNG
NĂM 2023
TRƯỜNG ĐHSP NGHỆ THUẬT TW
KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN
TRIẾT HỌC HỌC MÁC-LÊNIN
Tên đề tài:
Lý luận của chủ nghĩa Mác về Học thuyết hình thái kinh tế xã hội. Thực tiễn
vận dụng ở Việt Nam từ 1945 đến nay
Họ và tên:.............................................................................................................
Số điện thoại:...................................................................................................
Thời gian học: Sáng/ Chiều - Thứ .........
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ HỌC THUYẾT HÌNH
THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI.......................................................................................2
1.1. Sự ra đời của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội..........................................2
1.2. Nội dung của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.........................................2
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VẬN DỤNG LÝ LUẬN HTKTXH Ở VN TỪ 1945
ĐẾN NAY.................................................................................................................6
2.1. Điều kiện KTXH ở Việt Nam sau cách mạng tháng 8/1945...........................6
2.2. Điều kiện để Việt Nam quá độ đi lên CNXH bỏ qua HTKTXH TBCN.........8
2.3. Nội dung của thời kỳ quá độ đi lên CNXH...................................................12
KẾT LUẬN............................................................................................................17
DANH MỤC THAM KHẢO................................................................................18
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, trước Mác đã có khơng ít cách tiếp cận,
nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội. Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý
luận và tổng thể quá trình lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng
phép biện chứng duy vật để nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại, đã
hình thành nên lý luận "hình thái kinh tế xã hội".
Hiện nay, do lo sợ sự lớn mạnh bởi tư tưởng cách mạng của C. Mác, sợ bị mất
đi lợi ích từ sự độc quyền áp bức, bóc lột giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động,
các dân tộc trên thế giới nên giai cấp tư sản tìm mọi cách phủ nhận lý luận hình
thái kinh tế - xã hội dưới mọi hình thức. Thêm vào đó, cuối những năm 80 của thế
kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng và lâm vào giai đoạn thoái trào,
các phần tử phản động, chống phá tuyên bố về “sự cáo chung” của lý luận này.
Những ý kiến phê phán có đủ mọi màu sắc, tựu trung là phủ nhận giá trị của lý
luận với lập luận rằng: Lý luận đã lạc hậu, chỉ thích hợp đối với “bước chuyển từ
thời trung cổ sang thời cận đại”. Phải thay thế nó bằng một lý luận khác, chẳng hạn
như lý luận về các nền văn minh. Chính vì vậy việc khẳng định những giá trị khoa
học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội đang là một đòi hỏi cấp thiết, nghiêm túc
nhằm cũng cố niềm tin khoa học về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn.
1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ HỌC THUYẾT HÌNH
THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Sự ra đời của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Các nhà sáng lập chủ nghĩa khoa học, C.Mac và Ph. Angghen khi nghiên cứu
lịch sử phát triển của xã hội loài người, nhất là lịch sử xã hội tư bản đã xây dựng
nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Học thuyết đã vạch rõ những quy luật cơ
bản của vận động xã hội, chỉ ra phương pháp khoa học để giải thích lịch sử. Học
thuyết này khơng chỉ làm rõ những yếu tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội mà
còn xem xét xã hội trong q trình biến đổi và phát triển khơng ngừng. Học thuyết
về hình thái kinh tế - xã hội do C.Mác và Ph.Angghen khởi xướng được V.I.Lenin
bổ sung, phát triển và thực hiện hố trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước Nga Xô Viết để trở thành học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa
Mác - lenin, tài sản vô giá của nhân loại
1.2. Nội dung của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra: Sản xuất vật chất là cơ sở của đời
sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội và vai
trò quyết định của người lao động đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để
giải thích các hiện tượng đời sống mà phải từ phương thức sản xuất. Trong đó con
người giữ vị trí trung tâm, là chủ thể của lịch sử, người lao động là nhân tố đóng
vai trị quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Không thể phủ nhận được
ngày nay những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại với sự ra đời của
người máy đã thay thế không chỉ những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ
bắp mà cịn có thể thay thế cho cả những hoạt động tinh vi, phức tạp của con
người. Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là khoa học - công nghệ hiện đại trở
thành yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó người lao động
trở thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngồi q trình sản xuất. Về thực chất, khoa
