BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA CƠNG NGHỆ THỰC PHẨM
*
LỚP HỌC PHẦN:
12DHQTTP2
GIẢNG VIÊN
HƯỚNG DẪN:
MAI QUỐC DŨNG
NHĨM THỰC HIỆN:
NHĨM 2
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2021
MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN.................................................................................. 1
MỤC LỤC ................................................................................................................. 2
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU..................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC ............................................ 6
1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA SỰ RA ĐỜI TRIẾT HỌC MÁC: ........... 6
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội: ........................................................................................ 6
1.1.1. Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
cách mạng công nghiệp: .................................................................................................. 6
1.1.2. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính
trị - xã hội độc lập: ......................................................................................................... 7
1.1.3. Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu cho sự ra đời triết học
Mác: 8
1.2. Tiền đề lý luận và tiền đề khoa học: ....................................................................... 8
1.2.1. Tiền đề lý luận: ................................................................................................... 8
1.2.2. Tiền đề khoa học: ................................................................................................ 9
1.2.3. Nhân tố chủ quan: ............................................................................................... 9
CHƯƠNG 2: CÁC BƯỚC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC ........... 10
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN:
10
2.2. Giai đoạn thứ nhất (1842 – 1878): ........................................................................ 10
2.3. Giai đoạn thứ hai (1848 – 1871): ........................................................................... 10
2.4. Giai đoạn thứ ba (1871 - 1895):............................................................................. 11
3.2. C. Mác và Ph. Ăngghen đã khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của chủ
nghĩa duy vật cũ và khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của phép biện chứng duy
tâm, sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện
chứng:11
3.3. C. Mác và Ph. Ăngghen đã vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện
chứng vào nghiên cứu lịch sử xã hội, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - nội dung
chủ yếu của bước ngoặt cách mạng trong triết học: ....................................................... 12
3.4. C. Mác và Ph. Ăngghen đã bổ sung những đặc tính mới vào triết học, sáng tạo
ra một triết học chân chính khoa học - triết học duy vật biện chứng: .......................... 13
4.2. Sơ lược về Vladimir Ilyich Lenin (22/4/1870 - 21/1/1924): ................................. 15
4.3. Bối cảnh lịch sử: ..................................................................................................... 15
4.4. Nội dung cơ bản của quá trình lênin phát triển triết học Mác: ......................... 15
4.4.3. Thời kỳ 1893 – 1907: ......................................................................................... 16
4.4.4. Thời kỳ 1907 – 1917: ......................................................................................... 16
4.4.5. Thời kỳ 1917 – 1924: ......................................................................................... 16
LỜI KẾT ................................................................................................................. 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 19
2
MỞ ĐẦU
Vào thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Cơng ngun, triết học bắt đầu hình thành
và xuất hiện ở cả phương tây lẫn phương đơng. Nó ra đời với tư cách là đại diện cho
khả năng nhận thức và đánh giá của con người. Chủ đề trung tâm của triết học xoay
quanh con người, đề tài đó ln được các nhà triết học quan tâm, đề cập đến trong
các tác phẩm của họ, từ đó triết học tồn tại dưới hình thái ý thức xã hội. Xuyên suốt
chiều dài lịch sử, triết học đã đấu tranh với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
với tư cách là phương pháp nhận thức của chủ nghĩa hiện thực - phép biện chứng và
phương pháp siêu hình. Quá trình tiến hóa của khoa học đã tạo ra một lơgic “khách
quan và bên trong”. Các nguyên lý khoa học ra đời giúp con người có khả năng nhận
thức, đánh giá một cách đầy đủ về những gì đang diễn ra xung quanh, đồng thời đưa
ra nhiều tầm nhìn, nội dung, sắc thái riêng về con người, thể hiện lập trường và hồn
cảnh lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau vì sự tốt đẹp của thế giới, được biểu
hiện đầy đủ và phát triển hoàn toàn với chủ nghĩa duy vật. Có thể nói, sự xuất hiện
của triết học Mác như bước khởi đầu mang tính cách mạng đã làm thay đổi dòng chảy
thế giới, làm thay đổi lịch sử phát triển của triết học cả nhân loại. Những thành tựu
của tư tưởng nhân loại đã được C. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa một cách có phê
phán, và sáng tạo một cách triệt để chủ nghĩa duy vật, không phù hợp với thế giới
quan duy tâm trong triết học Hêghen và phương pháp siêu hình trong triết học của
Phoiobac. Cuộc cách mạng lý luận của Mác thông qua việc cải tạo chủ nghĩa duy vật
cũ và phép biện chứng duy tâm của Hegel để xác lập nên triết học duy vật biện chứng
là một cuộc cách mạng thực sự về lý luận xã hội, đó cũng là điểm tựa để tạo nên bước
ngoặt cách mạng do Mác và Ph. Ăngghen thực hiện trong triết học.
