Tên đề bài: “Các yếu tố tác động trong công tác phối hợp giữa cơ
quan THADS với Ban Chỉ đạo THADS các cấp đến hiệu quả công tác
THADS. Định hướng về công tác phối hợp với Ban Chỉ đạo THADS các
cấp trong THADS đến năm 2030, năm 2045”
(THADS: Thi hành án dân sự)
Dàn ý:
1. CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN HIỆU QUẢ THADS TRONG CÔNG TÁC PHỐI HỢP VỚI BAN
CHỈ ĐẠO THADS CÁC CẤP
Thi hành án dân sự là quá trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự của
các đương sụ đã được xác định trong bản án, quyết định được đưa ra thi hành.
Theo quy định pháp luật, các cơ quan có liên quan trong hoạt động thi hành án
dân sự bao gồm:
* Cơ quan Thi hành án Dân sự:
Cơ quan thi hành án dân sự là Cơ quan nhà nước có chức năng tổ chức
việc thi hành án dân sự. Các cơ quan thi hành án gồm có cơ quan thi hành án
“
cấp tỉnh, quận, huyện thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Ngoài ra Ủy ban nhân dân
”
cấp xã cũng tham gia thi hành án dân sự đối với những vụ việc được thi hành
án cấp huyện giao.
Theo Điều 13 Luật Thi hành án dân sự hiện hành, hệ thống tổ chức thi
hành án dân sự bao gồm Cơ quan quản lý thi hành án dân sự và Cơ quan thi
hành án dân sự:
“1. Cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp; Bộ Quốc
phòng
2. Cơ quan thi hành án dân sự:
a) Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cơ
quan thi hành án dân sự cấp tỉnh);
b) Cơ quan thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện);
2
c) Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương (cơ quan thi hành án
cấp quân khu).”
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Thi hành án Dân sự cấp tỉnh, cấp
quân khu, cấp huyện được quy định cụ thể tại Đièu 14, 15, 16 Luật Thi hành án
Dân sự hiện hành. Theo đó các nhiệm vụ, quyền hạn chung của cơ quan này
được thể hiện như sau:
- Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện, cấp tỉnh trực tiếp tổ chức thi hành
các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 35 của Luật thi hành án dân sự
bao gồm:
“+ Trực tiếp thi hành bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cùng cấp nơi
cơ quan thi hành án dân sự có trụ sở;
+ Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương nơi cơ quan thi hành
án dân sự cấp huyện có trụ sở (Cơ quan THADS cấp huyện); Bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân cấp cao (Cơ quan THADS cấp tỉnh);
+ Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của TAND cấp cao đối với bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương nơi cơ quan thi hành án dân sự có trụ sở (cơ quan
cấp huyện) ; Quyết định của TAND tối cao chuyển giao cho cơ quan thi hành
án dân sự cấp tỉnh;
+ Thi hành bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện
nơi khác, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh hoặc cơ quan thi hành án cấp
quân khu ủy thác;
+ ....”1
Bên cạnh đó tùy từng cấp khác nhau mà cơ quan THADS thực hiện các
chức năng, nhiẹm vụ khác nhau như tại cơ quan THADS cấp huyện:
“- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền;
1
Điều 35 Luật Thi hành án Dân sự
3
- Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất,... theo sự hướng dẫn chỉ
đạo từ cấp tỉnh;
- Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động THA;
- Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ THADS;
- Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 174 Luật THADS hiện hành.”2
Đốiv ới cơ quan THADS cấp tỉnh:
- Quản lý, chỉ đạo về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương;
- Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự hay kết
hợp với cơ quan công an trong hoạt động THA hình sự;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS thuộc thẩm quyền;
- Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất,... theo sự hướng dẫn chỉ
đạo từ cơ quan thuộc Bộ Tư pháp;
- Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện trách nhiệm, quyền hạn theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 của Luật này;
- Báo cáo công tác hoạt động về THADS với HĐND, UBND cùng cấp và
với Tòa án về kết quả thi hành bản ans khi có yêu cầu”3
* Ban chỉ đạo Thi hành án Dân sự:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Thi hành án dân sự thì trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp, Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo thi hành án
dân sự để chỉ đạo đối với các việc thi hành án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến
an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều
ngành, nhiều địa phương. Đói với hoạt động, chế độ làm việc, vai trò, chức
năng của bộ phận này được quy định tại Thông tư liên tịch số
05/2016/TTLT/BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 19/5/2016 của Bộ
2
3
Điều 16 Luật Thi hành án Dân sự
Điều 14 Luật Thi hành án Dân sự
4
Tư pháp, Bộ Cơng an, Bộ Tài chính, Tồ án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Theo đó:
Tại Điều 5 Thơng ty này Ban chỉ đạo có vai trị: “Tham mưu cho Chủ tịch
UBND cùng cấp chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong
thi hành án dân sự trên địa bàn; giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó
khăn phát sinh trong việc phối hợp; chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành
các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã
hội ở địa phương.”
