MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÍNH KHƠNG PHÙ HỢP
CỦA HÀNG HĨA......................................................................2
1.1. Khái niệm và căn cứ về tính khơng phù hợp của hàng
hóa....................................................................................... 2
1.1.1. Khái niệm hàng hóa và tính khơng phù hợp của hành
hóa....................................................................................2
1.1.2. Căn cứ xác định tính khơng phù hợp của hàng hóa..3
2. Hệ quả pháp lý của việc giao hàng hóa khơng phù hợp....3
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNG HĨA KHƠNG PHÙ HỢP................5
2.1. Pháp luật về hàng hóa khơng phù hợp..........................5
2.1.1. Trường hợp giữa bên bán và bên mua có thỏa thuận
.......................................................................................... 5
2.1.2. Trường hợp bên bán và bên mua khơng có thỏa
thuận.................................................................................6
2.1.3. Thời hạn kiểm tra hàng hóa và khiếu nại về hàng
hóa không phù hợp............................................................9
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hàng hóa khơng phù
hợp..................................................................................... 10
2.2.1. Những kết quả đạt được.........................................10
2.2.2. Những khó khăn, bất cập.......................................11
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ LƯU Ý ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM VỀ QUY ĐỊNH HÀNG HÓA KHƠNG PHÙ HỢP..................13
3.1. Kiểm tra tính phù hợp của hàng hóa............................13
3.2. Thơng báo với bên bán về tính khơng phù hợp của hàng
hóa..................................................................................... 13
KẾT LUẬN.............................................................................. 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................16
1
MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang trên đà hội nhập
“
cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, do đó các giao lưu
thương mại diễn ra ngày càng nhiều khơng chỉ trong nước mà
cịn vươn ra nhiều nước trên thế giới. Trong cuộc sống, các
giao dịch thương mại diễn ra rất đa dạng và phổ biến. Thơng
”
qua đó các bên thiết lập quyền sở hữu đối với tài sản, chủ sở
hữu thể hiện được quyền định đoạt tài sản.
Có thể thấy hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp
đồng theo đó một bên sẽ chuyển quyền sở hữu tài sản cho
bên còn lại và bên còn lại có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán.
Thơng qua hợp đồng mua bán hàng hóa một mặt giúp cho
“
doanh nghiệp tự tin phát triển bản thân một mặt giúp tránh
khỏi được những rắc rối mà đối thủ cạnh tranh gây phiền
nhiễu và bảo vệ quyền lợi của chính mình nhằm mục đích tạo
mơi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh, giúp các doanh
nghiệp thuận lợi hơn trong sự phát triển sự nghiệp của mình .
”
Tuy nhiên trên thực tế khơng phải lúc nào cũng thuận lợi mà
sẽ có những khó khăn, bất cập được kể đến như việc giao
“
hàng hóa khơng phù hợp theo hợp đồng này, điều đó đã trực
tiếp gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các ben trong quan hệ
hợp đồng, gây sự mất ổn định đối với nền kinh tế đất nước.
”
Hiểu được tầm quan trọng của chế định này, em đã chọn đề
tài: “Nghiên cứu quy định của CISG và Luật Thương mại
2005 về tính khơng phù hợp của hàng hóa và một số
lưu ý đối với doanh nghiệp Việt Nam”. Qua đây góp làm
rõ các quy định pháp luật liên quan đến chế định này và đưa
2
ra một số lưu ý và giải pháp đối với doanh nghiệp Việt Nam về
vấn đề này.
3
CHƯƠNG 1. KHÁI QT CHUNG VỀ TÍNH KHƠNG PHÙ
HỢP CỦA HÀNG HĨA
1.1. Khái niệm và căn cứ về tính khơng phù hợp của
hàng hóa
1.1.1. Khái niệm hàng hóa và tính khơng phù hợp của
hành hóa
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm
2005, hàng hóa bao gồm: “a) Tất cả các loại động sản, kể cả
động sản hình thành trong tương lai;
b) Những vật gắn liền với đất đai.”
Như vậy có thể thấy luật Thương mại năm 2005 sửa đổi,
bổ sung năm 2019, 2019 khái niệm hàng hóa được mở rộng
“
hơn đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên về
khái niệm hàng hóa có thể khác nhau ở mỗi quốc gia tùy theo
truyền thống văn hóa, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và
nhu cầu giao lưu thương mại với quốc tế nhưng về cơ bản
hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải
là những hàng hóa được phép lưu thơng và có tính lợi nhuận.