Giống các bộ môn khác, triết học cũng chú trọng tri thức. Tri thức mà nó đề cập
là tri thức mang lại sự thống nhất và hệ thống cho các ngành khoa học, đồng thời cịn
phát sinh từ một cuộc khảo sát có tính phê phán về cơ sở của định kiến và niềm tin
bên trong chúng ta. Cả quá trình sáng tạo của triết học nhân loại khơng phải là một
q trình dung dị do nó có tính hệ thống phức tạp, đa dạng và vơ hạn. Chính vì thế,
triết học giống như một sự giao thoa của nhiều ngành khoa học, một môn học được
3
nhiều người cho là khó với nhiều quan điểm và lý thuyết mang đầy tính học thuật và
trừu tượng. Điều này cịn thể hiện rõ hơn qua ngơn ngữ và hình thức cơ đọng, địi hỏi
giáo viên phải có cái nhìn sâu sắc về thực tế mới có thể minh họa được và khơng thể
lấy lý luận để giải thích một lý luận khác cao hơn. Ngồi mơn học này, mơn mà thế
giới nhận định khó nhất có mệnh danh là xác suất thống kê. Ấy thế nhưng sinh viên
Việt Nam lại cho rằng triết học Mác - Lênin còn khó hơn gấp nhiều lần so với xác
suất thống kê. Nhiều sinh viên chia sẻ rằng đây là một môn "ru ngủ" trong giờ học,
thậm chí có nhiều bạn chỉ vì để thốt khỏi tình trạng buồn ngủ đã chọn đối phó với
nó bằng cách làm việc riêng trong giờ học.
Mục đích nghiên cứu của bài tiều luận này là để cho mọi người tìm hiểu về
nguồn gốc của triết học phụ thuộc qua những điều kiện, thời kỳ và giai đoạn khác
nhau. Đồng thời, cũng giúp hiểu rõ hơn về quá trình phát triển và những vấn đề cơ
bản của triết học để có một cái nhìn mới về triết học thơng qua những giá trị cơ bản
mà nó mang lại cho đời sống con người và xã hội. Từ đó, bài tiểu luận đề xuất những
giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề về triết học còn tồn tại trong xã hội. Vậy,
nếu con người muốn tồn tại và phát triển trong xã hội lồi người thì phải thoả mãn
được hai điều kiện, đó chính là đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Muốn có vật
chất thì phải biết lấy kinh tế làm nền tảng, muốn tinh thần thì phải biết đem văn hóa
làm trung điểm. Từ mối quan hệ song hành này, nếu đi sâu tìm hiểu nội hàm của mối
quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, sẽ thấy được sự phát triển tồn diện, triệt để của xã
hội chủ yếu diễn ra qua sự phát triển của văn hóa. Và đỉnh cao của sự phát triển này
là nằm ở q trình chuyển hố thành những văn hóa tinh túy và thuần khiết nhất lên
tầm cao xã hội. Ðây là một trong những triết lý sâu rộng về sự phát triển xã hội của
Mác. Ở đó, nhận thấy chủ nghĩa Mác đến học thuyết Mác - Lênin đều có một quan
niệm khá tồn diện, hoàn chỉnh và đúng đắn về sự phát triển xã hội. Bởi xét một cách
khách quan, những gì giúp con người vượt qua thách thức, giải thoát con người khỏi
những cạm bẫy, vướng mắc của cuộc sống, định hướng cho quá trình nghiên cứu, đưa
ra nhiều giải pháp hợp lý, có hiệu quả tối đa để thực hiện các hoạt động nhận thức và
thực tiễn, đáp ứng được nhu cầu kỳ hạn của nhân loại không chỉ là kinh tế, kỹ thuật
hiện đại và cơng nghệ cao, mà cịn là triết học. Nó khơng chỉ giúp con người nhận
4
thức rõ được vị trí, lối sống phù hợp với bản thân, mà còn giúp xác định được mục
tiêu và lý tưởng sống để từ đó làm biến đổi hiện thực, thúc đẩy xã hội phát triển nhanh
hơn và giúp hòa nhập giữa người với người, tăng năng lực khám phá và sử dụng thế
giới tự nhiên. Rõ được tầm quan trọng của sự ra đời và sự phát triển của triết học đối
với đời sống xã hội.
Đứng trước vấn đề được xã hội quan tâm và đặc biệt là của những sinh viên hiện
đang và đã từng ngồi trên giảng đường, với cương vị là sinh viên ngành quản trị kinh
doanh thực phẩm của trường đại học Công Nghiệp Thực Phẩm Tp. Hồ Chí Minh cùng
mong muốn tìm ra cách giải quyết vấn đề, nhóm tác giả quyết định chọn đề tài “Sự
ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác” để thực hiện nghiên cứu. Nhóm tác giả hy
vọng nghiên cứu này sẽ giúp cho mọi người có thể hiểu một cách khái quát về sự ra
đời và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như là giải đáp những vướng mắc
của mọi người. Song, do kiến thức cịn hạn chế nên bài viết sẽ khơng tránh khỏi những
thiếu sót. Nhóm rất mong sẽ nhận được sự giúp đỡ và góp ý của thầy để cơng việc
nghiên cứu có thể diễn ra một cách sn sẻ.
Cơng trình nghiên cứu gồm 20 trang (bao gồm trang bìa). Ngoài phần mở đầu
và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận được kết cấu thành 3
chương như sau:
1.
Hoàn cảnh ra đời của triết học
2.
Các bước hình thành và phát triển triết học
3.