Căn cứ theo Điều 6 Thông tư này, Ban chỉ đạo thực hiện các công việc
như: “Xây dựng dự thảo chương trình, kế hoạch liên quan đến quá trình
THADS; Tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch; Chỉ đạo việc tổ chức phối
hợp các cơ quan, tổ chức với cơ quan THADS trong việc tổ chức cưỡng chế; đề
xuất những giải pháp kịp thời khi cótranh chấp...”4
Quan hệ cơng tác giữa Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự và cơ quan thi
hành án dân sự được quy định tại khoản 2 Điều 10 Thông tư liên tịch số
05/2016/TTLT/BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 19/5/2016 nêu
trên. Theo đó Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự kịp thời tổ chức cuộc họp để bàn
biện pháp chỉ đạo việc tổ chức phối hợp và tổ chức cưỡng chế thi hành án dân
sự theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp. Cơ quan
thi hành án dân sự chủ động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn giúp Ủy ban nhân
dân cùng cấp trong chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan
trong thi hành án dân sự trên địa bàn và chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi
hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an tồn
xã hội ở địa phương theo quy định tại khoản 6 Điều 14 và khoản 6 Điều 16
Luật Thi hành án dân sự; trường hợp có khó khăn, vướng mắc trong việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn thì kịp thời báo cáo Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự
cùng cấp để tham mưu giúp Ủy ban nhân dân chỉ đạo giải quyết. Ban Chỉ đạo
4
Điều 6 Thông tư liên tịch số 05/2016/TTLT/BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC
5
thi hành án dân sự báo cáo Ủy ban nhân dân cùng cấp theo từng vụ việc cưỡng
chế thi hành án dân sự.
Như vậy tác giả đưa ra một số yếu tố tác động đến hiệu quả THADS trong
công tác phối hợp của cơ quan THADS với Ban chỉ đạo THADS các cấp bao
gồm:
Thứ nhất, sự đồng bộ và phù hợp giữa pháp luật THADS với pháp luật
“
khác
”
“
Có thể thấy nhờ có sự phù hợp và đồng bộ giữa các quy định của pháp
luật THADS và các pháp luật chuyên ngành khác, quá trình tổ chức thi hành
các bản án, quyết định của Tịa án diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, chính xác,
đúng với các quy định pháp luật từ khâu tiếp nhận đơn yêu cầu Thi hành án đến
quá trình xác minh, đơn đốc tổ chức thi hành, miễn giảm nghĩa vụ và cuối cùng
là kết thúc thi hành án . Từ thực tiễn có thể hiểu nếu bản án, quyết định có hiệu
”
lực mà chỉ nằm trên giấy mà khơng được thực thi thì khơng những pháp luật
khơng được bảo đảm mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thông cơ quan tư pháp,
“
gây bức xúc cho đương sự, dẫn tới việc tranh chấp phát sinh và việc giải quyết
tranh chấp khơng triệt để .
”
Về cơ bản tính đồng nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan có vai trị
vơ cùng quan trọng, có sự chênh nhau giữa Luật thi hành án và những Luật
chuyên ngành khác, thì Bản án, quyết định của Tịa án rất khó thi hành hoặc
thậm chí khơng thể thi hành trên thực tế. Từ đây sẽ kéo theo hậu quả là việc
giải quyết các tranh chấp không được triệt để, kết quả thi hành án đạt thấp, số
lượng việc tồn đọng từ năm này sang năm khác ngày càng nhiều, ảnh hưởng tới
quyền và lợi ích hợp pháp của khơng chỉ các cá nhân, tổ chức mà cịn xâm
phạm đến lợi ích nhà nước. Và nếu tình trạng đó kéo dài, chắc chắn sẽ làm
giảm niềm tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật và sự quản
lý của nhà nước, xa hơn thậm chí có thể làm mất trật tự an ninh xã hội.
Thứ hai, Nguồn nhân lực thực hiện công tác THADS
6
“
Có thể thấy được, đây là một bộ phận có vai trị tiên quyết trong việc thực
hiện cơng tác THADS, qua đây họ đóng vai trị quyết định trong việc thúc đẩy
hoặc kìm hãm hoạt động thi hành án dân sự, đặc biệt là đội ngũ Chấp hành
viên, thư ký thi hành án. Bộ phận này trên thực tế thực hiện các công việc như:
ra quyết định thi hành án; xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người
phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài
liệu; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án; yêu cầu cơ
quan công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của pháp
luật; lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án... Chính bởi do
”
vai trị của bộ phận này quan trọng như vậy nên cần quan tâm hơn về yếu tố
này, một đội ngũ làm việc có chất lượng sẽ mang lại kết quả thi hành án đạt
được nhiều thành tựu đáng kể.
Thứ ba, sự phối hợp của các cấp chính quyền đối với cơng tác THADS
Công tác THADS không phải là nhiệm vụ của riêng một cá nhân, tổ chức
hay một cơ quan chuyên biệt mà đặc biệt cần có sự phối hợp của các cấp chính
quyền địa phương. Do đó khi có sự phối hợp tích cực của các ban ngành đồn
“
thể, chính quyền, các cấp trong công tác THADS từ tỉnh đến huyện, việc xác
minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; xử lý vật chứng,
tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án sẽ đạt được hiệu quả và
giảm thiểu đáng kể thời gian cũng như cơng sức trong q trình thực hiện của
Chấp hành viên. Ngược lại, nếu thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan, chính
quyền các cấp trong cơng tác THADS thì hiệu quả của của hoạt động THADS
sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực .
”
Thứ tư, chất lượng của Bản án, quyết định của Tịa án
“
Nhìn chung việc THA có được thực hiện một cách hiệu quả hay khơng
phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của một Bản án hay quyết định có hiệu lực
của Tịa án. Trên thực tế để đưa ra một bản án hay quyết định cơng bằng, đúng
pháp luật thì bên cạnh những u cầu như phải xét xử đúng người, đúng tội,
tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật, đòi hỏi Thẩm phán phải cân
7
nhắc đến khả năng chấp hành của đương sự để quyết định những nghĩa vụ đối
với họ, bởi trên thực tế nếu hình phạt đưa ra quá xa vời với khả năng của người
bị THA thì có lẽ kết quả của công tác THA lại không đạt được hiệu quả. Chính
vì vậy sẽ gây mất sẽ dẫn đến việc cùng một vụ việc nhưng phải giỉa quyết
nhiều lần, gây mất thời gian, chi phí của đương sự .