Nếu các bên giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng
hóa bị cấm lưu thơng trên thị trường thì hợp đồng mua bán
hàng hóa đó sẽ bị vơ hiệu .
”
Hiện nay pháp luật nước ta chưa đưa ra khái niệm thế nào
là hàng hóa khơng phù hợp, tuy nhiên hiện tại pháp luật quốc
tế (Công ước của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế (CISG)) và Luật Thương mại năm 2005 của Việt
Nam chỉ đưa ra các trường hợp hàng hóa được coi là khơng
phù hợp cụ thể tại Điều Điều 39 Luật Thương mại 2005 và
Khoản 2 Điều 35 Cơng ước CISG. Như vậy nhìn chung có thể
“
4
hiểu hàng hóa khơng phù hợp là hàng hóa khơng đảm bảo
được những tiêu chuẩn, quy cách mà câc bên trong quan hệ
hợp đồng đã thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Theo đó
hành vi giao hàng hóa khơng phù hợp với hợp đồng được hiểu
là việc bên bán giao hàng không đúng với các tiêu chuẩn đã
được thỏa thuận trong hợp đồng hoặc các yêu cầu theo quy
định của pháp luật (trong trường hợp các bên khơng có thỏa
thuận) .
”
1.1.2. Căn cứ xác định tính khơng phù hợp của hàng
hóa
Trong q trình thực hiện hoạt đồng giao lưu thương mại,
các bên trong quan hệ này có thể thống nhất với nhau về các
yếu tố như số lượng, chất lượng, mơ tả và cách thức đóng gói
hàng hóa. Khi có tranh chấp xảy ra, các yếu tố này là căn cứ
để xác định về tính phù hợp hay tính khơng phù hợp của hàng
hóa so với hợp đồng.
Thực tế cho thấy không phải bất kỳ một hợp đồng nào các
chủ thể tham gia đều thỏa thuận được đầy đủ các điều kiện,
“
tiêu chuẩn đối với hàng hóa được đưa ra giao lưu thương mại,
trong trường hợp các bên khơng có bất kỳ thỏa thuận nào, thì
hàng hóa là đối tượng của các quan hệ mua bán dưới sự điều
chỉnh của pháp luật vẫn phải đảm bảo phù hợp với những tiêu
chuẩn cơ bản nhất , cụ thể như:
”
“- Mục đích sử dụng thơng thường
- Mục đích sử dụng cụ thể trong trường hợp bên bán được
biết về mục đích này
- Hàng mẫu mà các bên đã thống nhất
5
- Cách thức đóng gói, bảo quản hàng hóa để bảo vệ hàng
hóa.”1
2. Hệ quả pháp lý của việc giao hàng hóa khơng phù
hợp
“
Có thể thấy khơng phải bất cứ một hợp đồng mua bán
hàng hóa nào cũng sẽ thuận lợi mà việc xảy ra tranh chấp
giữa các bên là điều khó tranh khỏi, đặc biệt qua thực tiễn có
thể thấy vấn đề hàng hóa khơng phù hợp chính là nguyên
nhân chủ yếu để dẫn tới các tranh chấp này. Về cơ bản việc
giao hàng hóa khơng phù hợp của bên bán sẽ khiến cho
quyền lợi của bên mua bị ảnh hưởng, đồng thời qua đó kết
quả của hoạt động giao lưu thương mại khơng đạt được theo ý
chí của các bên tham gia loại hơp đồng này. Theo đây khi
”
phát hiện ra tính khơng phù hợp của hàng hóa bên mua phải
thông báo đến bên bán về sự không phù hợp của hàng hóa
trong một thời gian xác định, quá thời gian này bên mua mất
quyền khiếu nại về những khiếm khuyết, sai sót của hàng
hóa. Ngồi ra, cũng trong một thời hạn nhất định, bên bán
“
được phép bằng chi phí của mình khắc phục sự khơng phù
hợp của hàng hóa mà khơng gây ra bất cứ trở ngại nào cho
bên mua. Chỉ khi bên mua đã hoàn thành nghĩa vụ thông báo
mà bên bán không tiến hành khắc phục thiếu sót của hàng
hóa trong thời hạn quy định, bên mua mới được quyền áp
dụng một hoặc một số các biện pháp xử lý bao gồm: yêu cầu
giao hàng hóa thay thế, yêu cầu sửa chữa hàng hóa, giảm
giá, hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại .
”
Lê Huỳnh Ngọc Linh, (2019), “Hành vi giao hàng hóa khơng phù hợp với hợp đồng
theo
CISG
và
Luật
Thương
mại
Việt
Nam”,
/>1
6
Ngồi ra, có thể thấy đối với hành vi vi phạm mà cụ thể là
giao hàng hóa khơng phù hợp theo yêu cầu, bên bán có thể bị
áp dụng các chế tài xử lý như:
“1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng.
2. Phạt vi phạm
3. Buộc bồi thường thiệt hại.
4. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng.
5. Đình chỉ thực hiện hợp đồng.
6. Hủy bỏ hợp đồng.”2
“
Tuy nhiên để đảm bảo nguyên tắc công bằng của các chủ
thể trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, khi có hành
vi vi phạm về nghĩa vụ giao hàng khơng phù hợp thì bên bán
”
có quyền yêu cầu miễn trách nhiệm đối với sự khơng phù hợp
của hàng hóa này, chẳng hạn sự khơng phù hợp của hàng hóa
“
là do trở ngại khách quan .
”
2
Điều 292 Luật Thương mại năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019
7
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNG HĨA KHƠNG PHÙ HỢP
2.1. Pháp luật về hàng hóa khơng phù hợp
2.1.1. Trường hợp giữa bên bán và bên mua có thỏa
thuận
Có thể thấy “hàng hóa có chất lượng phù hợp” là mục
“
đích mà bên mua mong muốn đạt được khi giao kết hợp đồng
với bên bán. Hay nói cách khác, nghĩa vụ giao hàng phù hợp
với hợp đồng là nghĩa vụ cơ bản của bên bán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa. Do đó, pháp luật thương mại đã ghi nhận
”
sự thỏa thuận của các bên về đặc điểm của hàng hóa. Theo
“
quy định tại Công ước của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế (CISG), các bên có quyền thỏa thuận về
chất lượng của hàng hóa trong hợp đồng (Điều 35), theo đó
các bên sẽ thỏa thuận về các nội dung: Số lượng của hàng
hóa, chất lượng hàng hóa, mơ tả hàng hóa và về bao bì hay
cách đóng gói hàng hóa. Như vậy sự thỏa thuận của các bên
”
“
là yếu tố quan trọng để xác định tính phù hợp của hàng hóa
”
và quyết định sự “thành cơng” của các bên khi tham gia quan
“
hệ mua bán hàng hóa quốc tế. Sự thỏa thuận này luôn được
ưu tiên áp dụng dựa trên ngun tắc tơn trọng sự thiện chí,
thỏa thuận trong hợp đồng .
”
Tại pháp luật Việt Nam, cụ thể tại Luật Thương mại năm
2005 sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019 hiện nay tại Điều 34
Luật này có quy định: “Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo
thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức
đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng”.
Như vậy về bản chất pháp luật Việt Nam có đặt ra yêu cầu đối
“
8
với bên bán là phải đảm bảo tuân thủ các nội dung đã thỏa
thuận trong hợp đồng như số lượng, chất lượng, cách thức
”
bảo quản, đóng gói hàng hóa... Nếu hàng hóa được bên bán
“
giao cho bên mua khơng đúng như những mơ tả trong thỏa
thuận thì được coi là hành vi giao hàng hóa khơng phù hợp
theo sự thỏa thuận của hợp đồng .
”
Như vậy có thể thấy nhìn chung Công ước CISG và Luật
Thương mại 2005 quy định về tính phù hợp của hàng hóa là
khá thống nhất với nhau, theo đó thỏa thuận của các bên đã
“
trở thành một căn cứ, tiêu chuẩn quan trọng để xem xét mức
độ phù hợp hay không phù hợp của hàng hóa được giao, từ đó
đánh giá mức độ hồn thành nghĩa vụ của bên bán. Về cơ bản
”
thỏa thuận giữa các bên là ưu tiên hàng đầu, do đó khi có
tranh chấp về tính khơng phù hợp của hàng hóa xảy ra thì cơ
quan gải quyết tranh chấp sẽ căn cứ theo hợp đồng mà các
bên đã thỏa thuận để giải quyết tranh chấp một cách có hiệu
quả nhất.