Ý nghĩa của triết học Mác - Lênin
5
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC
1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA SỰ RA ĐỜI TRIẾT HỌC MÁC:
Triết học Mác - Lênin xuất hiện lần đầu tiên là vào nửa cuối thế kỷ XIX, nó
hình thành và phát triển từ thời điểm đó cho đến nay. Sự xuất hiện của triết học đã
gây ra một cuộc cách mạng to lớn, có tính trọng đại trong lịch sử triết học và sự hình
thành nhân sinh quan, phương pháp luận và hoạt động thực tiễn. Triết học được hình
thành và phát triển là nhờ vào những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỉ XIX, khi
cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đang diễn ra gay gắt lúc bấy
giờ. Ngồi ra, triết học cịn bắt nguồn từ tri thức và xã hội. Hơn nữa, nó cịn là kết
quả của sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của C. Mác và
Ph. Ăngghen. Ăng-ghen.
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội:
1.1.1.Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong điều kiện cách mạng công nghiệp:
Triết học Mác ra đời từ thế kỉ XIX của những năm 40. Do ảnh hưởng của Cách
mạng công nghiệp, sự phát triển vô cùng mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã tạo dựng
vững chắc phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đây còn là một đặc điểm nổi bật
trong đời sống kinh tế - xã hội của các nước lớn ở Châu Âu.
Nước Anh đã hồn thành cuộc cách mạng cơng nghiệp và trở thành cường quốc
công nghiệp lớn nhất, trong khi Pháp đang bước vào giai đoạn hình thành của cuộc
cách mạng cơng nghiệp. Chính cuộc Cách mạng cơng nghiệp đã tạo cho nền sản xuất
xã hội ở Đức phát triển mạnh mẽ ngay trong lòng của xã hội phong kiến. Nhận xét về
sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất C. Mác và Ph. Ăngghen viết: "Giai cấp
tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỉ, đã tạo ra những lực
6
lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước
kia gộp lại".
* Bên cạnh những ưu điểm trên, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản còn làm cho
mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt, và và bộc lộ rõ nét hơn. Của cải xã hội
tăng lên nhưng không những không thể thực hiện được lý tưởng về bình đẳng xã hội
do cuộc cách mạng tư tưởng nêu ra, mà cịn làm gia tăng tình trạng bất cơng xã hội,
đối kháng xã hội cũng vì đó mà thêm sâu sắc, vì khi phản kháng xã hội càng lún sâu,
những mâu thuẫn, xung đột giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản cũng từ đó mà
chuyển thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
1.1.2.Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một
lực lượng chính trị - xã hội độc lập:
Giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ra đời và lớn lên cùng nhau với sự hình thành và
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong hệ thống phong kiến. Sau
khi chế độ tư bản ra đời, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội và giai cấp vô
sản trở thành giai cấp bị trị. Giữa hai giai cấp ngày càng phát triển và từ nguyên nhân
đó mà cả hai giai cấp đã hình thành nên những cuộc đấu tranh giai cấp.
Đã có nhiều cuộc khởi nghĩa, đấu tranh diễn ra như:
• Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Lng (Pháp) năm 1831, bị đàn áp và sau
đó tiếp tục nổ ra vào năm 1834.
• Phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế kỉ XIX ở Anh
là “phong trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên, thật sự có tính chất quần chúng
và có hình thức chính trị”.
• Ở Đức cuộc đấu tranh của thợ dệt Xiledi cũng đã mang tính chất giai
cấp tự phát và đã đưa đến sự ra đời của một tổ chức vô sản cách mạng là “Đồng
minh những người chính nghĩa”.
*Trong hồn cảnh lịch sử đó thì giai cấp tư sản khơng còn giữ vai trò là giai cấp
cách mạng.
Ở Anh và Pháp, giai cấp tư sản, với tư cách là giai cấp thống trị, đã sợ hãi trước
cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản và khơng cịn là lực lượng cách mạng trong công
7
cuộc đổi mới dân chủ như trước đây. Ở Đức, giai cấp tư sản lớn lên ở trung tâm của chế
độ phong kiến vốn đã sợ bạo lực cách mạng khi nhìn thấy tấm gương của cách mạng tư
sản Pháp năm 1789, nay lại càng sợ hãi trước sự phát triển của phong trào quần chúng
Người Đức, hay nói cách khác là phong trào cơng nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản
xuất hiện trên vũ đài lịch sử không chỉ gánh trên vai sứ mệnh trở thành “kẻ tiêu diệt”
giai cấp tư sản, mà còn là đội tiên phong trong cơng cuộc đấu tranh vì dân chủ và tiến
bộ xã hội.
1.1.3.Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu cho sự ra đời
triết học Mác:
Triết học, theo cách nói của Hêghen, là sự nắm bắt thời đại bằng tư tưởng. Vì
vậy, thực tiễn xã hội nói chung, nhất là thực tiễn cách mạng vơ sản, địi hỏi phải được
soi sáng bằng lý luận nói chung và triết học nói riêng, nhất là triết học soi dẫn. Những
vấn đề của thời đai do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đặt ra đã được phản ánh bởi
tư duy lý luận từ những lập trường giai cấp khác nhau, làm hình thành những học
thuyết với tư cách là một hệ thống của những quan điểm lý luận, tư tưởng về triết
học, kinh tế và chính trị xã hội khác nhau. Để lý giải về những khuyết điểm của xã
hội tư bản đương thời, điều cần thiết nhất là phải thay thế nó bằng một xã hội tốt đẹp,
thực hiện được sự bình đẳng xã hội theo những lập trường giai cấp khác nhau, sản
sinh ra nhiều biến chủng của chủ nghĩa xã hội như: “chủ nghĩa xã hội tư sản”, “chủ
nghĩa xã hội tiểu tư sản”.