”
Thứ năm, tính phức tạp của vụ việc
Tính phức tạp của vụ việc là một yếu tố rất quan trọng đối với quá trình
“
thực hiện cơng tác THA bởi lẽ thực tiễn cho thấy đối với những vụ việc có tính
chất đơn gian thì việc tổ chức THA diẽn ra nhanh chóng, triệt để cịn đối với
những vụ việc phức tạp, có nhiều đối tượng phải thực hiện THA hay số tiền
THA lớn thì sẽ gây rất nhiều khó khăn cho cơ quan thi hành án và Chấp hành
viên trong quá trình tổ chức thi hành. Có những vụ việc do tính chất phức tạp
nhiều nên đã bị tồn đọng nhiều năm, điều này đã gây nên việc chưa đảm bảo
được kịp thời quyền và nghĩa vụ của đương sự .
”
Thứ sáu, cơ chế quản lý thông tin về thu nhập và tài sản của người bị thi
hành án
“
Việc quản lý và nắm bắt thông tin về thu nhập và tài sản của người bị thi
hành án là một nhiệm vụ cần thiết, qua đó chấp hành viên sẽ căn cứ vào những
điều kiện này để áp dụng mức THA phù hợp nhất đối với đối tượng bị THA.
Hiện nay pháp luật có quy định về người bị THA có nghĩa vụ phải cung cấp
thông tin về cac điều kiện này những trên thực tế quy định này chưa được thực
thi một cách hiệu quả, các đối tượng có hành vi trốn tránh, tẩu tán tài sản.
Nhiều trường hợp Chấp hành viên mặc dù biết người THA có tài sản nhưng
đành bất lực vì thực tiễn chưa có cơ quan, tổ chức nào thực hiện chức năng
theo dõi, quản lý tài sản, thu nhập của họ, đặc biệt là những người làm công
việc tự do, rất khó hoặc thậm chí là khơng thể xác định chính xác thu nhập
hàng tháng hoặc thu nhập theo năm của nhóm đối tượng này, do đó nhiều
trường hợp cơ quan THA phải trả lại đơn yêu cầu THA với lý do là người bị
THA khơng có đủ khả năng để thực hiện cơng tác này. Chính vì vậy tác giả cho
8
rằng cần phải xây dựng một cơ chế quản lý thơng tin về thu nhập của người bị
THA, từ đó giúp cho việc giải quyết một vụ việc được triệt để hơn .
”
Thứ bảy, Ý thức pháp luật của người dân
Ý thức pháp luật của người dân cũng là yếu tố tác động đến công tác
THADS. Ý thức pháp luật thể hiện nhận thức, thái độ, tình cảm của cá nhân đối
với pháp luật, quyết định hành vi của cá nhân là hợp pháp hay khơng hợp pháp.
Người có ý thức pháp luật cao là người luôn biết điều chỉnh hành vi của mình
phù hợp với yêu cầu của pháp luật, có niềm tin đối với pháp luật và cơng lý.
Chính vì lẽ đó nâng cao ý thực pháp luật của người dân là một biện pháp phòng
ngừa, từ đây không chỉ công tác THADS được thực hiện một cách hiệu quả mà
bên cạnh đó ý thức pháp luật nâng cao kéo theo đó là các tranh chấp cũng diễn
ra hạn chế hơn.
Từ những phân tích trên đây, căn cứ theo những yếu tố tác động đến hiệu
quả THADS trong công tác phối hợp giữa ban chỉ đạo Thi hành án Dân sự các
cấp, tác giả cho rằng những yếu tố quyết định, tác động trực tiếp tới công tác
này được kể đến như năng lực, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên
quan tới hoạt động thi hành án Dân sự tại một địa phương cụ thể. Thông qua
hoạt động phối hợp giữa các cơ quan này có thể thấy, để đạt được hiệu quả cao
trong cơng tác thi hành án, nếu chỉ ở dạng bản án hay quyết định của Tòa án
mà chưa được đưa ra thực thi thì về bản chất chất lượng của hoạt động giải
quyết tranh chấp chưa thật sự được triệt để. Bên cạnh đó khi các bản án, quyết
định này có hiệu lực thi hành nhưng người phải thực hiện thi hành án lại không
thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình cũng sẽ dẫn tới việc quyền và lợi ích
của chủ thể bị xâm phạm không được bảo đảm một cách đầy đủ, kịp thời. Do
đó cần thiết phải có sự tham gia cưỡng chế thi hành đối với hoạt động này bởi
cơ quan Thi hành án Dân sự và Ban chỉ đạo Thi hành án Dan sư tại địa phương
của người bị thi hành án. Tuy nhiên các để mang lại hiệu quả tốt hơn các cơ
quan này không thể hoạt động một cách độc lập mà sẽ cần có sự phối hợp,
chính vì vậy năng lực và trách nhiệm của từng thành viên trong các cơ quan, tổ
9
chức này là rất quan trọng, thơng qua đó có thể thấy hiệu quả trong công tác thi
hành án sẽ đạt những kết quả tốt đẹp, quyền lợi của đương sự được bảo đảm,
đồng thời góp phần gìn giữ ổn định trật tự xã hội.