học - cơng nghệ là sản phẩm của q trình nhận thức, sản phẩm của sự phát triển
trí tuệ của con người. Có thể nói, do u cầu của sản xuất mà con người đã sáng
tạo và quyết định khuynh hướng, tốc độ phát triển của khoa học - công nghệ, đồng
thời quyết định việc sử dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất theo mục đích của
mình. Thực tế cho thấy, kỹ thuật, cơng nghệ hiện đại với tư cách là phần vật chất
trong các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất dù năng động và cách mạng đến
mấy cũng chỉ là sản phẩm do bàn tay và khối óc của con người làm ra và chịu sự
điều khiển, giám sát của con người. Do đó, trí tuệ nhân tạo dù được mệnh danh là
tiên tiến đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của con người, hoạt động của nó phụ thuộc
vào những chương trình mà con người đã lập ra, đã cài đặt vào máy tính điện tử và
người máy cơng nghiệp. Chính vì thế, khoa học - cơng nghệ là của con người, gắn
liền với con người, phụ thuộc vào con người và phải thông qua hoạt động của con
người mới có thể được vật hóa vào q trình sản xuất. Nếu không xuất phát từ con
người, được tiến hành bởi con người và khơng hướng về mục đích phục vụ con
người, khơng có q trình sản xuất nào có đủ lý do để tồn tại và phát triển. Do vậy,
trong bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại của khoa học - công nghệ hiện đại, người
lao động vẫn là nhân tố đóng vai trị quyết định sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra: Xã hội không phải là sự kết hợp
một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh
động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong tác phẩm: “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống
những người dân chủ nghĩa xã hội ra sao”, Lênin đã chỉ ra rằng: Các nhà xã hội
học chủ quan không chỉ ra được nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động
phát triển xã hội, họ coi xã hội là một tổ hợp máy móc hỗn loạn khơng tn theo
quy luật nhất định.
Ngược lại, lý luận hình thái kinh tế - xã hội cho thấy để nhận thức, lý giải đúng
đời sống xã hội, phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và
mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. V.I.Lênin viết: “Xã hội là một cơ thể sống đang
phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành từ máy móc
và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được),
một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải nghiên cứu những quy luật vận
hành và phát triển của hình thái xã hội đó”. Cũng như phải sử dụng phương pháp
luận trừu tượng hóa khoa học - đó là cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện
thực của xã hội để đi sâu tìm hiểu các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật,
văn hóa, khoa học…) và mối quan hệ giữa chúng để thấy được tính thống nhất biện
chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ
cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
các chế độ xã hội khác nhau.
Gần đây, trước những thành tựu kỳ diệu của khoa học và cơng nghệ, có những
quan điểm đi đến phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và đòi phải thay
thế bằng cách tiếp cận văn minh. Cách tiếp cận này phân chia lịch sử phát triển
nhân loại thành văn minh nông nghiệp (hay văn minh tin học, văn minh trí tuệ).
Thực chất đây là phân chia dựa và các trình độ phát triển của kinh tế, dựa vào trình
độ khoa học và cơng nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không thể thay thế được học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội, nó khơng vạch ra mối quan hệ giữa các mặt trong
đời sống xã hội và các quy luật vận động của xã hội từ thấp đến cao.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra: Sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Quan điểm của C. Mác: “Tơi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
là một quá trình lịch sử - tự nhiên”. Tức diễn ra theo các quy luật khách quan, chứ
không phải theo ý muốn chủ quan. Xã hội loài người vận động, phát triển liên tục
từ thấp đến cao không phụ thuộc và ý muốn chủ quan của con người, mà do các
quy luật nội tại của đời sống xã hội quy định, trong đó trước hết và cơ bản là quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lênin
đã chỉ rõ cơ sở khoa học của vấn đề này như sau: “Chỉ có đem quy những quan hệ
xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình
độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để
quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử tự nhiên”
Quan niệm Mácxít cũng chỉ ra rằng: Tồn bộ xã hội lồi người vận động phát
triển tuần tự qua hình thái kinh tế - xã hội kế tiếp nhau từ thấp đến cao: Cộng sản
nguyên thủy; Chiếm hữu nô lệ; Phong kiến; Tư bản chủ nghĩa; Cộng sản chủ nghĩa
(giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội). Những đồng thời cũng chỉ ra rằng: Một dân
tộc, hay quốc gia cụ thể nào đó trong những điều kiện khách quan, chủ quan, thời
đại hay trong nước cho phép, thì khơng nhất thiết phải phát triển tuần tự, mà có thể
phát triển “bỏ qua” một nấc thang nào đó của lịch sử để tiến lên một hình thái kinh
tế - xã hội cao hơn. Đó chính là q trình lịch sử - tự nhiên đặc thù.
Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi tồn thế giới. Vì vậy dưới ảnh hưởng, tác động của cuộc cách
mạng khoa học - cơng nghệ hiện đại, của q trình tồn cầu hóa, thì những nước
kinh tế kém phát triển nếu đã giành chính quyền về tay giai cấp vơ sản, có được
những nhân tố khách quan và chủ quân cần thiết thì hồn tồn có khả năng q độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó cũng là một tất yếu lịch
sử.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một trong những thành tựu khoa học mà C.
Mác đã để lại cho nhân loại. Chính nhờ xuất phát từ con người hiện thực - con
người đang sống hiện thực của mình, C. Mác đã vạch ra sản xuất vật chất là cơ sở
đời sống xã hội. Xã hội là một hệ thống mà trong đó quan hệ sản xuất phải phù hợp
với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Sự vận động và phát triển
của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế
nhau từ thấp đến cao thông qua cách mạng xã hội. Sự vận động, phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội vừa bị chi phối bởi các quy luật chung, vừa bị tác động
bởi các điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia, từng dân tộc.
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VẬN DỤNG LÝ LUẬN HTKTXH Ở VN TỪ 1945
ĐẾN NAY
2.1. Điều kiện KTXH ở Việt Nam sau cách mạng tháng 8/1945
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự vận dụng và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể một cách đúng đắn, độc lập, tự
chủ, sáng tạo, có phương pháp, chiến lược; chiến thuật cách mạng thích hợp, linh
hoạt, phát huy cao nhất truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc đã
được hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử… Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 là kết quả đấu tranh lâu dài của nhân dân Việt Nam chống đế quốc
thực dân, lật đổ ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến, thiết lập nên Nhà
nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử của
dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên Độc lập - Tự do.
Vừa mới ra đời, chính quyền cách mạng Việt Nam non trẻ đã phải đối phó với
“giặc đói”, “giặc dốt”, và “giặc ngoại xâm”. Với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nạn đói, lũ lụt lớn, hạn hán kéo dài; một nửa số
ruộng đất không canh tác được. Các ngành sản xuất đều bị sa sút, ngưng trệ, hàng
hóa trở lên khan hiếm, thị trường rơi vào tình trạng đình đốn, tiêu điều. Kho bạc
hoàn toàn trống rỗng. Lạm phát phi mã, giá gạo từ chỗ 4 - 5 đồng/tạ, đến giữa năm
1945 đã lên tới 700 - 800 đồng/tạ. GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60
đồng, tương đương 35 USD. Hơn 90% dân số Việt Nam vẫn không biết đọc, biết
viết. Cuộc sống của nhân dân rơi xuống mức cùng cực…
Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó “chống giặc đói” được đặt lên
hàng đầu, là nhiệm vụ cấp bách, đột xuất số một. Chính phủ kêu gọi nhân dân
“nhường cơm, sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”; đẩy mạnh sản xuất, trọng tâm là sản
xuất nông nghiệp; tự do kinh doanh, buôn bán; tịch thu ruộng đất của thực dân
Pháp và Việt gian chia cho nông dân thiếu ruộng; chia lại ruộng đất công một cách
công bằng, hợp lý hơn; quy định giảm tô, giảm tức; chủ trương tự do, tăng gia sản
xuất, bảo vệ quyền lợi quốc gia, điều hòa quyền lợi giữa tư sản và lao động, giữa
địa chủ và nông dân, giữ vững chủ quyền về quan thuế và ngoại thương; củng cố
tài chính quốc gia; xóa bỏ các độc quyền nhà nước của chế độ thực dân Pháp và
thực hiện chính sách đại đồn kết rộng rãi mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội:
nông dân, công nhân, công thương gia…
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta đứng trước tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”. Để giải quyết tình hình “thù trong, giặc ngồi”, Đảng Cộng sản
Đông Dương đã ra Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" ngày 25/11/1945. Chỉ thị là
tuyên bố quan trọng của Đảng trong việc giải quyết tình hình đất nước và đề ra
những nhiệm vụ mới, với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết". Vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc là một chủ trương lớn của Đảng, được xác định ngay
trong Chỉ thị này, trở thành khẩu hiệu công khai lần đầu tiên tại phiên họp Quốc
hội vào tháng 11/1946.
