Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

So sánh không gian văn hóa – xã hội trong truyện “Trạng Quỳnh” của Việt Nam và truyện “Th’mênh Chây” của Campuchia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.78 KB, 33 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BÀI GIỮA KỲ
MÔN: NHẬP MÔN VĂN HỌC SO SÁNH

ĐỀ TÀI:

SO SÁNH KHÔNG GIAN VĂN HÓA – XÃ HỘI
TRONG TRUYỆN TRẠNG QUỲNH CỦA VIỆT NAM
VÀ TRUYỆN TRẠNG TH’MÊNH CHÂY CỦA
CAMPUCHIA


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VĂN HÓA – XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ CAMPUCHIA..........2
1. Sơ lược về lịch sử - xã hội Campuchia..............................................................................2
1.1. Phù Nam (TK I - VII)..........................................................................................2
1.2. Chân Lạp (TK VI - IX).......................................................................................2
1.3. Angkor (TK IX- XIX).........................................................................................2
2. Tương quan về địa lý và tự nhiên giữa Việt Nam và Campuchia...................................3
3. Mối quan hệ văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và Campuchia.........................................4
CHƯƠNG 2: SO SÁNH KHƠNG GIAN VĂN HĨA – XÃ HỘI TRONG TRUYỆN
“TRẠNG QUỲNH” CỦA VIỆT NAM VÀ TRUYỆN “TH’MÊNH CHÂY” CỦA
CAMPUCHIA............................................................................................................................ 7
1. Phong tục, tập qn và lễ hội............................................................................................7
2. Tín ngưỡng – tơn giáo......................................................................................................12
2.1. Tín ngưỡng.........................................................................................................12
2.2. Tơn giáo..............................................................................................................15


3. Các mối quan hệ xã hội....................................................................................................16
3.1. Mối quan hệ gia đình.........................................................................................16
3.2. Mối quan hệ làng xã..........................................................................................17
3.3. Mối quan hệ quốc gia........................................................................................18
3.4. Mối quan hệ quốc tế..........................................................................................19
4. Đời sống kinh tế................................................................................................................ 21
5. Giải thích sự giống và khác.............................................................................................24
KẾT LUẬN.............................................................................................................................. 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................26


MỞ ĐẦU
Văn học dân gian có một vai trị hết sức quan trọng trong sự hình thành và
phát triển nền văn học của dân tộc. Là một phần không thể thiếu của văn học dân gian,
truyện trạng cũng góp phần khơng nhỏ vào sự nghiệp chung đó. Chính vì thế, khi
nghiên cứu văn học dân gian Đông Nam Á, truyện trạng đã trở thành đối tượng nghiên
cứu đặc biệt không thể thiếu. Về khái niệm cũng như việc xác định thể loại của truyện
trạng được Trương Sĩ Hùng bàn đến trong phần Xác định thể loại truyện trạng Đông
Nam Á ở quyển Truyện trạng Đơng Nam Á. Ơng cho rằng “Có thể nói, đây là một thể
loại văn học dân gian có giá trị giáo dục thẩm mỹ rất cao, có diện phản ánh rộng mà
khơng ai bỏ qua khi đề cập đến lịch sử văn hóa của các cộng đồng cư dân Đông Nam
Á” [13, Tr.5] Vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVI đến hết thế kỷ XVIII chế độ phong
kiến ở Đơng Nam Á dần suy thối và bộc lộ bản chất xấu xa, các cuộc nội chiến, chiến
tranh diễn ra liên tục. Trong hồn cảnh đó, nhân dân chịu sự áp bức, bóc lột phải sống
lầm than, cơ cực, từ đó dấy lên tinh thần yêu tự do, yêu chính nghĩa trong nhân dân.
Chính từ đây, truyện trạng xuất hiện thay người dân nói lên mặt trái của xã hội, bảo vệ
chân lý, bảo vệ lẽ phải, không chùn bước trước tầng lớp thống trị, đánh vào bọn phong
kiến tàn ác bóc lột. Có thể thấy, lịch sử - văn hóa - xã hội đã tác động đến truyện
trạng, để truyện trạng mang tiếng nói của cộng đồng. Từ đó trạng được lý tưởng hóa
trở sản phẩm tinh thần của một thời đại, mang tính tập thể sâu sắc. Bởi thế truyện

trạng đã có cho mình một chỗ đứng nhất định, giữ vai trị quan trọng khơng thể thiếu
cho nền văn học của dân tộc.
Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng cùng nằm trong vùng Đơng
Nam Á. Chính vì thế, hai quốc gia này có những điểm tương đồng trong văn hóa, bên
cạnh đó cũng có những điểm khác nhau thuộc về bản sắc dân tộc. Thế nên, khi nghiên
cứu truyện trạng của hai nước, cụ thể là truyện trạng truyện Th’Mênh Chây của
Campuchia và truyện Trạng Quỳnh của Việt Nam, nhóm đã chọn tìm hiểu, khai thác
và so sánh khơng gian văn hóa - xã hội. Để qua đó thấy được những nét tương đồng
và khác biệt trong văn hóa của hai quốc gia này, góp phần giúp chúng ta hiểu thêm về
bản sắc văn hóa của từng dân tộc.
1


