Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Phân tích những điểm tiến bộ của các nguyên tắc hình sự trong pháp luật phong kiến Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.93 KB, 6 trang )

Câu 2: Phân tích những điểm tiến bộ của các nguyên tắc hình sự trong
pháp luật phong kiến Việt Nam
Trả lời:
Hình sự là nội dung chủ đạo bao trùm tồn bộ pháp luật phong kiến. Tuy
pháp luật phong kiến không có chương điều cụ thể quy định về các nguyên tắc
hình sự, nhưng qua tinh thần và nội dung của nó đã thể hiện nhiều ngun tắc
hình sự.
I. Pháp luật hình sự thời Ngơ, Đinh, Tiền Lê (938 – 1009)
- Văn bản pháp luật thời kì này khơng cịn nhiều.
- Hình phạt nặng nề được sử dụng để trấn áp những kẻ chống đối.
VD: Nhà Đinh dùng những hình phạt khốc liệt như đặt vạc dầu lớn giữa
sân triều, nuôi hổ dữ trong củi và quy định “Ai có tội sẽ bỏ vào vạc dầu nấu hay
cho hổ ăn”
- Các triều đại này coi tội phạm hóa các hành vi đe dọa quyền lực của
triều đình là sự tiếp tục và hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh quân sự chống lại
những tàn dư của nạn cát cứ diễn ra trước đó, nhằm ổn định, thống nhất đất
nước
II. Pháp luật hình sự thời Lý, Trần, Hồ (1010 – 1407)
- Nguyên tắc của chế độ trừng trị:
+ Nguyên tắc được chuộc tội bằng tiền
+ Nguyên tắc truy cứu trách nhiệm cụ thể
- Thời kì này khơng định nghĩa cụ thể tội phạm là gì mà xác định trực tiếp
hành vi nào là phạm tội và xử lý chúng như thế nào.
- Chế độ hình phạt hà khắc: áp dụng chế độ ngũ hình của phong kiến
Trung Quốc và một số hình phạt khác.
- Pháp luật thừa nhận sự bất bình đẳng trong xã hội
- Nguyên tắc trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng trong một số trường
hợp nhất định
- Pháp luật thời kì này trước hết bảo vệ quyền lợi chính trị và kinh tế của
vua quan và các tầng lớp trên của xã hội
- Pháp luật thừa nhận và bảo vệ chế độ tư hữu


- Pháp luật bảo vệ trật tự xã hội theo tinh thần Nho giáo và trật tự đẳng
cấp trong xã hội


III. Pháp luật hình sự thời Hậu Lê
1. Hệ thống pháp luật thời kì nhà Lê
- Các hoạt động lập pháp của nhà Lê nhằm xác lập ý chí của giai cấp
phong kiến.
- Triều đình nhà Lê đã để lại những thành tựu đáng kể trên lĩnh vực pháp
luật và điển chế. Tiêu biểu nhất là Bộ luật Hồng Đức.
- Bộ luật Hồng Đức gồm phần đầu có 3 đồ biểu quy định về kích thước
các cơng cụ, tang phục và việc để tang. Sau đó là 13 chương với 722 điều
2. Những đặc điểm pháp lý được quy định trong Bộ luật Hồng Đức
2.1. Vấn đề hiệu lực
- Vấn đề hiệu lực của đạo luật hình sự đã được điều chỉnh về mặt lập pháp
tương đối đầy đủ.
- Điều 14 quy định: "Các quan có trách nhiệm cai quản viên chức hay
quân dân mà phạm tội do sơ suất, sai lầm, thì từ tội lưu trở xuống cho chuộc


tiền. Phạm tội trong khi chưa làm quan đến khi làm quan (nghĩa là có phẩm hàm
từ lục phẩm trở lên) việc mới phát, phạm tội khi ở chức thấp, đến khi thăng chức
việc mới phất" đều cho giảm tội một bậc…".
- Điều 17 quy định: "Phàm lúc phạm tội chưa già, chưa có tật, mà khi việc
phát lộ thì đến tuổi già hay có tật thì cũng xử như người già và người tần tật.
Những người trong khi đương chịu tội đồ mà đến tuổi già hoặc trở nên tàn tật thì
cũng xử như thế. Phạm tội trong khi còn nhỏ, đến khi lớn việc mới phát lộ cũng
được luận tội như trẻ nhỏ".
2.2. Vấn đề tội phạm
- Quốc triều Hình luật nhà Lê khơng ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái

niệm tội phạm mà chỉ quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho chế độ
phong kiến là tội phạm và phải chịu hình phạt.
- Mười tội đặc biệt nghiêm trọng (Thập ác) đã được các nhà làm luật thời
kỳ này tách riêng ra và ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm từng tội này mưu phản, mưu đại nghịch, mua bạn, ác nghịch, bất đạo, đại bất kính, bất hiếu,
bất mục, bất nghĩa, nội loạn.
- Dấu hiệu duy nhất bị nhà làm luật coi là Thập ác - tính chất nguy hiểm
cho xã hội không chỉ của hành vi mà cả ý định phạm tội.
- Các nhóm tội phạm:
+ Nhóm Thập tội ác
+ Nhóm tội phạm về chức vụ
+ Nhóm tội phạm đạo tặc
+ Nhóm tội ẩu đả
+ Nhóm tội phạm về tình dục
+ Nhóm tội phạm qn sự
2.3 Vấn đề “lỗi”
- PL thời kì này chưa đưa ra khái niệm khái quát về lỗi mà chỉ đề cập đến
lỗi cố ý và lỗi vô ý.
- Phân biệt trường hợp phạm tội với lỗi vô ý hoặc cố ý theo tinh thần “tha
người lầm lỗi không kể tội nặng, bắt tội người cố ý không kể tội nhẹ”
- Người phạm tội chỉ áp dụng mức phạt mà bộ luật quy định. Điều 683
quy định: trong bản án khi luận tội phải dẫn đúng điều luật nói về tội phạm đó
khơng được thêm bớt.
- Phân biệt TH phạm 1 tội hoặc nhiều tội cùng lúc theo nguyên tắc “tính
gồm tang vật lại mà định tội, cứ theo tội cung phát à xử phạt
2.4 Trách nhiệm hình sự đối với tập thể


- Chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với tập thể khi có các hành vi
phạm tội xâm phạm tới các điều luật từ mưu bạn trở lên (gồm mưu phản, mưu
đại nghịch và mưu bạn)

2.5 Các giai đoạn thực hiện tội phạm
- Luật Hồng Đức khơng có định nghĩa về các giai đoạn thực hiện tội
phạm. Tuy nhiên, bộ luật này có đề cập đến thực tế của các giai đoạn thực hiện
tội phạm. Cụ thể là đối với các tội như mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn,
giết người, tại các điều 411, 412, 416, 417, 418, 419 có quy định về các hành vi
dự mưu, tức là hành động chưa xảy ra.
2.6 Vấn đề đồng phạm
- Pháp luật thời kì này khơng có khái niệm cụ thể mà chỉ có các nguyên
tắc xử lý trong từng điều luật cụ thể
- Phân biệt trách nhiệm hình sự của các loại người đồng phạm trong
trường hợp có đồng phạm mà lượng hình nặng hay nhẹ.
- Luật đã phân biệt 2 loại người trong đồng phạm là người “khởi xướng”
và người “a tịng”. Trong đó “a tịng” được giảm 1 khung hình phạt so với người
“khởi xướng”.
2.7 Nguyên tắc nhân đạo
- Nguyên tắc chiếu cố: người được chiếu cố khi phạm tội được giảm hình
phạt 1 khung.
- Nguyên tắc chuộc tội bằng tiền: lỗi vơ ý và hình phạt lưu trở xuống được
chuộc tội bằng tiền.
- Đặt ra hình phạt đối với phụ nữ và phụ nữa mang thai cũng mang tính
nhân đạo
2.8 Quy định về hệ thống hình phạt
- Loại thứ nhất: Xuy hình [đánh bằng roi], có năm bậc: 10 roi, 20 roi, 30
roi, 40 roi, 50 roi.
- Loại thứ hai: Trượng hình [đánh bằng gậy], có năm bậc: 60 trượng, 70
trượng, 80 trượng, 90 trượng, 100 trượng.
- Loại thứ ba: Đồ hình (đày làm khổ dịch), có ba bậc.
- Loại thứ tư: Lưu hình [đày phát vãng], có ba bậc (chi làm từ châu gần
đến châu xa, có thêm bớt).
- Loại thứ năm: Tử hình [giết chết], có ba bậc (từ giảo trảm đến lăng trì

gồm ba bậc. Giảo với trảm kể là một bậc, khiêu và lăng trì kể riêng là hai bậc, có
thêm bớt).
Ngồi ra cịn 1 số hình phạt phụ: thích chữ vào mặt, gông, xiềng, phạt
tiền, biếm, bãi chức…
2.9 Bản chất pháp luật thời kỳ này


- Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện được đặc trưng văn hóa dân tộc và tính
sáng tạo của nhà làm luật
- Tiếp thu tư tưởng Nho giáo và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc
- Tính giai cấp: mục tiêu hàng dầu là bảo vệ vương quyền, địa vị và quyền
lợi của giai cấp địa chủ phong kiến
- Tính xã hội: xác định trách nhiệm của nhà nước thông qua trách nhiệm
của hệ thống quan lại nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu của người dân trong xã
hội
IV. Pháp luật hình sự thời Nguyễn
- Năm 1885, Vua Gia Long ban hành bộ luật Hoàng triều luật lệ hay
thường gọi là Bộ luật Gia Long
- Bộ luật gồm 398 điều chia làm 22 quyển. Các quy tắc chung về tội phạm
và hình phạt được quy định trong phần Danh lệ.
- Pháp luật hình sự nhà Nguyễn khơng định nghĩa pháp lý của khái niệm
tội phạm, mà chỉ quy định những hành vi nguy hiểm cho chế độ phong kiến, xã
hội là tội phạm và phải chịu hình phạt.
- Một số hành vi vi phạm đạo đức, luân lý như bất hiếu, bất mục, bất
nghĩa, nổi loạn được đặt ngang hàng với các tội xâm phạm an ninh quốc gia như
mưu phản, mưu bạn, mưu đại nghịch…
- Xuy: 5 khung từ 10- 50 roi
- Trượng: 5 khung từ 60 – 100 gậy
- Đồ: phạt tù khổ sai có thời hạn kèm theo đánh bằng trượng
+ Khung 1: đồ 1 năm + 60 trượng

+ Khung 2: đồ 1 năm rưỡi + 70 trượng
+ Khung 3: đồ 2 năm + 80 trượng
+ Khung 4: đồ 2 năm rưỡi + 90 trượng
+ Khung 5: đồ 3 năm + 100 trượng
- Lưu: đi đày chung thân cho phép gia đình đi theo phạm nhân.
- Tử: có 2 khung: giảo (thắt cổ) và trảm (chém)
Nhìn chung, trong các bộ luật phong kiến, qua việc áp dụng các hình phạt
cho thấy, có một số hình phạt thường là hình phạt chính, đó là các hình phạt đồ,
lưu, tử. Cịn các hình phạt khác (như hình phạt xuy, trượng, thích chữ, ...) thì có
thể là hình phạt chính nếu khơng có hình phạt nào khác kèm theo, hoặc có thể là
hình phạt phụ khi mà nó có tính chất bổ sung cho hình phạt đồ, lưu. Như vậy,
các hình phạt trong pháp luật phong kiến có thể được phân loại theo hai cách: hệ
thống hình phạt bao gồm Ngũ hình và các hình phạt khác, hoặc hệ thống hình
phạt có hình phạt chính và hình phạt phụ (hình phạt bổ sung).


Hình phạt trong pháp luật phong kiến thể hiện sự dã man, tàn bạo. Phần
lớn các hình phạt đều gây đau đớn cho thể xác hoặc nhục mạ nhân phẩm người
phạm tội, thậm chí là trừng phạt cả nhiều người vơ tội chỉ vì mối quan hệ gia
đình của họ với phạm nhân.
Nếu như trong pháp luật thời nay, hình phạt là chế tài đặc trưng của luật
hình và chỉ áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội (bị coi là tội phạm),
thì trong pháp luật thời xưa, hình phạt là chế tài được áp dụng phổ biến, đối với
hầu hết các vi phạm pháp luật trong mọi lĩnh vực.
Một điểm khác cũng dễ nhận ra là pháp luật phong kiến thường quy định
tỷ mỉ và cố định mức hình phạt tương thích với các dấu hiệu, các yếu tố của tội
phạm được nêu ra trong các điều luật. Luật hình thời nay thường quy định cho
mỗi loại tội phạm một khung hình phạt mà trong đó có nhiều loại và mức hình
phạt từ nhẹ tới nặng, nhằm để cho thẩm phán dễ lựa chọn hình phạt thích đáng
với mỗi loại tội cụ thể. Xu hướng cố định hóa hình phạt căn cứ vào hành vi, hậu

quả, hoàn cảnh và phương tiện phạm tội; vào địa vị gia đình, xã hội và nhân thân
của người phạm tội trong pháp luật phong kiến Việt Nam tuy có làm cho điều
luật rườm rà, thiểu tính khái quát nhưng lại có ý nghĩa tích cực trong thực tiễn
xét xử. Xu hướng đó góp phần hạn chế tối đa sự tùy tiện và lạm dụng sự sơ hở
của pháp luật trong hoạt động xét xử của quan lại.



×