Đến năm 1946, nạn đói đã bị đẩy lùi trên cả nước, sản lượng lương thực đạt
1.155.000 tấn, gấp đôi năm 1945. Vào tháng 11/1946, Nhà nước chính thức cho
phát hành giấy bạc Cụ Hồ trên phạm vi cả nước.
Ngay từ đầu kháng chiến, Chính phủ đã cho hoạt động trở lại một số mỏ ở
vùng chiến khu mà Pháp khai thác trước đây; tập trung phát triển công nghiệp quốc
phịng. Nhà nước khuyến khích nhân dân tăng gia sản xuất nông nghiệp và các sản
phẩm thiết yếu dân sinh như vải mặc, đường, mực, phấn viết, ngòi bút, thuốc lá,
các đồ dùng gia đình, hóa chất, giấy, dệt, diêm, xà phịng, thuốc đánh răng, dầu,
nung vơi, đóng gạch ngói, chế biến gỗ, chế biến thực phẩm và tự do giao thương
hàng hóa; Chính phủ có chính sách cho vay phát triển ngành dệt, làm áo mưa, làm
mực viết; ban hành chính sách thuế cơng thương nghiệp mới thay thế cho nhiều
loại thuế được áp dụng trong thời gian trước (như thuế lãi doanh nghiệp, thuế lợi
tức tổng hợp, các loại thuế thu khác); miễn thuế cho những nghề lặt vặt của dân
nghèo, nghề phụ gia đình, những xí nghiệp sản xuất hàng hóa cho qn đội, những
xí nghiệp hoạt động trong những điều kiện đặc biệt khó khăn; khuyến khích khơi
phục hoạt động các làng nghề, các cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và thủ công
nghiệp phục vụ cho quốc phòng và dân sinh.
Tiếp sau chiến thắng biên giới (tháng 10/1950), Việt Nam đã thiết lập và mở
rộng, phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa (Trung
Quốc và Liên Xơ), góp phần thúc đẩy sản xuất, khai thác lâm, thổ sản, cải thiện đời
sống nhân dân. Năm 1952, số thu ngân sách Nhà nước (NSNN) đảm bảo được
78% số chi. Năm 1953, lần đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám, số thu NSNN
vượt chi được 16%.
Ở các vùng giải phóng, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương thực
năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946. Từ năm 1946 -1950 đã
sản xuất 20 nghìn tấn than cốc, 800 kg ăng-ti-moan; từ năm 1950 đến cuối năm
1952 sản xuất được 29,5 tấn thiếc, 43 tấn chì; những năm 1950 - 1954 sản xuất
được 169,3 triệu mét vải, 31,7 nghìn tấn giấy… Chỉ số giá bán lẻ bình quân năm
trong giai đoạn 1945 - 1954 tăng khoảng 66%. Từ 1946 - 1954 có 10,5 triệu người
thốt nạn mù chữ.
Ngày 10/10/1954, Chính phủ kháng chiến tiếp quản Thủ đô Hà Nội; tổ chức
bán những mặt hàng thiết yếu nhất cho đời sống nhân dân như gạo, muối, dầu hỏa,
chất đốt; đồng thời, khuyến khích các cửa hàng của thương nhân hoạt động bình
thường.