Bên cạnh yếu tố năng lực, trách nhiệm của cơ quan Thi hành án Dân sự và
Ban chỉ đạo Thi hành án Dân sự các cấp, yếu tố người dân cũng là một yếu tố
quyết định tới hiệu quả Thi hành án Dân sự. Có thể thấy để thực thi bản án,
quyế định của Tòa án mang lại hiệu quả tốt nhất, cần phải có sự phối hợp của
các cơ quan tổ chức liên quan, cụ thể là Cơ quan Thi hành án Dân sự và Ban
chỉ đạo thi hành án Dân sự các cấp như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên thực tế
cho thấy tuy sự phối hợp của hai cơ quan này là rất quan trọng nhưng trong
một vài trường hợp tại một số địa phương điều kiện này vẫn chưa đủ để mang
lại hiệu quả triệt để nhất do không được sự hỗ trợ, giúp đỡ từ người dân, cụ thể
là những người dân ở địa phương nơi người bị thi hành án thực hiện nghĩa vụ
hay chính bản thân người bị thi hành án. Như vậy có thể thấy sự phối hợp giữa
cơ quan Thi hành án Dân sự với Ban chỉ đạo Thi hành án Dân sự sẽ đạt hiệu
quả khi có sự giúp đỡ, hỗ trợ cả từ phía người dân, từ đó sẽ mang lại kết quả
của hoạt động Thi hành án Dân sự đi đúng với mục đích mà cơ quan nhà nước
và các đương sự hướng tới.
10
2. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN THADS
VỚI BAN CHỈ ĐẠO THADS CÁC CẤP TRONG CÔNG TÁC THADS
* Thực trạng công tác phối hợp giữa cơ quan Thi hành án Dân sự với
Ban chỉ đạo Thi hành án Dân sự các cấp trong công tác Thi hành án dân sự
Trong những năm qua, đúc kết từ thực tiễn cho thấy: Việc phối hợp tốt với các
cơ quan, tổ chức, ban ngành cã liên quan trong thi hành án dân sự là một trong
những yếu tố vô cùng quan trọng, góp phần quyết định thành cơng hay thất bại của
công tác thi hành án dân sự.
Các mối quan hệ cụ thể giữa cơ quan Thi hành án dân sự, chấp hành viên với
các cơ quan, tổ chức và cá nhân hữu quan được thể hiện như sau:
Thứ nhất, Mối quan hệ phối hợp giữa chấp hành viên, cơ quan Thi hành
án với cơ quan Công an trong công tác cưỡng chế thi hành án
Cơ quan cơng an có vai trị hết sức quan trọng giúp cho cơng tác thi hành
án dân sự đạt hiệu quả. Đây là cơ quan thường xuyên tham gia phối hợp với cơ
quan Thi hành án trong nhiều lĩnh vực, và không thể không kể đến đó chính là
cưỡng chế thi hành án dân sự.
Cơng tác cưỡng chế thi hành án dân sự có thành công hay không là nhờ sự
phối kết hợp của cơ quan Công an. Đây là lực lượng không thể thiếu được
trong các buổi cưỡng chế, nhất là đối với những vụ việc phức tạp, đương sự
chống đối quyết liệt, việc cưỡng chế thi hành án ảnh hưởng nhất định đến tình
hình an ninh chính trị tại địa phương. Vì vậy, trong cơng tác thi hành án nói
chung, cơng tác cưỡng chế nói riêng, mối quan hệ phối hợp này càng trở nên
quan trọng khăng khít hơn và là một trong những điều kiện giúp cho công tác
cưỡng chế thành công. Tại Luật Thi hành án dân sự hiện hành có quy định về
nhiệm vụ, quyèn hạn của cơ quan cơgn an, theo đó khi nhận được kế hoạch
của cơ quan Thi hành án yêu cầu hỗ trợ thi hành án, lực lượng Cảnh sát bảo vệ
và hỗ trợ tư pháp có trách nhiệm bố trí lực lượng, vũ khí, công cụ hỗ trợ,
phương tiện bảo đảm trật tự an toàn cho việc thi hành án. Như vậy để thực hiện
tốt mối quan hệ phối hợp này, chấp hành viên cơ quan Thi hành án phải có kế
11
hoạch, thống nhất phương án. Theo quy định tại Điều 72 Luật Thi hành án dân
sự hiện hành, chấp hành viên phải lập kế hoạch cưỡng chế và gửi cho cơ quan
Cơng an. Theo đây cơ quan Cơng an có trách nhiệm xây dựng kế hoạch và lập
phương án bảo vệ cưỡng chế, cụ thể cơ quan này có trách nhiệm bố trí lực
lượng, phương tiện cần thiết để giữ gìn trật tự, bảo vệ hiện trường, kịp thời
ngăn chặn, xử lý hành vi tẩu tán tài sản, cản trở, chống đối việc thi hành án,
tạm giữ người chống đối, khởi tố vụ án hình sự khi có dấu hiệu phạm tội.
Thứ hai, Việc phối hợp thi hành án dân sự đối với người đang thi hành án
Để thi hành các khoản án phí, tiền phạt, trả lại tài sản đối với những người
đang thi hành án tại trại giam không phải mọi trường hợp Chấp hành viên đều gặp
thuận lợi, trong một vài trường hợp chưa có sự phối hợp của người bị chấp hành
Thi hành án, từ đó sẽ gây nên những khó khăn, điều đó sẽ kéo theo hiệu quả của
công tác thi hành ấn dân sự không được giải quyết triệt để, quyền và nghãi vụ của
đương sự cũng như những người liên quan không được bảo đảm kịp thời. Theo
quy định của pháp luật, Tòa án là cơ quan ra quyết định thi hành án, nhưng việc
theo dõi tình hình chấp hành án của các đối tượng trên cũng khơng được thường
xun, kịp thời, vì thế việc xác minh các thông tin của người đang chấp hành án rất
khó được xác định. Như vậy trên thực tế để hiệu quả của công tác thi hành án dân
sự diễn ra một cách có hiệu quả, góp phần đảm bảo trật tự an ninh xã hội, ổn định
đất nước thì cần thiêt phải có sự phối hợp giữa có quan Thi hành án dân sự, Ban chỉ
đạo thi hành án dân sự với người phải chấp hành Thi hành án.