1.2. Tiền đề lý luận và tiền đề khoa học:
1.2.1.Tiền đề lý luận:
Để đặt cơ sở lý thuyết của mình ngang hàng với trí thơng minh của con người,
C. Mác và Tiến sĩ Ph. Ăngghen đã kế thừa, bổ sung và phát triển những tư tưởng lý
luận ban đầu. Có 3 tiền đề lý luận chính:
✓
Triết học cổ điển Đức: Kế thừa chủ nghĩa duy vật biện chứng
của Hegel, chủ nghĩa duy vật Feuerbach (kế thừa và định vị trọng yếu), thiết
lập nên Triết học Mác và phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
8
✓
Kinh tế chính trị học cổ điển Anh: Sự kế thừa có chọn lọc và có
phê phán các học thuyết về chính trị, giá trị lao động và lợi nhuận của các nhà
kinh tế Anh đương thời Adam Smith và David Ricardo, kinh tế chính trị Mác,
khám phá ra học thuyết giá trị thặng dư.
✓
Chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp: C. Mác và Ph.
Ăngghen kế thừa những tư tưởng xã hội chủ nghĩa của Saint Simon và Charles
Fourier (kế thừa có chọn lọc, có phê phán) kế thừa về những mặt tích cực, xố
bỏ những mặt tiêu cực hạn chế, xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học, phát hiện
ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
1.2.2.Tiền đề khoa học:
Đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có bước phát triển vượt bậc, đi từ trình độ
thực nghiệm lên trình độ lý luận, nhất là việc nhiều phát minh khoa học thời bấy giờ
xuất hiện, có ảnh hưởng to lớn đến thế giới cũng như là sự ra đời của Triết học Mác:
o
Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
o
Thuyết tế bào
o
Học thuyết tiến hóa
1.2.3.Nhân tố chủ quan:
Bên cạnh những điều kiện về kinh tế - xã hội, tiền đề về khoa học và lý luận, sự
ra đời của chủ nghĩa Mác không thể không có những nhân tố chủ quan đó là chính
bản thân Mác và Ăngghen. Thông qua năng lực tư duy và tinh thần nhân văn, cùng
với sự cần cù, chịu khó, nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học mà hai ông đã kế thừa
được toàn bộ tinh hoa trong lịch sử tư tưởng nhân loại, có thể xem đây là một thành
tựu tổng hợp của nền khoa học đương đại ở giai đoạn diễn ra phong trào cơng nhân.
Và chính cái nhân tố chủ quan ấy đã khai sinh ra chủ nghĩa Mác - dưới hình thức như
một ngọn cờ lý luận của giai cấp cơng nhân - hồn thiện trong cả lĩnh vực tự nhiên
và xã hội. Đó là những yếu tố quan trọng nhằm thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác.
Triết học Mác, cũng như tất cả các chủ nghĩa Mác, ra đời như một tất yếu lịch
sử khơng những vì đời sống và thực tiễn mà cịn là vì tiền đề cho sự ra đời của những
lý luận mới do loài người tạo ra.
9
CHƯƠNG 2: CÁC BƯỚC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN:
2.2. Giai đoạn thứ nhất (1842 – 1878):
Karl Heinrich Marx (1818 – 1883) sinh trưởng trong một gia đình trí thức (bố
là luật sư), ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, một vùng có nhiều ảnh hưởng của Cách
mạng tư sản Pháp. ở thành phố Tơrevơ hồi đó, đạo Kitơ là tơn giáo độc tơn; vì thế,
cũng như gia đình, Mác đã là tín đồ Kitơ giáo. Friedrich Engels (1820 – 1895) sinh
ra trong gia đình chủ xưởng dệt ở thành phố Bacmen. Khi còn là học sinh trung học,
Ăngghen đã căm ghét sự chuyên chế và độc đoán của bọn quan lại, ơng đã kiên trì tự
học, ni ý chí làm khoa học và hoạt động cải biến xã hội bằng cách mạng. Ăngghen
say mê nghiên cứu triết học, đặc biệt là các tác phẩm của Hêghen. (1842-1843) và
(1847-1848) là những năm các ông thực hiện sự phê phán lý luận cũ (Triết học cổ
điển Đức, Kinh tế chính trị học cổ điển Anh, Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp) và
xây dựng hệ thống quan điểm mới. Sự chuyển biến ấy được phản ánh qua các tác
phẩm tiêu biểu như:
▪ Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen
▪ Bản thảo kinh tế - triết học (1844)
▪ Gia đình thần thánh
▪ Hệ tư tưởng Đức
2.3. Giai đoạn thứ hai (1848 – 1871):
Thời kỳ này bao quát những sự kiện của cách mạng dân chủ tư sản của các nước
Tây Âu (1848-1851), việc thành lập Quốc tế I (1864). nổi bật trong thời kỳ này được
đánh dấu bằng việc xuất bản tập I bộ Tư bản của Mác (1867) khẳng định vững chắc
địa vị kinh tế – xã hội và vai trị lịch sử của giai cấp cơng nhân.