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VĂN HÓA – XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ
CAMPUCHIA.

1. Sơ lược về lịch sử - xã hội Campuchia
1.1. Phù Nam (TK I - VII)
Nhà nước đầu tiên của Campuchia ra đời vào khoảng thế kỷ đầu SCN với tên
gọi nhà nước Phù Nam. Phù Nam nằm hạ lưu châu thổ sông Mê Kông. Phù Nam được
biết đến nhờ sự ghi chép của Trung Hoa, có truyền thuyết cho rằng vị vua đầu tiên của
Phù Nam là một chàng trai Bà La Môn - Ấn Độ tên Hỗn Điển chàng từ miền Đông Ấn
Độ đánh chiếm Phù Nam.1 Đây được xem là đoạn khởi thủy của Campuchia. Phù
Nam trải qua sự cai trị của 13 vị vua và vua Rudravarman được xem là vị vua cuối
cùng của triều đại này. [11, Tr. 65-67]
1.2. Chân Lạp2 (TK VI - IX)
Trước đây Phù Nam và Châp Lạp là hai nước hoàn toàn tách biệt, nhưng đến
giai đoạn Phù Nam hưng thịnh thì đã mở rộng thế lực đến tận trung lưu sông Mê
Kông, lúc này Chân Lạp thành nước phụ thuộc vào Phù Nam. Tuy nhiên sau đó Chân
Lạp dần lớn mạnh và tách khỏi ách thống trị đồng thời đánh bại và buộc Phù Nam

thần phục. Cũng từ đây Phù Nam diệt vong, hợp nhất với quốc gia Chân Lạp. Vị vua
cuối cùng của Chân Lạp là Jayavarman I. [12, Tr.55]

Hỗn Điển đánh chiếm Phù Nam, con vua Naga đã chống lại kẻ xâm lược nhưng khơng thành, từ
đó phải đầu hàng và làm vợ Hỗn Điển, cũng từ đây chàng trở thành vua xứ Phù Nam. Cũng có câu
chuyện cho rằng Hỗn Điễn đánh chiếm và đã chiến thắng dân bản xứ và kết hôn với công chúa Naga.
Từ đây sinh ra dòng dõi vua chúa đầu tiên của đất nước Phù Nam. [12, Tr. 33]
2
Những ghi chép trên văn bia khoảng TK X có kể về một đạo sĩ khổ hạnh kết hôn với một nàng
tiên là con gái của thần Shiva và sinh ra dòng dõi các vua chúa Kambuja (tên Campuchia bắt nguồn từ
đó và cho đến ngày nay, còn tên Chân Lạp được lấy từ thư tịch Trung Quốc. [11, Tr. 67]
1

2


1.3. Angkor (TK IX- XIX)
Cuối vương triều Chân Lạp khi vị vua cuối cùng mất, vợ của ông lên nắm
quyền cai trị nhưng vì việc cai trị một quốc gia là việc quá nặng nề với bà thêm việc
các nước xung quanh thèm khát sự giàu có và rộng lớn của Chân Lạp. Từ đó Chân
Lạp bị lật đổ và rơi vào cảnh bị chia cắt. Đến khi Jayavarman II thống nhất,
Campuchia lên ngôi vua khởi đầu một quốc gia hùng mạnh - đế quốc Khmer.
Khoảng thời gian từ 802 - 944 là thời kì phục quốc, thống nhất và mở đầu cho
vương quốc Angkor. Giai đoạn 944 - 1181 là thời kì phát triển, đặc biệt dưới sự trị vì
của Jayavarman V, đây được xem như “thời kỳ hồng kim của tri thức”. [11, Tr.68,
69]. Giai đoạn 1181 - 1201 là giai đoạn cực thịnh, huy hoàng của Campuchia, đạt đến
đỉnh cao của sự phát triển, bắt đầu tấn cơng Champa và thơn tính các nước xung
quanh, bành trướng thế lực.
Đến đời vua Jayavarman VII, đế quốc Khmer bắt đầu thời kỳ suy tàn. Dưới
thời của Indravarman II, người Thái lợi dụng cơ hội khi Khmer kiệt quệ mà tấn cơng