2.2. Điều kiện để Việt Nam quá độ đi lên CNXH bỏ qua HTKTXH TBCN
Trong tính tất yếu, nước ta xác định nhu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó
trong khoảng thời gian chưa thống nhất đất nước, thời kỳ quá độ được diễn ra
trước tiên ở Miền Bắc. Thời kỳ này bắt đầu từ năm 1954 sau khi miền Bắc được
giải phóng. Sau đó, các tính chất trong đấu tranh giải phóng và chi viện cho miền
Nam được thực hiện. Đến năm 1975, đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất hai
miền Nam Bắc. Khi đó, sự thống nhất trong vai trị lãnh đạo của Đảng đặt ra mục
tiêu phát triển đất nước. Trước tiên là khôi phục kinh tế, xã hội và đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Như vậy đến năm 1975, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Diễn ra với
các chính sách cần thiết dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái
cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Điều đó được lý giải bởi những lẽ
sau:
Thứ nhất, trong lịch sử xã hội lồi người giữa hình thái kinh tế - xã hội
(HTKTXH) cũ và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kỳ quá
độ (TKQĐ). Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay
thế nhau của các HTKTXH. Song, khơng phải HTKTXH này kết thúc hồn tồn
rồi HTKTXH tiếp sau mới ra đời. Giữa HTKTXH cũ bị thay thế và HTKTXH mới
sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, một TKQĐ. Xây dựng
xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, một chế độ xã hội
mới hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội trước đó lại càng địi hỏi phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách, khó tránh khỏi những va
vấp, đổ vỡ tạm thời. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”, các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác đã chỉ rõ “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một
thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy
là một thời kỳ quá độ chính trị...”
Thứ hai, học thuyết Mác - Lê-nin chứng minh rằng, lồi người với tính cách
một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ
thể về không gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ
quan, bên ngồi và bên trong chi phối, khơng phải quốc gia nào cũng tuần tự trải
qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Mà có
những nước có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH nào đó trong tiến trình phát
triển của mình. Sự bỏ qua này đã và đang diễn ra trong lịch sử. Từ thực tiễn lịch sử
xã hội lồi người có thể rút ra ba nhận xét: một là, khi vạch ra một sơ đồ tiến hóa
xã hội từ HTKTXH thấp lên HTKTXH cao hơn là chúng ta đã trật tự hóa theo thời
gian các trình độ phát triển của các nền văn minh nhân loại nằm rải rác trong
không gian. Hai là, khi một HTKTXH đi đến chỗ kết thúc, thì xã hội có thể tiến lên
một trong nhiều HTKTXH cao hơn, chứ không nhất thiết chỉ tiến lên một
HTKTXH cao hơn. Ba là, nhận xét có tính chất khái qt: lồi người nói chung thì
nhất định phải trải qua cả năm HTKTXH, nhưng từng nước cụ thể thì khơng nhất
thiết phải tuần tự trải qua cả năm HTKTXH, mà có thể bỏ qua một hoặc vài
HTKTXH, đi tắt để tiến lên HTKTXH cao hơn, tùy thuộc điều kiện lịch sử - cụ thể
đặc thù của từng nước. Điều đó hồn tồn phù hợp quy luật khách quan. Lê-nin
viết "... tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử tồn thế giới đã khơng
loại trừ, mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm
hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó"(4).
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội lồi người nói chung, trong thời đại ngày nay,
việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn
phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước
ta chứng minh rằng, quá độ lên CNXH là con đường duy nhất để nước ta thốt
khỏi ách đơ hộ của thực dân đế quốc, để thực hiện thành công cách mạng giải
phóng dân tộc.