Kinh nghiệm đấu tranh đã làm cho lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trở nên
phát triển. Qua đó Mác kết luận: Để giành quyền thống trị về chính trị giai cấp công
nhân cần đập tan bộ máy nhà nước quan liêu tư sản, xây dựng một nhà nước mới nhà nước chun chính vơ sản. Học thuyết về cách mạng không ngừng được xây
dựng (về liên minh giai cấp của giai cấp công nhân, về chiến lược)
10
2.4. Giai đoạn thứ ba (1871 - 1895):
Thời kì phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm
Cơng xã Pari. Đây là q trình quan điểm mới của C. Mác và Ph. Ăngghen được phát
triển sâu sắc và hồn thiện hơn. Nó được thể hiện trong các tác phẩm:
▪ Nội chiến ở Pháp
▪ Phê phán Cương lĩnh Gôta
▪ Chống Đuyrinh
▪ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước
3. THỰC CHẤT VÀ Ý NGHĨA CUỘC CÁCH MẠNG TRONG TRIẾT HỌC DO
C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN THỰC HIỆN:
3.2. C. Mác và Ph. Ăngghen đã khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của
chủ nghĩa duy vật cũ và khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của phép biện
chứng duy tâm, sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hồn bị, đó là chủ
nghĩa duy vật biện chứng:
Sự ra đời của triết học Mác được công nhận là một cuộc cách mạng trong lịch
sử triết học nhân loại. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học của nhân loại lúc bấy giờ
từ thời kỳ chủ yếu là “giải thích thế giới” sang thời kỳ khơng chỉ “giải thích thế giới”,
mà còn “cải tạo thế giới”. Rõ ràng, với sự ra đời của triết học Mác, lịch sử triết học
của nhân loại đã bước sang một kỷ nguyên mới về chất, trong đó có sự thống nhất
với nhau giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, giữa quan niệm duy vật về tự
nhiên với quan niệm duy vật về bản chất và đời sống xã hội, giữa việc giải thích hiện
thực về mặt triết học với cuộc đấu tranh đổi mới hiện thực thông qua thực tiễn cách
mạng, trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp cơng nhân
và chính đảng của mình để nhận thức và cải thiện thế giới. Và đây thực chất là một
cuộc cách mạng trong triết học do C. Mác và Ph. Ăngghen đã làm.
Trong lịch sử triết học trước Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng tách
rời nhau do sự hạn chế của điều kiện xã hội và của trình độ phát triển của khoa học.
Các nhà triết học duy vật dù đã thể hiện những tư tưởng biện chứng tuy nhưng họ vẫn
bị chi phối bởi phương pháp tư duy siêu hình. Khắc phục được nhược điểm của chủ
11
nghĩa duy vật Feuerbach là quan điểm triết học nhân bản, xem xét con người tộc loại,
khơng mang tính lịch sử, phi giai cấp, C. Mác và Ph. Ăngghen đã xây dựng chủ nghĩa
duy vật triết học chân chính khoa học bằng cách dựa trên cơ sở lý giải: thực hiện xuất
phát từ con người – hoạt động thực tiễn của con người mà đặc biệt là hoạt động thực
tiễn của sản xuất vật chất và thực tiễn đấu tranh chính trị - xã hội. Nói cách khác, chủ
nghĩa duy vật cũ là chủ nghĩa duy vật bị “cầm tù” trong tầm nhìn hạn hẹp, và một
chiều của phép siêu hình và duy tâm về xã hội. Ngồi ra, tư tưởng biện chứng đã đạt
được những thành tựu to lớn trong triết học cổ điển Đức, tuy nhiên, phép biện chứng
lại bị được bao hàm bởi cái vỏ duy tâm thần bí của một số đại biểu triết học cổ điển
Đức, đặc biệt là trong hệ thống triết học duy tâm, bảo thủ và phản động của Hegel.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra thế giới quan duy tâm, lộn ngược, tính chất bảo thủ,
phản động, bất lực trước những vấn đề xã hội và lịch sử trong phép biện chứng của
Hegel. Nói khác đi, phương pháp biện chứng của Hegel không gắn kết hữu cơ với
chủ nghĩa duy vật, mà gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy tâm. Phương pháp biện
chứng này không thực sự trở thành một khoa học, mặc dù đã góp phần vào cho sự
phát triển của tư tưởng nhân loại.
3.3. C. Mác và Ph. Ăngghen đã vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện
chứng vào nghiên cứu lịch sử xã hội, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - nội
dung chủ yếu của bước ngoặt cách mạng trong triết học:
Trong quá trình xây dựng và phát triển thế giới quan mới, C. Mác và Ph.