liên tiếp. Đến thời Jayavarman VIII thì phải đối đầu với Mông Nguyên xâm lăng, bấy
giờ nội bộ quốc gia Khmer còn xảy ra mâu thuẫn xã hội gay gắt. Việc phải vừa đối
đầu với giặc ngoại xâm vừa và rối loạn nội bộ đã khiến Khmer suy yếu và mất hết đất
đai ở phía Tây. Đến năm 1295, người Thái phát động chiến tranh xâm lược
Campuchia, Jayavarman VIII thối vị chấm dứt thời kỳ Angkor huy hồng.
2. Tương quan về địa lý và tự nhiên giữa Việt Nam và Campuchia
Về vị trí địa lý có thể thấy Việt Nam và Campuchia đều là quốc gia ở Đông
Nam Á và đều thuộc bán đảo Đơng Dương. Trong đó, Việt Nam tiếp giáp Trung
Quốc, Lào, Campuchia và biển Đơng. Cịn Campuchia tiếp giáp Thái Lan, Việt Nam,
Lào và phía nam giáp biển.
Về địa hình, có thể thấy địa hình của cả hai nước đều rất đa dạng, có cả đồng
bằng, rừng núi cao nguyên và biển. Trong đó, ở Việt Nam ng bng chim ẳ din
tớch, i nỳi chim ắ diện tích. Cịn đối với Campuchia đồng bằng chiếm đến ½ diện
3


tích, cịn lại là đồi núi. Với điều kiện tự nhiên như thế nên cả Việt Nam và Campuchia
đều có mơ hình tiêu biểu là đồi núi và đồng bằng châu thổ. Bên cạnh đó, việc giáp
biển và có hải đảo đã mang lại cho cả Việt Nam và Campuchia những nguồn lợi như
du lịch, hải sản, vận tải biển…
Về sơng ngịi, Việt Nam và Campuchia đều có mạng lưới sơng ngịi dày đặc
và có vị trí quan trọng trong văn hóa của cả hai nước. Sơng Mê Kơng chảy qua hai
nước bồi đắp phù sa trù phú, đồng thời cũng cung cấp nước và nguồn thủy sinh phong
phú. Bên cạnh đó, Mê Kơng cịn là nơi giao thoa văn hóa giữa các nước bán đảo Đơng
Dương. Ngồi hệ thống sơng ngịi thì Campuchia cịn có hệ thống hồ lớn nổi tiếng,
vừa giúp mang lại lợi ích cho người dân vừa mang nhiệm vụ điều tiết tự nhiên là hồ
Tonlé Sap (Biển Hồ).
Cả Việt Nam và Campuchia đều có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, hai
mùa mưa khơ rõ rệt, nhưng do vị trí ở gần xích đạo nên Campuchia khơng có mùa
đơng lạnh như miền Bắc Việt Nam. Bên cạnh đó cả hai nước đều có thảm thực vật hết

sức phong phú và đa dạng. Rừng chiếm diện tích lớn, từ đó mang đến nguồn tài
ngun sinh vật trù phú, rừng còn mang nhiệm vụ điều tiết khí hậu ở cả hai nước.
Nhìn chung, cả hai nước đều có kiểu địa hình tự nhiên là đồng bằng, đồi núi
và biển, đồng bằng đóng vai trị chủ đạo; khí hậu nhiệt đới gió mùa hai mùa mưa khơ
rõ rệt; hệ thống sơng ngịi dày đặc những đặc điểm này đã góp phần giúp cả hai nước
phát triển nơng nghiệp đặt biệt là lúa nước. Ngồi ra cịn có nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú và hệ thống sinh vật dồi dào đã tạo nên điều kiện tương đồng trong
địa lý - tự nhiên.
3. Mối quan hệ văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và Campuchia
Ngay từ thời tiền sử và sơ sử, cư dân cổ đại sông Hồng và sơng Mekong đã có
sự giao lưu qua lại và để lại những dấu tích trong văn hóa đương thời như Văn hóa
Hịa Bình, văn hóa Đơng Sơn. Vào khoảng TK I, ở những trung tâm chính trị, kinh tế
và văn hóa lớn của miền Bắc như Luy Lâu, Long Biên đã có sự cư trú của những
ngoại kiều đến để bn bán, trong đó có người Hán, người Ấn, người Khmer. Những
4