2.1.2. Trường hợp bên bán và bên mua khơng có thỏa
thuận
“
Bên cạnh sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng,
hàng hóa không phù hợp trên thực tế được xác định là đối
tượng của các quan hệ mua bán dưới sự điều chỉnh của pháp
luật. Hiện nay Công cả Công ước CISG và Luật Thương mại
”
2005 đều chưa đưa ra được khái niệm cụ thể thế nào là hàng
hóa khơng phù hợp mà sẽ đưa ra các trường hợp cụ thể như
sau:
Công ước của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế
9
Tại Điều 35 Cơng ước có đưa ra các trường hợp hàng hóa
được coi là khơng phù hợp bao gồm:
Thứ nhất, “hàng hóa khơng thích hợp cho các mục đích
sử dụng mà các hàng hóa cùng loại vẫn thường đáp ứng”
“
Theo quy định này, việc xác định mục đích sử dụng được
hiểu có thể là khả năng mua đi bán lại của hàng hóa trong
điều kiện thương mại bình thường, đồng thời quy định này
cũng không đồng nghĩa với việc bắt buộc hàng hóa phải hồn
hảo, trừ khi sự hồn hảo đó là yêu cầu bắt buộc để hướng đến
mục đích sử dụng của loại hàng hóa đó và việc xác định về
tính phù hợp của hàng hóa dựa trên tình hình thực tế về nhu
cầu của hai bên trong quan hệ mua bán hàng hóa .
”
Thứ hai, “hàng khơng thích hợp cho bất kỳ mục đích cụ
thể nào mà người bán đã trực tiếp hoặc gián tiếp biết được
vào lúc ký hợp đồng, trừ trường hợp nếu căn cứ vào các hồn
cảnh cụ thể có thể thấy rằng khơng dựa vào ý kiến hay sự
phán đoán của người bán hoặc nếu đối với họ làm như thế là
không hợp lý.”
Quy định này có nghĩa là hàng hóa bị xem là khơng phù
hợp nếu hàng hóa khơng phù hợp với mục đích sử dụng cụ
thể của bên mua, theo đó bên mua có tách nhiệm phải thơng
báo cho bên bán về mục đích sử dụng hnagf hóa, tuy nhiên
“
trong một vài trường hợp viẹc bên mua không rõ ràng về mục
đích sử dụng của hàng hóa dẫn tới việc bên bán sẽ giao hàng
theo ý chí chủ quan, do đó có thể dẫn đến việc giao hàng
khơng phù hợp .
”
Thứ ba, “Hàng khơng có các tính chất của hàng mẫu
hoặc kiểu dáng mà người bán đã cung cấp cho người mua”
10
Để kiểm tra sự phù hợp giữa hàng hóa được giao và hàng
mẫu, bên mua cần thiết lập sự kiểm tra, giám định trước khi
nhận hàng cũng như đưa ra yêu cầu bên bán bồi thường thiệt
hại khi hàng được giao không phù hợp với hàng mẫu.
Thứ tư, “Hàng không được đóng phong bì theo cách
thơng thường cho những hàng cùng loại hoặc, nếu khơng có
cách thơng thường, thì bằng cách thích hợp để giữ gìn và bảo
vệ hàng hố đó”
Quy định này có thể hiểu là tương ứng với mỗi một loại
hàng hóa sẽ có những tiêu chuẩn, quy cách đóng hàng riêng,
qua đó sẽ góp phần bảo vệ được chất lượng, số lượng của
“
hàng hóa khi đến tay người mua, do đó hàng hóa khơng đáp
ứng được điều kiện này mà gây ra hư họng, hao mịn thì có
thể thuộc vào tính khơng phù hợp của hàng hóa, do đó bên
bán sẽ phải chịu những chế tài và biện pháp nhất định .