Ăngghen không hề phủ nhận, bác bỏ hay chê bai các quan điểm, học thuyết của các
nhà triết học trước đây, các ông cho rằng chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đóng vai
trị hết sức quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, khoa học và triết học. Tuy
nhiên, chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật khơng hồn chỉnh, chưa có
quan điểm đúng đắn và sáng suốt về thực tiễn, tức là chỉ mới duy vật trong giải thích
tự nhiên, nhưng cịn mang ý niệm duy tâm trong giải thích lĩnh vực lịch sử, xã hội, tư
tưởng. Trong khi đó, phép biện chứng của Hegel cịn mang nhiều quan điểm bảo thủ,
cứng nhắc, không thể giải quyết triệt để những vấn đề lịch sử xã hội. C. Mác và Ph.
Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch sử xã hội
12
và mở rộng vào nghiên cứu một lĩnh vực đặc thù của thế giới vật chất là tồn tại hoạt
động của con người, tồn tại thống nhất, khách quan - chủ quan. Lần đầu tiên trong
lịch sử triết học của nhân loại, với quan điểm duy vật lịch sử, triết học Mác đã chấm
dứt tồn bộ cái nhìn duy tâm, phiến diện về xã hội. Xã hội, lịch sử, tư tưởng lần đầu
tiên trong lịch sử nhân loại đã được giải thích một cách khách quan, khoa học. Điều
này đã khắc phục được những thiếu sót cơ bản của xã hội học và sử học trước Mác
là: Chỉ chú ý đến những động cơ tư tưởng của hoạt động của con người, khơng tính
đến các ngun nhân vật chất; Khơng nhìn thấy vai trị quyết định của quần chúng
nhân dân, mà chỉ chú ý đến vai trò cá nhân. Về bản chất, chủ nghĩa duy vật lịch sử
của C. Mác cũng là chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng thể hiện được tính đặc thù
của lĩnh vực lịch sử – lĩnh vực hoạt động của con người. Chính chủ nghĩa duy vật lịch
sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng đã trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận cho C. Mác nghiên cứu kinh tế, phát hiện ra học thuyết giá trị thặng dư, hiểu
được sự phát sinh, phát triển, sự tiêu vong của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là một cuộc cách mạng thực sự vĩ đại
nhất trong triết học về xã hội - một bước ngoặt chủ yếu của cách mạng mà C. Mác và
Ph. Ăngghen đã thực hiện trong triết học.
3.4. C. Mác và Ph. Ăngghen đã bổ sung những đặc tính mới vào triết học, sáng
tạo ra một triết học chân chính khoa học - triết học duy vật biện chứng:
Triết học trước Mác nhìn chung chỉ mới giải thích thế giới mà chưa chỉ ra được
đường lối, biện pháp đúng đắn để cải tạo thế giới. Chưa có nhà triết học nào hiểu
được vai trò của thực tiễn đối với hoạt động cải tạo thế giới. Do đó, việc sáng tạo ra
một triết học hoàn toàn mới đã giúp khám phá ra bản chất, vai trò thực tiễn, gắn bó
một cách hữu cơ giữa q trình phát triển lý luận với thực tiễn xã hội, nhất là thực
tiễn đấu tranh của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân. Triết học Mác khơng chỉ
giải thích thế giới mà còn đề ra đường lối, phương pháp, cách thức để làm cho thế
giới tốt đẹp hơn. Đặc biệt, triết học Mác chỉ ra con người muốn cải tạo thế giới thì
phải thơng qua hoạt động thực tiễn. Sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn là động lực
chính để C. Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra một triết học khoa học chân chính, đồng
13
thời trở thành một nguyên tắc, một nét mới của triết học duy vật biện chứng. Trong
triết học Mác, không có sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con
người, trước hết là hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản. Hoạt động thực tiễn của
giai cấp vô sản được soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngược lại, hoạt động thực tiễn của giai cấp
vô sản lại là cơ sở, động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Giữa triết học Mác với hoạt động thực tiễn của giai cấp vơ
sản có sự thống nhất hữu cơ với nhau. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
triết học đã gắn bó mật thiết với hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người;
còn hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người là cơ sở, động lực, mục đích
của triết học Mác.
Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm tính cách mạng. Ở triết học
Mác, tính cách mạng và tính khoa học thống nhất hữu cơ với nhau. Tính khoa học
càng sâu sắc, càng phản ánh đúng quy luật của sự phát triển thế giới thì tính cách
mạng càng cao, càng triệt để. Được biểu hiện ở trong bản chất khoa học của học
thuyết, mục đích cải tạo thế giới, vai trị và sứ mệnh của giai cấp vơ sản. Chứng minh
được bằng sức mạnh của phương pháp biện chứng, sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng
chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Đúng như C. Mác đã khẳng định:
“Giống như triết học thấy giai cấp vơ sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vơ sản
cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Do vậy, triết học Mác đã trở thành
công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vơ sản và tồn thể nhân loại.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã làm triết học trở thành vũ khí tinh thần của giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động. Những cống hiến của các ông trong lĩnh vực triết
học không phải do mục đích tự thân, chủ quan mà nhằm giải quyết những nhiệm vụ
thực tiễn của nhân loại. Lần đầu tiên trong lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen đã cơng
khai tính giai cấp của triết học, biến triết học thành vũ khí tinh thần của giai cấp vô
sản, C. Mác đã sớm khẳng định: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí
vật chất của mình, giai cấp vơ sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”.