quốc gia cổ từ vùng Mekong lên phía Bắc đều phải đăng lục ở cửa Giao Chỉ. [10,
Tr.60]
Sang TK VIII - IX, Việt Nam và Chân Lạp vẫn giữ được mối quan hệ kinh tế
thường xuyên và tương đối hòa hợp. Tại vùng đất Hà Tĩnh, người Việt mang sản vật
địa phương bán cho nhân dân Chân Lạp, còn người Chân Lạp mang theo những mặt
hàng như ngựa và vũ khí để trao đổi.
Năm 1012, vương triều Angkor đã cử sứ giả mang lễ vật đến kinh đô Thăng
Long chào mừng sự lên ngôi của Lý Công Uẩn, mối bang giao giữa hai nước chính
thức bắt đầu từ đó. Khoảng thời gian sau đó, các triều đại phương Bắc thực hiện bành
trướng và xâm chiếm các nước phía Nam, chiến thắng của Đại Việt trước Mông Nguyên đã phá tan mưu đồ xâm lược các nước Đông Nam Á của phương Bắc, điều
này làm cho mối quan hệ giữa Đại Việt và các nước láng giềng càng thêm thân thiện,
sứ đoàn các nước liên tiếp được cử sang nước ta để duy trì ngoại giao.
Trong suốt giai đoạn này, nhân dân hai nước vẫn luôn giữ vững mối quan hệ

giao lưu kinh tế, thương nhân Việt Nam xuất hiện nhiều ở các thành thị của Chân Lạp,
họ trao đổi buôn bán những vật phẩm địa phương như trâu bò, các vật dụng nông
nghiệp. [6, Tr. 223] Trong Ức trai di tập Dư địa chí [9, Tr. 47], có ghi chép về đồ
cống của người Chân Lạp mang sang nước ta trong đó c"ó đồi mồi, voi trắng, hoa chỉ,
kiến chín tấc". Bên cạnh đó, Trong Ức trai di tập Dư địa chí cũng có ghi chép về tiếng
nói và trang phục của các quốc gia láng giềng, trong đó người Chân Lạp được miêu tả
là “nói trong cổ như tiếng chim vẹt”, “lấy vải bọc tay và gối để bó thây chết”.3
Đến TK XVII, Campuchia rơi vào nội chiến, Triều đình Oudong chia bè phái,
cấu xé lẫn nhau để đoạt vị4. Đến thời Chey Chettha II, tình hình Campuchia bắt đầu ổn
3

"Tiếng Ngơ nói đầu lưỡi, phải dịch rồi mới biết; tiếng Lào nói trong họng; tiếng Xiêm, Chiêm,
Chân Lạp nói trong cổ như tiếng chim vẹt; nhưng đều khơng được bắt chước để loạn tiếng nói nước
nhà", .".. Người Lào lấy vải lông quấn vào người như áo cà sa nhà Phật. Người Chiêm lấy khăn che đùi
mà để lộ hình thể. Người Xiêm-la, người Chân Lạp lấy vải bọc tay và gối để bó thây chết. Cái tục ấy
đều không nên theo để làm loạn phong tục"[9, Tr. 53].
4

Nguyên nhân là do vua Soriyopor thực hiện chính sách thần cận Xiêm, bài xích phương Tây gây
nên những sự phản ứng ngầm trong triều đình và dân chúng. Sau đó, vua Soriyopor buộc phải nhường
5


định, vua Chettha II thực hiện chính sách từ chối mọi sự thân cận với các nước xung
quanh. Quân Xiêm buộc Chey Chettha II phải thuần phục mình nên nhiều lần mang
quân sang đánh, vua Chettha không chỉ đánh lùi qn Xiêm mà cịn tìm chỗ dựa ở
triều đình Phú Xuân của chúa Nguyễn ở Đàng Trong 5. Nhưng tình hình nội bộ ở triều
đình ngày càng căng thẳng, nhiều cuộc tranh giành, thoản đoạt, xấu xé, chém giết để
tranh quyền giữa các phe phái phong kiến diễn ra, kéo dài đến hết TK XVII làm cho
đời sống nhân dân thêm khốn khổ, dân chúng bày tỏ sự bất mãn với triều đình.