- Phải có chính Đảng để lãnh đạo, và có Nhà nước để quản lý
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng chỉ có một
mục đích: xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội cơng
bằng, văn minh, khơng cịn người bóc lột người, thực hiện thành cơng CNXHvà
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Chỉ có Đảng mới có nền tảng tư tưởng tiến bộ,
phù hợp với văn hóa, truyền thống Việt Nam. Chỉ có Đảng mới tuyên truyền, giác
ngộ, tập hợp, phát huy cao nhất lịng u nước, trí tuệ, đoàn kết của nhân dân ta
trong sự nghiệp cách mạng. Chỉ có những đảng viên kiên trung mới chịu đựng
được mọi gian lao, thử thách, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập của dân tộc, hạnh
phúc của nhân dân, vì sự tiến bộ của loài người, trở thành tấm gương sáng cho
nhân dân noi theo. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều vì dân, đại
diện và hiện thực hóa ý chí, nguyện vọng, khát vọng của nhân dân, làm cho “dân
giàu”, dân “thụ hưởng” nhiều hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới, với quan điểm
xuyên suốt: “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính
sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đơi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt q trình phát triển. Điều đó
có nghĩa là: khơng chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã
hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều
phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đơi
với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có cơng, những người
có hồn cảnh khó khăn. Đây là một u cầu có tính ngun tắc để bảo đảm sự phát
triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên lãnh đạo, điều hành đất nước đều có trình
độ cao, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, đáp ứng với yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Như vậy, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đủ tâm, tầm, tài đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của tồn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc lẫn trong các
quan hệ quốc tế. Chỉ có Đảng lãnh đạo mới làm cho đất nước Việt Nam, con người
Việt Nam, văn hóa Việt Nam được nhân loại tiến bộ, ưa chuộng hịa bình trên thế
giới biết đến, tơn trọng và yêu quý, ngưỡng mộ.Đảng ta được nhân dân tin cậy,
thừa nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên phong của giai cấp và
cả dân tộc Việt Nam.
Lịch sử đã chứng minh khơng có một tổ chức nào có thể thay thế được vai trị
lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam là sự lựa chọn chân chính của người dân Việt Nam, lịch sử Việt Nam.
Chúng ta hồn tồn có cơ sở để khẳng định, đi lên CNXH vẫn là sự lựa chọn
của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Bởi, CNXH vẫn là tương lai của xã
hội lồi người; vẫn là ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam; Đảng Cộng sản
Việt Nam vẫn là lực lượng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt
Nam.
- Phải được hỗ trợ của các nước phát triển
Ngoại giao phục vụ xây dựng đất nước, phát triển kinh tế. Đó là yêu cầu và là
ưu tiên cao nhất từ khi triển khai đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới. Nghị quyết
Trung ương 13 khóa VI (năm 1988) với chủ đề “Giữ vững hịa bình, phát triển
kinh tế” xác định một trong những ưu tiên của ngoại giao là phát triển kinh tế.
Trong hơn 37 năm đổi mới, hoạt động đối ngoại đã có nhiều đóng góp thiết
thực vào việc tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
2.3. Nội dung của thời kỳ quá độ đi lên CNXH
2.3.1. Về kinh tế
Thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, Đảng lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
từng bước đổi mới chính trị. Kết quả là chúng ta đã đổi mới một cách căn bản về
cơ sở hạ tầng, từ nền kinh tế thuần nhất một thành phần sang kinh tế nhiều thành
phần với đa hình thức sở hữu; từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, quan liêu
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; từ phân phối bình quân, tem
phiếu sang phân phối theo hiệu quả lao động, theo vốn đóng góp và theo phúc lợi
xã hội.
Kinh tế Việt Nam trong suốt 35 năm qua luôn tăng trưởng ở mức trung bình
khoảng 6,5% năm, trở thành một trong những điểm sáng về tăng trưởng kinh tế và
được dự báo là “con hổ” kinh tế Đông Á tiếp theo. Quy mô GDP không ngừng
được mở rộng, đạt 342,7 tỷ đôla Mỹ (USD) trong năm 2020, trở thành nền kinh tế
lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.512 USD/năm, tăng
gần 17 lần so với trước đổi mới. Từ năm 2008, nước ta đã ra khỏi nhóm các nước
có thu nhập thấp.
Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những
đã bảo đảm được an ninh lương thực, mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và
nhiều nông sản khác đứng tốp đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong
đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD.
Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài
tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020.
Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm
quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh
tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu
vực có vốn đầu tư nước ngồi.
2.3.2. Về Chính trị
Trên cơ sở nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và quan niệm của
các nhà kinh điển mácxit về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị nói riêng, tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986), Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương
đổi mới toàn diện và triệt để tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt Đảng
đã xác định đúng trọng tâm, trọng điểm và bước đi trong quá trình đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị.