”
Luật Thương mại 2005
Tại Điều 39 Luật Thương mại 2005 sửa đổi, bổ sung năm
2017, 2019 đưa ra 04 trường hợp hàng hóa được coi là không
phù hợp bao gồm:
Thứ nhất, “Không phù hợp với mục đích sử dụng thơng
thường của các hàng hóa cùng chủng loại”
Hàng hóa “khơng phù hợp với mục đích sử dụng thơng
thường của các hàng hóa cùng chủng loại” được hiểu là hàng
hóa đó khơng đạt được một mức quy chuẩn nhất định về chất
lượng, mẫu mã, đặc tính... có thể mua bán trong thương mại.
Do đó sau khi trải qua hoạt động mua bán hàng hóa giữa bên
“
bán và bên mua thì hàng hóa lại bị khiếm khuyết đến mức
11
không thể bán lại hoặc bán với mức giá bị giảm so với hợp
đồng và hàng hóa cùng chủng loại .
”
Thứ hai, “Khơng phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào
mà bên mua đã cho bên bán biết hoặc bên bán phải biết vào
thời điểm giao kết hợp đồng”
Trong q trình mua bán hàng hóa, bên mua có nghĩa vụ
thông báo cho bên bán về mục đich sử dụng của hàng hóa đó,
tuy nhiên một vài trường hợp hàng hóa được xác định là
“
khơng phù hợp bởi bên mua khơng thơng báo cơng khai về
mục đích này mà bên bán không biết hoặc thuộc trường hợp
phải biết dẫn tới việc bên bán giao hàng hóa khơng phù hợp .
”
Thứ ba, “Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của
mẫu hàng hóa mà bên bán đã giao cho bên mua”
“
Hàng mẫu được hiểu là những sản phẩm mà bên bán
dùng để cơng khai chất lượng hàng hóa với bên mua, do đó
hàng mẫu chính là cơ sở để so sánh với hàng hóa mà bên bán
đã giao cho bên mua cũng như là yếu tố vô cùng quan trọng
trong quá giải quyết tranh chấp . Tuy nhiên nếu bên bán và
”
bên mua có thỏa thuận về chất lượng của hàng hóa được giao
“
mà khơng đúng hồn tồn như hàng mẫu thì bên bán sẽ
khơng phải chịu trách nhiệm trong trường hợp hàng hóa
”
khơng phù hợp. Bên cạnh đó việc xác định hàng hóa được
giao với hàng mẫu cũng cần căn cứ vào giá cả của hàng hóa
với các mặt hàng tương tự trên trị trường.
Thứ tư, “Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức
thơng thường đối với loại hàng hóa đó hoặc khơng theo cách
thức thích hợp để bảo quản hàng hóa trong trường hợp khơng
có cách thức bảo quản thông thường”
12
“Trên thực tế, cách thức bảo quản thông thường được xác
định bởi nhiều yếu tố khác nhau như đặc tính hàng hóa; cách
thức - thời hạn vận chuyển, khí hậu; tập quán thương mại,...
Theo pháp luật hiện hành, trong trường hợp nếu bao bì đóng
gói hàng hóa khơng phù hợp nhưng hàng hóa vẫn được bản
quản, khơng hư hỏng thì bên bán sẽ không vi phạm nghĩa vụ
trên nếu mục đích duy nhất của việc đóng gói, bao bì là để
bảo quản hàng hóa. Mặt khác, nếu bao bì, đóng gói là một
phần khơng thể tách rời của hàng hóa thì đó vẫn được xem là
vi phạm nghĩa vụ.”3
Như vậy từ những phân tích trên có thể thấy về cơ bản
Công ước của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế CISG và Luật thương mại hiện hành về những trường
hợp hàng hóa được coi là khơng phù hợp trong trường hợp các
bên khơng có thỏa thuận khá tương đồng với nhau. Tính phù
“
hợp của hàng hóa trong hợp đồng là cơ sở để bên mua có thể
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bên bán khơng
giao hàng hóa phù hợp, chính vì vậy tác giả cho rằng việc xác
”
định trách nhiệm của các bên trong trươngg hợp hàng hóa
khơng phù hợp cần xét trên 02 phương diện trách hiệm bao
“
gồm: Bên bán có nghĩa vụ kiểm tra hàng hóa trước khi giao
hàng; bên mua có nghĩa vụ thơng báo về tính khơng phù hợp
của hàng hóa cho bên bán .