Có thể thấy hiện nay, tại từng địa phương cụ thể sẽ đưa ra các quy chế phối
hợp giữa các cơ quan thi hành án dân sự với Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự các
cấp nói riêng. Tuy nhiên về cơ bản nội dung của công tác phối hợp hoạt động của
các cơ quan, tổ chức này bao gồm:
- Phối hợp trong việc ban hành văn bản pháp luật về Thi hành án Dân sự
Có thể thấy đối với hoạt động này, tại từng địa phương, Ban Chỉ đạo thi hành
án Dân sự, cụ thể là Cục Thi hành án Dân sự phối hợp với cơ quan Tòa án nhân
dân, Viện Kiểm sát nhân dân và Công an tỉnh sẽ ban hành các quy chế phối hợp
12
liên ngành trong hoạt động Thi hành án Dân sự, theo đó tại văn bản này bên cạnh
việc quy định về phạm vi điều chỉnh, mục đích của quy chế, nguyên tắc và phương
thức phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan trong hoạt động Thi hành án Dân
sự thì quy chế cịn quy định cụ thể về nội dung của công tác phối hợp, đặc biệt là sự
phối hợp của Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự các cấp với Cơ quan Thi hành án dân
sự. Qua đây thể hiện được mục tiêu mà các chủ thể hướng tới nhằm làm rõ trách
nhiệm của từng cơ quan, tổ chức có liên quan trong hoạt động phối hợp cơng tác thi
hành án, thơng qua đó cũng nhằm đảm bảo sự đúng đắn và phù hợp với tình hình
phát triển tại từng địa phương giúp mang lại hiệu quả cho quá trình thi hành án trên
địa bàn.
- Phối hợp trong việc thông báo và xác minh điều kiện thi hành án
Xác minh điều kiện thi hành án là việc Chấp hành viên, các bên đương sự
thực hiện nhằm tìm kiếm, khẳng định các thơng tin về tài sản, điều kiện thi
hành án của người phải thi hành án để làm căn cứ tổ chức thực hiện việc thi
hành án theo quy định của pháp luật. Theo đây căn cứ theo Điều 9 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP, khoản 6 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP và Điều 3
Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày
01/8/2016 quy định một số vấn đề về thủ tục Thi hành án Dân sự và phối hợp
liên ngành trong Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên sẽ căn cứ theo các tài
liệu được cung cấp sẽ xác minh, đánh giá về điều kiện và khả năng thực hiện
nghĩa vụ của người bị thi hành án. Ngoài ra trong trường hợp người được thi
hành án chết mà khơng có người thừa kế thì phải xác minh qua chính quyền địa
phương, cơ quan quản lý hộ khẩu, nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của
người được thi hành án. Kết quả xác minh thông báo công khai trên phương
tiện thông tin đại chúng ở trung ương để người có quyền, nghĩa vụ liên quan
biết và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
- Phối hợp định giá, bán đấu giá
Sở Tư pháp với vai trò là thành viên của Ban chỉ đạo Thi hành án Dân sự sẽ là
cơ quan quản lý hoạt động đấu giá tài sản, theo đó Trung tâm dịch vụ đấu giá tài
13
sản sẽ thực hiện hoạt động bán đấu giá tài sản của người bị thi hành án Dân sự để
thực hiện việc thi hành án. Như vậy việc bán đấu giá khơng thể được thực hiện khi
chỉ có trung tâm bán đấu giá mà cần có sự phối hợp với cơ quan Thi hành án. Hoạt
động này có thể hiểu là khi đã có bản án, quyết định của Tịa án về việc người phải
thi hành án tiến hành thi hành án đối với người được thi hành án, nếu các bên
không thỏa thuận được với nhau về vấn đề thi hành án thì cơ quan thi hành án tiến
hành bán đấu giá tài sản đã kê biên. Việc bán tài sản đã kê biên được quy định tại
Điều 101 Luật Thi hành án Dân sự hiện hành, theo đây Chấp hành viên sẽ tiến hành
đấu giá các tài sản của người bị thi hành án đã kê biên, hoạt động này được phối
hợp với trung tâm bán đấu giá dưới sự quản lý của Ban chỉ đạo Thi hành án Dân sự.
- Phối hợp các đơn vị giao tài sản cho người thi hành án
Trong một số trường hợp cơ quan Thi hành án dân sự sẽ tiến hành viẹc giao
tài sản của người bị thi hành án cho người được thi hành án, theo đó nếu các bên có
thảo thuận thì cơ quan thi hành án sẽ thực hiện theo sự thỏa thuận này. Tuy nhiên
trong trường hợp các bên khơng có thỏa thuận hoặc trong trường hợp có nhiều
người được thi hành án thì tài sản sẽ được giao cho một người, và người đó sẽ trả
lại cho những người được thi hành án còn lại số tiền tương ứng với giá trị mà họ
được hưởng. Việc giao tài sản để thựuc hiện nghĩa vụ thi hành án của người bị thi
hành án được thực hiện bởi cơ quan thi hành án dân sự dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo
của Ban chỉ đạo Thi hành án Dân sự.
- Phối hợp trong việc hướng dẫn yêu cầu Thi hành án Dân sự, cấp và chuyển
giao bản án, quyết định
Tòa án là cơ quan ra các quyết định, bản án trong đó nêu rõ các quyền, nghĩa
vụ thi hành án, đồng thời cơ quan này sẽ cấp và chuyển giao bản án, quyết định
theo quy định pháp luật liên quan đảm bảo đầy đủ, kịp thời.