Việt Nam đã tiến hành đổi mới hệ thống chính trị. Từ chế độ kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp và phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh chuyển sang dân chủ
hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn với tôn trọng pháp
luật, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nội dung cơ bản của
đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng nền dân chủ XHCN. Ngay từ đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chủ trương
giữ vững ổn định chính trị, coi đó là tiền đề, điều kiện cơ bản để thực hiện đổi mới
toàn diện đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp để xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Thực
hiện đổi mới hệ thống chính trị sau đổi mới kinh tế đã tạo ra sự ổn định xã hội,
đồng thời xác nhận tầm quan trọng của những nguyên tắc, biện pháp, bước đi trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Bước chuyển này góp phần quan trọng vào
việc tháo gỡ khó khăn, tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội, làm nảy sinh
những nhân tố mới, động lực mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.3.4. Về Quốc phòng - An ninh
Nội dung bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) Việt Nam XHCN gồm 06 nội dung không
tách rời với tư duy lý luận BVTQ:
(1) Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;
(2) Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN;
(3) Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, CNH - HĐH đất nước;
(4) Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc;
(5) Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và nền văn hóa;
(6) Giữ vững ổn định chính trị và mơi trường hịa bình, phát triển đất nước
theo định hướng XHCN.
Quan điểm Bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN: (1) Khẳng định lợi ích quốc gia
dân tộc; lấy việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã
hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc; (2) Xác định nội lực là quyết định “khoan thư
sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc đó là thượng sách giữ nước”; (3) Kiên định chính
sách đối ngoại hịa bình, hữu nghị rộng mở đa dạng hóa, đa phương hóa, sẵn sàng
là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước; (4) Phát huy sức mạnh tổng hợp để
thực hiện mục tiêu.
2.3.5. Về Văn hóa - xã hội
Trải qua 37 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã định hướng phát
triển đất nước theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng, phát triển
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm của Đảng về xây dựng
và phát triển văn hóa có những bước vận động rất quan trọng. Văn hóa được coi là
nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, trong đó con người được nhìn nhận là
trung tâm trong chiến lược phát triển bền vững. Việc nhấn mạnh đến vấn đề con
người thể hiện sự phù hợp với quan điểm tiến bộ về văn hóa trên thế giới hiện nay.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 71998) đã ban hành nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc”, cho thấy chuyển biến hết sức mạnh mẽ trong nhận thức của
Đảng về tầm quan trọng của văn hóa bên cạnh vấn đề phát triển kinh tế và xây
dựng Đảng. Nghị quyết khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động
văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình
cảm, lối sống, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội”
Đến Đại hội X của Đảng, với quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, những yêu cầu về tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn
với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và việc xây dựng, hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam,
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,… được khẳng định lại, tiếp nối quan điểm về văn
hóa từ kỳ đại hội trước. Đại hội lần này cũng đề ra u cầu đa dạng hóa các hình
thức hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”,
xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng, nhà truyền thống…
Đại hội XI khẳng định phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt
chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển, coi “con người là trung tâm của
chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và
quyền làm chủ của nhân dân”
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục khẳng định đường lối nhất quán xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và
mục tiêu “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là
sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc”
Thực tiễn xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam đặt ra nhiều thách
thức trong giai đoạn mới. Đảng ta ln khẳng định quan điểm văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển bền vững đất nước, con
người là trung tâm trong chiến lược phát triển. Chủ trương, đường lối của Đảng về
phát triển văn hóa là nền tảng vững chắc để tạo ra những chuyển biến tích cực
trong xây dựng nền văn hóa và con người hiện nay
KẾT LUẬN
Hiện nay, xã hội lồi người có những đặc điểm khác với thời kỳ của C.Mác,
nhưng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị. Nó là phương pháp
luận thực sự khoa học để phân chia giai đoạn phát triển, xem xét mỗi quan hệ lẫn
nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội như quy luật vận động, phát triển từ hình
thái kinh tế - xã hội. Cùng với sự phát triển của thực tiễn xã hội và khoa học, loài
người ngày nay cũng tìm ra những phương pháp tiếp cận mới về xã hội, nhưng
khơng phải vì thế mà lý luận hình thái kinh tế - xã hội trở lên lỗi thời. Lý luận hình
thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và tính thời đại của nó; Là
phương pháp luận thực sự khoa học để phân tích thời đại cũng như của cơng cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.