”
2.1.3. Thời hạn kiểm tra hàng hóa và khiếu nại về hàng
hóa khơng phù hợp
“Theo Luật Thương mại 2005, thời hạn khiếu nại là 3
tháng đối với khiếu nại về số lượng, 6 tháng đối với khiếu nại
“Hàng hóa khơng phù hợp với hợp đồng mua bán”, />3
13
về phẩm chất, tính từ ngày giao hàng. CISG quy định thời hạn
này tối đa có thể là 2 năm kể từ ngày giao hàng. Sự khác biệt
này giữa Luật Thương mại 2005 và CISG là hồn tồn có thể
lý giải được do Luật Thương mại 2005 được soạn thảo để áp
dụng cho hợp đồng trong nước, còn CISG được áp dụng cho
hợp đồng mua bán quốc tế (được suy đoán là thường phức tạp
hơn về kỹ thuật cũng như về các quy định pháp lý tương
ứng).”4
Về việc kiểm tra hàng hóa, căn cứ theo Điều 38 CISG phải
“được người mua thực hiện trong thời hạn ngắn nhất mà hoàn
cảnh thực tế cho phép” và theo quy định tại Điều 39 CISG
“nếu phát hiện sự không phù hợp của hàng hóa thì phải thơng
báo về sự khơng phù hợp đó trong thời hạn hợp lý sau khi
phát hiện hoặc phải phát hiện ra sự khơng phù hợp đó”. Hiện
tại pháp luật Thương mại Việt Nam khơng có quy định với thời
hạn này.
Tuy nhiên trên thực tế có thể thấy việc xac định “Thời hạn
hợp lý” và “thời hạn ngắn nhất mà hồn cảnh thực tế cho
phép” là khá khó khăn, do đó hiện nay việc xác định tiêu chí
“
này thường dựa trên những án lệ trước đó và dựa trên tình
hình thực tế như loại hàng hóa, mức độ phức tạp của hàng
hóa, kinh nghiệm của người mua,... Trên thực tế hiện nay án lệ
”
áp dụng của CISG cho thấy một số thời hạn đặt ra như: “một
tháng sau ngày giao hàng; hai tuần sau ngày giao hàng đầu
tiên được thỏa thuận trong hợp đồng; một tuần sau ngày giao
hàng; một vài ngày sau khi giao hàng tại cảng đến; ba ngày
sau khi hàng được giao cho người mua...Thời hạn hợp lý để
PGS. TS. Nguyễn Minh Hằng, (2018), “Khác biệt giữa CISG và Luật Thương mại”, Tạp
chí Diễn đàn Doanh nghiệp tháng 02/2018
4
14
thơng báo sự khơng phù hợp của hàng hóa được xác định tùy
vào từng tình huống cụ thể. Thời hạn này có thể là 1 ngày, 1
tuần hoặc 1 tháng, tùy thuộc vào tình tiết vụ việc, tính chất
hàng hóa...”5
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hàng hóa khơng
phù hợp
2.2.1. Những kết quả đạt được
Tư những phân tích quy định pháp luật về tính khơng phù
hợp của hàng hóa theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về Hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế CISG và pháp luật Việt Nam,
cụ thể là Luật Thương mại năm 2005 có thể thấy hai văn bản
“
này tuy khác biệt nhau về câu chữ nhưng đều quy định giống
nhau về tính phù hợp của hàng hóa trong hợp đồng. Trước hết
cần phải tơn trọng thỏa thuận giữa các bên về tính phù hợp
hàng hóa, nếu các bên khơng có thỏa thuận hoặc thỏa thuận
khơng đầy đủ thì cả Cơng ước CISG và Luật Thương mại năm
2005 đều xem xét bốn yếu tố bổ sung nhằm xác định tính
”
phù hợp hay khơng phù hợp của hàng hóa đó là: “mục đích sử
dụng thơng thường; mục đích sử dụng cụ thể; phù hợp với
hàng mẫu; đóng gói bảo quản.”