Việc chuyển giao bản án, quyết định và các tài liệu khác (nếu có) được thực
hiện thơng qua đường bưu chính hoặc được giao nhận trực tiếp, tuy nhiên sẽ ưu tiên
việc chuyển giao trực tiếp và có ký xác nhận tại chỗ. Định kỳ hành quý các các cơ
liên quan sẽ đối chiếu việc chuyển giao bản án, quyét định có hiệu lực của Tòa án.
14
Trường hợp khi chuyển giao bản án, quyết định mà Tịa án khơng gửi kèm các
tài liệu có liên quan đến việc thi hành án (như Lệnh kê biên, biên bản kê biên tài
sản, bản vẽ,...) thì cơ quan Thi hành án dân sự có văn bản đề nghị nêu rõ tên văn
bản, tài liệu cần cung cấp
- Phối hợp trong việc giải thích, sửa chữa, bổ sung Bản án, quyết định có hiệu
lực; thụ lý và giải quyết yêu cầu của cơ quan Thi hành án Dân sự
Khi có u cầu Tịa án giải thích, sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định theo
quy định pháp luật tùy từng lĩnh vực vụ thể, cơ quan Thi hành án dân sự phải thực
hiện đúng theo hướng dẫn tại Điều 9, 10 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTPTANDTCVKSNDTC ngày 01 tháng 8 năm 2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi
hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự; đồng thời phải
kèm theo tài liệu liên quan đến yêu cầu kiến nghị.
Tòa án nhân dân đã ra bản án, quyết định phải thực hiện kịp thời các yêu cầu,
kiến nghị của cơ quan Thi hành án dân sự và đương sự theo quy định pháp luật.
Căn cứ văn bản trả lời của Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự ra quyết định thi
hành án hoặc quyết định thu hồi, sửa đổi, bổ sung quyết định về thi hành án dã ban
hành trước đó theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
Trong trường hợp cơ quan Thi hành án dân sự nhận thấy việc giải thích bản án
của Tịa án chưa phù hợp với nội dung vụ việc, chưa đúng với bản án thì Cục Thi
hành án dân sự tổ chức họp liên ngành hoặc có văn bản trao đổi với Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân tỉnh để nghiên cứu thảo luận và thống nhất hướng
chỉ đạo giải quyết.
- Phối hợp trong công tác thu tiền, tài sản phục vụ công tác đặc xá
Công an tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân tỉnh chỉ đạo bộ
phận Điều tra, kiểm sát điều tra, Thẩm phán trong quá trình điều tra, kiểm sát điều
tra, xét xử các vụ án hình sự có yếu tố bồi thường tùy theo tính chất của từng vụ án
cần chủ động áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản theo điều 129; kê biên
tài sản theo Điều 128, 437 Bộ luật Tố tụng hình sự và điều 104 Bộ luật Tố tụng dân
15
sự để tránh việc tẩu tán tài sản, đảm bảo việc thực hiện bản án, quyết định theo quy
định của pháp luật.
- Phối hợp trong công tác cưỡng chế Thi hành án dân sự
Cơ quan Thi hành án dân sự (Chấp hành viên) phải kiểm tra hồ sơ cưỡng chế
trước khi gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát, hồ sơ cưỡng chế gửi cho
Viện kiểm sát phải được sắp xếp khoa học, theo thứ tự về thời gian, đảm bảo đầy
đủ các tài liệu, trình tự, thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật và phải được
đánh số bút lục của cơ quan Thi hành án dân sự. Viện kiểm sát tiến hành kiểm sát
hồ sơ trong thời hạn 03 ngày làm việc. Đối với những vụ, việc phức tạp thì thời hạn
kiểm sát hồ sơ có thể kéo dài nhưng khơng q 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
hồ sơ thi hành án.
Việc xây dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án dân sự giữa 02 cơ quan Thi
hành án dân sự và Cơng an cùng cấp được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục, thời
gian, nội dung qui định trong Thông tư số 05/2016/TTLT-BTP-BCA- BTCTANDTC-VKSNDTC ngày 30/3/2012 của các cơ quan có liên quan.
Sau khi thống nhất ý kiến với cơ quan Công an cùng cấp, Chấp hành viên phải
dự thảo xong kế hoạch cưỡng chế trình Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự.
Trên cơ sở dự thảo kế hoạch cưỡng chế đó, trong thời hạn 05 ngày làm việc Thủ
trưởng cơ quan Thi hành án dân sự tổ chức cuộc họp với sự tham gia của cơ quan
Công an cùng cấp, các cơ quan tổ chức có liên quan để tham khảo ý kiến. Tại cuộc
họp đóng góp ý kiến cơ quan Thi hành án dân sự sẽ ấn định thời gian tổ chức cưỡng
chế.
- Phối hợp trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi
hành án dân sự, thi hành án hành chính
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, Cục Thi hành án
dân sự, Cơng an tỉnh, Tịa án nhân dân tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh hướng
dẫn, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về Thi hành án dân sự, Thi hành án
hành chính để đương sự, công dân, cơ quan, tổ chức thực hiện đúng các quyền và
16
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, đảm bảo cho công tác thi hành án dân sự, thi
hành án hành chính đạt hiệu quả cao, hạn chế khiếu kiện.
- Phối hợp trong cung cấp, trao đổi thông tin phục vụ công tác thi hành án
dân sự, thi hành án hành chính
Khi tổ chức hội nghị, các buổi làm việc, họp liên ngành về vấn đề liên quan
đến công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, cơ quan chủ trì trao đổi,
cung cấp thơng tin, tài liệu trước 03 ngày làm việc để cơ quan phối hợp biết, tham
dự.