Với sự ra đời của triết học, vai trị xã hội cũng như vị trí của nó trong hệ thống tri
14
thức khoa học có sự biến đổi rất căn bản. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học
nằm ở sự gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vơ sản và từ đó
trở thành vũ khí vật chất. Sự kết hợp triết học Mác với phong trào công nhân đã tạo
nên bước chuyển biến về chất từ trình độ tự phát lên tự giác. C. Mác đã làm cho triết
học trở thành thế giới quan, phương pháp luận và khoa học để giải phóng giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động trên tồn thế giới.
Những đặc trưng nổi bật của triết học Mác là tính sáng tạo. Nó là kết quả hoạt
động nghiên cứu khoa học công phu và sáng tạo của C. Mác và Ph. Ăngghen. Một hệ
thống mở luôn được bổ sung, phát triển. Không được coi những nguyên lý triết học
Mác là những giáo điều, mà là kim chỉ nam cho nhận thức và hành động, cần vận
dụng sáng tạo trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Triết học là lý luận khoa học xuất
phát từ con người, vì mục tiêu giải phóng con người, trước hết là giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, phát triển tự do, tồn diện.
4. GIAI ĐOẠN LÊNIN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC:
4.2. Sơ lược về Vladimir Ilyich Lenin (22/4/1870 - 21/1/1924):
Trong giai đoạn này, trên cơ sở thực tiễn của thời đại, tư tưởng của nhân loại
được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực từ cổ đại cho đến xã hội đương thời để từng bước
củng cố, bổ sung và hoàn thiện quan điểm của mình. Ngồi ra ơng cịn là vị lãnh tụ
của cách mạng vô sản Nga, người phát triển học thuyết của Mác và Ăngghen. Đồng
thời cũng là người sáng lập ra Quốc tế Cộng sản và lãnh đạo nhân dân Nga tiến hành
Cách mạng tháng Mười, lập Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới (7/11/1917).
4.3. Bối cảnh lịch sử:
Cuối TKXIX - đầu TKXX chủ nghĩa tư bản chuyển sang đế quốc chủ nghĩa dẫn
đến tình hình xã hội có nhiều biến đổi sắc. Khoa học tự nhiên có nhiều thành tựu mới
nhưng còn đối lập giữa dữ liệu khoa học và khái quát triết học, điển hình là cuộc
khủng hoảng vật lí đầu thế kỉ XX. Khuynh hướng triết học chủ nghĩa duy tâm đã tấn
công chủ nghĩa duy vật biện chứng để phủ định chủ nghĩa Mác.
4.4. Nội dung cơ bản của quá trình lênin phát triển triết học Mác:
15
4.4.3.Thời kỳ 1893 – 1907:
Giai đoạn V.I Lênin tập trung chống phái duy túy và đưa ra những tư tưởng về
mối quan hệ - tầm quan trọng của lý luận và thực tiễn. Từ đó ơng nhấn mạnh q
trình hình thành hệ tư tưởng giai cấp vô sản và phát triển sâu sắc phương pháp cách
mạng, nhân tố chủ quan và khách quan trong cách mạng tư sản đế quốc chủ nghĩa.
4.4.4.Thời kỳ 1907 – 1917:
Đây là thời đại triết học được bảo vệ và phát triển, xác lập thế giới quan duy vật
biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật cho giai cấp công nhân trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Qua đó đưa ra định nghĩa về vật chất và nêu ra
con đường để giai cấp vơ sản xác lập nhà nước chun chính vơ sản. Năm 1914 đến
1916, đã có nhiều thành tựu thiên về triết học và khoa học tự nhiên xuất hiện (điển
hình là 8 quyển đặt tên là Bút ký triết học).
4.4.5.Thời kỳ 1917 – 1924:
Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội khi cách mạng tháng
10 Nga thành công. Sự kiện này làm nảy sinh nhu cầu mới về lý luận, mà thời C.
Mác, Ph. Ăngghen chưa được đặt ra. Điều đó đã làm Lênin: Tiếp tục bảo vệ phép
biện chứng Mácxít và phát triển học thuyết Mác về nhân tố quyết định thắng lợi của
chế độ xã hội, về giai cấp, về hai nhiệm vụ cơ bản của giai cấp vô sản.
16
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Sự ra đời và phát triển toản diện của triết học Mác – Lênin từ thời cổ đại cho
đến nay, nhất là về phương diện tư tưởng, quan điểm và những nhận thức cùng với
hoạt động thực tiễn trong cả lĩnh vực khoa học và xã hội đã đem đến một minh chứng
khách quan và khơng thể bác bỏ về tính tất yếu cần thiết của triết học.