Như vậy về cơ bản việc quy định cụ thể các trường hợp
“
hàng hóa được coi là không phù hợp không chỉ giúp các bên
xác định được sự vi phạm của mình cũng như của bên tham
gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với mình mà cịn là
căn cứ để qua đó cơ quan giải quyết tranh chấp thương mại
không chỉ hợp đồng trong nước mà còn áp dụng cả các hợp
Lê Huỳnh Ngọc Linh, (2019), “Hành vi giao hàng hóa khơng phù hợp với hợp đồng
theo
CISG
và
Luật
Thương
mại
Việt
Nam”,
/>5
15
đồng có yếu tố nước ngồi sẽ dựa vào đó để giải quyết các
tranh chấp trên thực tế một cách hiệu quả và triệt để nhằm
”
đảm bảo quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ mua bán
hàng hóa, đồng thời góp phần xây dựng một thị trường phát
triển lành mạnh.
2.2.2. Những khó khăn, bất cập
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì pháp luật về tính
khơng phù hợp của hàng hóa, cụ thể tại Cơng ước CISG và
Luật Thương mại năm 2005 gặp một số khó khăn, bất cập kể
đến như sau:
Thứ nhất, về trách nhiệm bên bán phải biết mục đích sử
dụng hàng hóa của bên mua
Theo quy định của Công ước CISG và Luật Thương mại
năm 2005, đối với trường hợp thứ hai của quy định về hàng
hóa khơng phù hợp, theo đó khi bên mua khơng cung cấp đầy
đủ thơng tin về mục đích sử dụng của hàng hóa hoặc cung
“
cấp những với ẩn ý, buộc bên bán phải biết được mục đích
của bên mua là gì. Như vậy có thể thấy đây là một điểm bất
cập mà pháp luật chưa đề cập đến cũng như chưa có cách
hiểu thống nhất khi có tranh chấp phát sinh trong trường hợp
này, tuy nhiên việc bên bán không biết được mục đích sử
dụng chính xác của bên mua dẫn tới việc giao hàng không
phù hợp và phải chịu trách nhiệm đã thể hiện tính thiếu cơng
bằng, chưa đảm bảo được quyền lợi của tất cả cac chủ thể
tham gia quan hệ này .
”
Thứ hai, đối với quy định về “thời hạn ngắn nhất mà
hoàn cảnh thực tế cho phép” và “thời hạn hợp lý”. Hiện nay
CISG không đưa ra tiêu chí xác định thế nào là “thời hạn ngắn
16
nhất mà hồn cảnh thực tế cho phép”, do đó việc xác định
“
thời hạn để kiểm tra hàng hóa theo văn bản này hiện nay chỉ
được xác định tùy thuộc vào từng tình huống cụ thể . Bên
”
cạnh đó “thời hạn hợp lý” cũng là một tiêu chí chưa được
“
hướng dẫn một cách rõ rang, do đó khiến cho quyền và lợi ích
của các chủ thể trong quan hệ mua bán hàng hóa bị ảnh
hưởng, chủ yếu là việc quyền lợi của bên bị xâm phạm không
được bảo đảm kịp thời kịp thời. Chính vì vậy thực tế hiện nay
”
để thực thi quy định này, cơ quan có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp sẽ áp dụng dựa trên những án lệ trước đó kết hợp
“
với tình hình thực tiễn những về cơ bản pháp luật trong thời
gian tới cần phải hướng dẫn cụ thể về cách xác định thời hạn
này nhằm bảo đảm được quyền lợi của các chủ thể một cách
thống nhất .
”
Thứ ba, đối với quyèn khắc phục hàng hóa khơng phù
“
hợp của bên bán được quy định tại Điều 41 Luật thương mại
có quy định về việc giao thiếu hàng, tuy nhiên tác giả cho
rằng đây là một trường hợp hàng hóa khơng phù hợp trong
trường hợp khơng đầy đủ số lượng, do đó pháp luật chỉ cần
”
gộp thành “Quyền khắc phục sự không phù hợp của hàng
hóa”, tuy nhiên cần bổ sung về quyền này kể cả sau thời gian
“
giao hàng bởi lẽ pháp luật hiện hành chỉ quy định về trước khi
giao hàng tại Khoản 1, Điều 41 do đó đã khơng đảm bảo được
quyền lợi của bên bán đặc biệt là giai đoạn sau khi giao hàng.
”
Chính vì vậy thời gian tới pháp luật thương mại nước ta cần bổ
sung quy định này và cũng cần xây dựng dựa trên những nội
dung quy định tại Công ước CISG.