Trường hợp cần thông tin, tài liệu phục vụ công tác thi hành án dân sự, thi
hành án hành chính, các cơ quan phối hợp trao đổi, cung cấp theo yêu cầu của cơ
quan đề nghị trong thời hạn 10 ngày làm việc. Nếu từ chối cung cấp thông tin, cơ
quan được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do từ chối trong thời hạn
10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu.
- Phối hợp trong việc kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án hành
chính
Viện kiểm sát thực hiện công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành
chính từ khi nhận bản án, quyết định ra quyết định thi hành án dến khi kết thúc việc
thi hành án nhằm mục đích bảo đảm bản án quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp
luật được thi hành nghiêm chỉnh, hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án hành
chính được tổ chức thực hiện đúng pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên liên quan được tôn trọng.
Khi ban hành kế hoạch kiểm sát đối với hoạt động thi hành án dân sự, thi hành
án hành chính, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh gửi kế hoạch cho Cục Thi hành dân sự
biết để chỉ đạo các đơn vị thuộc Cục, các Chi cục Thi hành án dân sự thực hiện.
Viện kiểm sát nhân dân gửi kết luận kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự, thi
hành án hành chính, kiến nghị hoặc kháng nghị đối với hành vi, quyết định của
Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự cho Cục Thi hành án dân
sự để chỉ đạo thực hiện.
17
Cơ quan Thi hành án dân sự gửi các quyết định về thi hành án cho Viện kiểm
sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định. Khi thấy cần
thiết, Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự cung cấp hồ sơ thi hành án
dân sự, theo dõi thi hành án hành chính để kiểm sát và kịp thời trả lại trong thời hạn
03 ngày làm việc, nếu vụ việc phức tạp thì thời hạn là 05 ngày làm việc kể từ ngày
nhận hồ sơ.
- Phối hợp trong việc chuyển giao vật chứng
Công an tỉnh chỉ đạo các cơ quan Điều tra cấp tỉnh, cấp huyện căn cứ quyết
định chuyển vật chứng của Viện kiểm sát nhân dân để chuyển giao vật chứng, tài
sản tạm giữ nhanh chóng, kịp thời, đúng số lượng, chủng loại. Trường hợp vật
chứng do cơ quan Công an chuyển giao không đúng với quyết định chuyển vật
chứng thì cơ quan Thi hành án dân sự không tiếp nhận.
- Phối hợp trong việc thi hành các vụ án lớn, phức tạp, khó thi hành
Cục Thi hành án dân sự chủ trì, phối hợp với Cơng an tỉnh, Tòa án nhân dân
tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh trong việc tổ chức họp liên ngành bàn biện pháp
chỉ đạo thi hành các vụ án lớn, phức tạp, khó thi hành. Báo cáo Ban Chỉ đạo Thi
hành án dân sự tỉnh và cơ quan cấp trên để chỉ đạo thi hành đối với các vụ việc thi
hành án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và
dư luận quan tâm đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan
cấp dưới thực hiện ý kiến đã được thống nhất tại các cuộc họp liên ngành cấp trên
và kết luận của Trưởng Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự tỉnh.
* Những thành tựu đạt được từ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Thi
hành án dân sự và Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự được kể đến như:
Thứ nhất, Với vai trị là đơn vị chun mơn đầu mối được giao nhiệm vụ
tham mưu, giúp lãnh đạo các ngành thực hiện cơng tác THADS có thể thấy Cục
THADS tỉnh đã phối hợp với TAND tỉnh, Phòng kiểm sát THADS, VKSND
tỉnhthuwjc hiện các hoạt động như : phối hợp kiểm tra liên ngành về công tác
THADS, họp liên ngành, trao đổi ý kiến bằng văn bản để tháo gỡ vướng mắc trong
18
các vụ việc THADS, tổ chức hội nghị sơ kết... nhằm đánh giá kết quả phối hợp, giải
quyết các vấn đề phát sinh, những vướng mắc, bất cập trong công tác THADS, tạo
hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả công tác THADS.
Thứ hai, với hoạt động phối hợp trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật; xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về THADS đã đạt được những kết quả
tích cực, với nhiều hình thức phong phú. Qua đó, góp phần đáng kể trong việc nâng
cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật thi hành án trong cán bộ, tổ chức và
người dân; tăng cường phát huy vai trị của các cơ quan Cơng an, Tòa án, Viện
kiểm sát và THADS trong việc tuyên truyền pháp luật về THADS, hướng dẫn
đương sự, tổ chức và cá nhân thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật.
Thứ ba, Hoạt động phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự tiếp tục được
tăng cường, cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn về nội dung, chương trình kiểm sát cơng
tác thi hành án dân sự hàng năm. Chỉ đạo các cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện
phối hợp chặt chẽ với Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cùng cấp trong
việc xét miễn, giảm thi hành án dân sự các khoản nộp ngân sách nhà nước.
Phối hợp với Tòa án nhân dân việc chuyển giao bản án, quyết định của tịa án
đã có hiệu lực pháp luật; giải thích bản án, quyết định của tịa án tun khơng rõ
khó thi hành; xử lý tiền tạm ứng, vật chứng tồn lâu năm….