Đối với xã hội: Có thể nói, dù trải qua nhiều giai đoạn khác nhau nhưng vẫn
khơng thể phủ nhận sự đóng góp của triết học trong việc cung cấp cho con người
những lý luận, năng lực tư duy trừu tượng giữa thế giới sâu rộng, ln biến đổi khơng
ngừng. Từ đó mang một vai trò giúp nhân loại cải tạo thế giới và nhận thức được hoạt
động thực tiễn, thúc đẩy xã hội vượt qua những thách thức to lớn, tiếp tục tiến lên
phía trước. Bởi lẽ triết học là khoa học cung cấp cho năng lực tư duy trừu tượng để
tuỳ vào các lĩnh vực cụ thể mà các khoa học tìm ra chân lý của mình. Cái năng lực tư
duy đó khó có thể đong đếm bằng những định lượng về tính hiệu quả, tính xác định,
nhưng nếu thiếu nó, cái mà người ta nhận được chỉ là sự thất bại trong hoạt động thực
tiễn, hệ quả của sự thất bại trong nhận thức. Ta sẽ thấy rõ hơn qua những thành tựu
trong của khoa học con người và ở đó, triết học đã tạo ra kinh tế học chính trị như
một khoa học, hình thành nên những phẩm chất, đặc biệt là phẩm chất về chính trị ở
con người để con người có thể hiểu rõ các hơn về các mặt khác nhau của xã hội, giúp
thúc đẩy đất nước phát triển toàn diện ở cả lĩnh vực tự nhiên và xã hội.
Đối với cá nhân: Triết học giúp hoàn thiện về nhân cách, có tư duy trưởng
thành, nhận thức và sáng tạo hơn, hình thành nên một lập luận rõ ràng, cặn kẽ, tư duy
có logic. Đồng thời, nhờ hệ thống lý luận của học thuyết Mác - Lênin, tính sáng tạo
trong các mơn khoa học chun ngành cũng từ đó được nâng cao. Chính những tư
tưởng như vậy, triết học đã mang đến cho chính bản thân ta một niềm tin vào sự phát
triển, giúp mỗi cá nhân có một thái độ theo góc nhìn của khoa học một cách đúng đắn
đối với thực tế, cũng như khả năng phân tích và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh
trên tinh thần thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng. Điều đó nên ở
mỗi cá nhân niềm lạc quan cách mạng để vượt qua những thử thách, cam go cùng
những khó khăn trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
17
LỜI KẾT
Xã hội Việt Nam hiện đang trong giai đoạn hình thành và phát triển theo chế độ
là một xã hội của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, việc hình thành những quan điểm
đúng đắn về con người và vai trò của con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
là một vấn đề cốt lõi, không thể thiếu trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối
với một đất nước xuất thân từ nền nơng nghiệp lạc hậu, con đường cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa là q trình tất yếu khách quan để đáp ứng tiến trình hội nhập quốc tế
đang diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng. Bên cạnh những thuận lợi của các yếu tố thiên
nhiên, tự nhiên và yếu tố con người, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người nói riêng có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển toàn diện của Việt Nam để thực hiện thành cơng q trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước; trở thành một nước văn minh, giàu mạnh; xóa bỏ
chuẩn nghèo và lạc hậu. Đồng thời, tiểu luận cũng đưa ra một số giải pháp nhằm giúp
mọi người hiểu rõ hơn về triết học và giá trị cốt lõi của nó. Nhóm tác giả một lần nữa
xin chân thành cảm ơn thầy Mai Quốc Dũng đã tạo điều kiện dẫn dắt bài tiểu luận
"Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin". Do kiến thức cịn hạn chế và cịn
nhiều sai sót, rất mong nhận được sự góp ý và phản hồi của thầy để bài làm được
hoàn thiện hơn.
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] PGS.TS. Phạm Văn Đức, PGS.TS. Trần Văn Phịng, PGS.TS. Nguyễn Tài
Đơng, GS.TS. Nguyễn Văn Tài, GS.TS. Trương Giang Long, GS.TS. Trần Phúc
Thăng, GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, GS.TS. Nguyễn Hùng Hậu, GS.TS. Hồ Sĩ Quý,
PGS.TSKH. Lương Đình Hải, PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn, PGS.TS. Trần Đăng Sinh,
Mai Yến Nga (2021). Giáo trình triết học Mác - Lênin, NXB chính trị quốc gia sự
thật, Hà Nội
[2] Ban Tuyên Giáo Trung Ương (2009). Những nội dung cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, NXB chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội
[3] PGS, TS. Đỗ Công Tuấn, PGS, TS. Nguyễn Đức Bách, GS, TS. Đỗ Nguyên
Phương, TS. Nguyễn Viết Thơng, TS. Dương Văn Dun, TS. Phùng Khắc Bình, TS.
Phạm Văn Chín, TS. Nguyễn Đình Đức, TS. Phạm Ngọc Anh, Th.S. Vũ Thanh Bình
(2009). Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội
[4] Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó viện trưởng Viện Triết học. (2016). Thực chất của
cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C. Mác thực hiện và ý nghĩa của nó đối với
việc phát triển triết học Mác-Lenin ở thời đại ngày nay. Truy cập ngày 31/10/2021,
từ
/>
mang-trong-lich-su-triet-hoc-do-CMac-thuc-hien-va-y-nghia-cua-no-doi-voi-viecphat-trien-triet-hoc-Mac--Lenin-o-thoi-dai-ngay-nay-89.0
[5] Phạm Công Thưởng. (2021). Những cống hiến vĩ đại của C. Mác trong lĩnh
vực triết học. Truy cập ngày 31/10/2021, từ />
19