17
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ LƯU Ý ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM VỀ QUY ĐỊNH HÀNG HĨA KHƠNG PHÙ HỢP
3.1. Kiểm tra tính phù hợp của hàng hóa
“
Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán
hàng hóa cho thấy khi phát hiện ra hàng hóa khơng phù hợp,
bên mua có quyền từ chối thanh tốn số hàng đó hoặc buộc
bên bán phải thực hiện các biện pháp bồi thường, giảm giá
hàng hóa...Tuy nhiên để được hưởng quyền này, bên mua sẽ
thực hiện hoạt động kiểm tra hàng hóa, theo đó doanh nghiệp
”
Việt Nam sẽ cần lưu ý:
Thứ nhất, với tư cách là bên bán hàng hóa, doanh
“
nghiệp cần phải chú ý yêu cầu bên mua hàng tiến hành kiểm
tra hàng hóa trong thời hạn ngắn nhất có thể nhằm tránh
những tranh chấp do hàng hóa bị biến đổi phẩm chất khi kiểm
tra chậm trễ.
”
Thứ hai, với tư cách là bên mua hàng, doanh nghiệp cần
“
phải thực hiện kiểm tra hàng hóa ngay sau khi nhận hàng để
có thể đảm bảo quyền lợi của mình, nhất là đốiv ới những mặt
hàng nơng sản, thủy sản. Bên cạnh đó, trong thời gian bên
bán giao hàng cho bên vận chuyển thì bên mua cần kiểm tra
hàng hóa để đảm bảo chất lượng của hàng hóa đó, nếu khơng
thực hiện cơng việc này mà hàng hóa sau khi được chuyển
đến tay doanh nghiệp thì có thể nếu có sự khơng phù hợp thì
doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm .
”
Thứ ba, thực tế cho thấy trong quá trình giao kết hợp
đồng doanh nghiệp và đối tác cần chú ý thỏa thuận về thời
hạn kiểm tra hàng hóa, theo đó có thể quy định thời hạn kiểm
“
tra và khiếu nại là 01 tháng kể từ ngày nhận hàng. Đối với
18
hàng thủy sản hay nơng sản có thể là 10 ngày hay 2 tuần kể
từ ngày nhận hàng, từ đó về cơ bản sẽ hạn chế sự phát sinh
”
tranh chấp giữa các bên trong quan hệ hợp đồng.
3.2. Thông báo với bên bán về tính khơng phù hợp của
hàng hóa
Bên cạnh hoạt động kiểm tra tính phù hợp của hàng hóa,
doanh nghiệp cần lưu ý về vấn đề liên quan tới việc thông báo
với bên bán về sự không phù hợp của hàng hóa. Ðiều 39 CISG
quy định, người mua có thể bị mất quyền khiếu nại về việc
hàng hóa không phù hợp với hợp đồng nếu người mua không
thông báo cho người bán thơng tin về hàng hóa khơng phù
hợp, do đó bên mua cần phải chú ý tới thời hạn này để được
“
đảm bảo quyền lợi của mình .
”
Hiện nay có thể thấy tại Luật Thương mại 2005, “thời hạn
khiếu nại là 3 tháng đối với khiếu nại về số lượng, 6 tháng đối
với khiếu nại về phẩm chất, tính từ ngày giao hàng”. CISG quy
định thời hạn này “tối đa có thể là 2 năm kể từ ngày giao
hàng”. Như vậy việc áp dụng một trong hai văn bản này được
xác định là Luật Thương mại 2005 được soạn thảo để áp dụng
“
cho hợp đồng trong nước, còn CISG 1980 được áp dụng cho
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bởi tính chất phức tạp
và thời gian cũng như quãng đường vận chuyển dài hơn . Do
”
đó từ phân tích này có thể thấy với tư cách là bên mua, doanh
“
nghiệp cần lưu ý về trách nhiệm thơng báo cho bên bán về
tính khơng phù hợp của hàng hóa khi phát hiện hàng hóa từ
bên bán không đúng như thỏa thuận ban đầu để bên mua vừa
có thể hưởng được quyền giảm giá thanh tốn vừa giảm thiểu
được thiệt hại có thể xảy ra , bên cạnh đó thơng qua hoạt
”