Thứ tư, ngành Thi hành án dân sự tỉnh đưa ra những giải pháp đổi mới trong
quản lý, chỉ đạo và điều hành, cùng sự nỗ lực của cán bộ, Chấp hành viên và người
lao động các cơ quan Thi hành án dân sự hoàn thành tốt chỉ tiêu, nhiệm vụ trên
giao. Tập thể cán bộ, công chức ln đồn kết, sáng tạo, phấn đấu khắc phục khó
khăn, không ngừng được củng cố và phát triển, ngày càng hoàn thiện cả về mặt tổ
chức và hoạt động.
* Những khó khăn trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Thi hành án
dân sự và Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự
Thứ nhất, Lãnh đạo một số nơi ngành thi hành án dân sự chưa chủ động tham
mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương trong chỉ đạo phối hợp cũng như tổ chức
19
thi hành án, nên trong phối hợp còn rời rạc khơng tập trung, hiệu quả chưa cao mặc
dù có đầy đủ các văn bản hướng dẫn thực hiện quy chế phối hợp liên ngành.
Thứ hai, Chưa chủ động với các ngành chức năng xác định án tuyên chưa rỏ
khó thi hành, án trọng điểm, án có nhiều ý kiến khác nhau để tham mưu giúp ban
chỉ đạo, chỉ đạo tổ chức thi hành đạt hiệu quả, từ đó có nhiều vụ việc kéo dài chưa
xử lý.
Thứ hai, Việc giải thích, sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định của Tòa án và
kiến nghị của cơ quan THADS còn nhiều vụ trả lời chậm, kéo dài gây nhiều bức
xúc trong nhân dân. Việc thụ lý giải quyết tranh chấp đối với tài sản kê biên hoặc
yêu cầu hủy giao dịch liên quan cịn chậm, trong đó có việc thụ lý việc yêu cầu xác
định quyền sở hữu, quyền xác định tài sản, phân chia tài sản chung theo Điều 74
Luật THADS để thi hành án, gây khó khăn cho cơng tác THADS.
Thứ ba, một số đơn vị cấp huyện chưa ký kết Quy chế liên ngành giữa Cơ
quan THADS và VKSND do đó đối với các vụ cưỡng chế thi hành án, Chi cục
THADS ban hành kế hoạch cưỡng chế và giấy mời Viện kiểm sát tham gia kiểm
sát việc cưỡng chế, kê biên tài sản, giao tài sản cho người mua trúng bán đấu giá,
tiêu hủy vật chứng... Chi cục THADS khơng giao hồ sơ vụ cưỡng chế đó cho Viện
kiểm sát nghiên cứu trước khi cưỡng chế theo Quy chế phối hợp, nên quá trình trực
tiếp kiểm sát tại buổi cưỡng chế, kê biên Viện kiểm sát còn bị động.
Thứ tư, pháp luật về thi hành án dân sự, hành chính vẫn cịn những quy định
chưa cụ thể, rõ ràng dẫn đến công tác THADS, thi hành án hành chính và cơng tác
kiểm sát THADS, thi hành án hành chính vẫn cịn gặp nhiều khó khăn. Ngoai ra
q trình thực hiện Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 và Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự nhận thấy vẫn còn nhiều nội
dung vướng mắc, bất cập; văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền ở Trung
ương chưa kịp thời thiếu đồng bộ, một số quy định chưa cụ thể chưa phù hợp với
thực tiễn làm cho việc tiếp thu, vận dụng của Cơ quan THADS ở địa phương thiếu
thống nhất.
20
Thứ năm, qua các cuộc kiểm sát trực tiếp, VKSND nhận thấy công tác phối
hợp giữa Cơ quan THADS và các cơ quan có liên quan chưa được thực hiện tốt, cụ
thể:
- Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất còn chậm trả lời xác minh của cơ
quan THADS, thậm chí có những trường hợp cơ quan THADS làm văn bản nhiều
lần nhưng Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất vẫn khơng trả lời hoặc cịn có
trường hợp cung cấp sai thông tin tài sản của người phải thi hành án, nhưng Cơ
quan THADS chưa có biện pháp để giải quyết tồn tại này.
- Phòng kinh tế hạ tầng trong việc mời tham gia buổi cưỡng chế kê biên
nhưng một số trường hợp khơng có mặt, hoặc có mặt nhưng không đúng giờ (đến
quá muộn) làm ảnh hưởng đến tác nghiệp của cả Hội đồng cưỡng chế, kê biên (xảy
ra đối với 01 số cấp huyện).
- Trong công tác phối hợp với Trại giam khi tiếp nhận phạm nhân vào chấp
hành hình phạt tù hoặc phạm nhân được chuyển trại nhưng có trường hợp chưa kịp
thời thơng báo cho cơ quan THADS nơi có tịa án đã xét xử sơ thẩm về nơi chấp
hành hình phạt tù của người phải thi hành án (THA), nên cơ quan THADS không
nắm được thơng tin về đương sự, gây khó khăn trong quá trình tổ chức THA.
* Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác phối hợp.
Thứ nhất, Pháp luật về mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân
sự với Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự còn bất cập, các văn bản hướng dẫn chưa cụ
thể. Quy chế phối hợp còn thiếu, chưa cụ thể về trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như
chưa quy định chế tài đối với các trường hợp vi phạm.
Thứ hai, Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự chưa phát huy hết vai trò chỉ đạo
việc tổ chức phối hợp trong thi hành án dân sự, chưa đôn đốc, xử lý kịp thời đối với
các vi phạm trong phối hợp nên chưa nâng cao được trách nhiệm của các cơ quan,
tổ chức cũng như trách nhiệm cá nhân của cán bộ được phân công phối hợp.
Thứ ba, Các cơ quan, tổ chức chưa chủ động phối hợp, phối hợp chưa thường
xuyên, kịp thời và đồng bộ. Một số các cơ quan, tổ chức có quan niệm thi hành án