Giữa TK XVIII, nội bộ triều đình Oudong lại càng thêm lục đục, xâu xé vô
cùng tàn khốc cùng với sự đe dọa từ quân Xiêm. Năm 1785, quân Tây Sơn do Nguyễn
Huệ chỉ huy đã giành được thắng lợi (phối hợp với nhân dân Khmer) đánh tan quân
Xiêm tại biên giới Tây Nam Bộ, nhờ đó mà độc lập Campuchia mới được ổn định.
Mối quan hệ giữa nhân dân Campuchia và Việt Nam thời kỳ này càng thêm khắng
khít, ở vùng đồng bằng sơng Cửu Long cư dân hai nước còn chung sống xen kẽ và
cùng nhau khai khẩn đất hoang. [10]; [12]
Qua những ghi chép trong thư tịch về lịch sử được liệt kê trên đây, có thể thấy
mối quan hệ giữa Việt Nam - Campuchia đã hình thành rất sớm và khắng khít. Nhưng
bên cạnh những ghi chép có tính lịch sử thì văn học dân gian cũng là nguồn tư liệu
quan trọng để dựa vào xem xét mối quan hệ giữa Việt Nam - Campuchia. Trong các
thần thoại về nguồn gốc của người Việt Nam, có ít nhiều sự giải thích về các tộc
người sinh ra từ quả bầu, đó những tộc người có hình dạng khác nhau và sau có tiếng
nói khác nhau [2, Tr. 105]. Truyền thuyết “Quả bầu mẹ” của cư dân dãy Trường Sơn
kể về sự ra đời của những tộc người khác nhau và di cư đến khắp mọi nơi. Trong đó,
người đi về phía Đơng là người Việt, người đi về phía Tây là người Miến, cịn người
xuống phía Nam là người Khmer. Như vậy, nếu dựa vào những thần thoại, truyền
thuyết trong văn học dân gian thì cũng có thể thấy rằng giữa Việt Nam và Campuchia
đã tồn tại một mối quan hệ đồn kết, lâu dài.

ngơi cho con trai là Chey Chettha [1]
Vua Chay Chettha II xin cưới một cơng chúa người Việt làm hồng hậu để thiết lập mối quan hệ
ngoại giao hai bên [1]
5

6


Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em sinh sống trên khắp
vùng lãnh thổ. Trong đó, dân tộc Kinh chiếm khoảng 85% dân số, bên cạnh các dân

tộc ít người khác như Tày, Thái, Khmer, Hoa, ... (Theo số liệu điều tra dân số tháng
4/2019). Người Kinh sinh sống chủ yếu ở vùng đồng bằng, và sử dụng ngơn ngữ
chính là tiếng Việt thuộc ngữ hệ Nam Á. Campuchia cũng là quốc gia đa dân tộc, tuy
nhiên khó xác định chính xác quốc gia này có bao nhiêu dân tộc. Bởi do tác động của
những cuộc chiến tranh xâm lược, các dân tộc đã có sự xáo trộn. "Cho đến nay, chúng
ta chưa thể hiểu biết được một cách đầy đủ và toàn diện về diện mạo các dân tộc ở
Campuchia, bởi lẽ tư liệu cịn q ít"[10, Tr. 35]. Và những gì có thể trình bày là dân
cư Khmer chiếm hơn 90% bên cạnh người Hoa, người Việt, người Mã Lai, người
Thái, người Lào,... Ngơn ngữ chính là tiếng Khmer thuộc ngữ hệ Nam Á chịu ảnh
hưởng từ tiếng Phạn và tiếng Pali. Dù chiếm đa số nhưng người Khmer chỉ cư trú ở
một số vùng duyên hải ven sông Mekong, các vùng lãnh thổ còn lại là vùng sinh hoạt
của các dân tộc ít người như Giarai, Xtiêng, Lào, Thái, Việt, Hoa, Chăm,... Có thể
thấy, Việt Nam và Campuchia là những quốc gia đa dân tộc, giữa các dân tộc có mối
quan hệ cội nguồn với nhau là cùng thuộc đại chủng Úc - Á, tiểu chủng Mongoloid,
nhóm loại hình Nam Á (Đông Nam Á) – Indonesia [8]. Những dân tộc này sinh sống
xen kẽ trên khắp vùng lãnh thổ của mỗi quốc gia tạo nên một bối cảnh văn hóa đa
dạng, phong phú.
Việt Nam - Campuchia là hai nước láng giềng thân thiết, do có đường biên
giới dài nên hoạt động giao lưu luôn diễn ra sôi nổi, đặc biệt là vùng biên giới hai
nước. Đầu TK XVII, việc giao lưu, đi lại giữa hai nước đã khơng cịn khó khăn làm
cho số người Việt đến định cư ở Campuchia ngày càng nhiều. Nhưng đó chỉ là sự di
chuyển địa bàn cư trú qua lại giữa người Việt với người Campuchia sinh sống gần
biên giới. Khoảng nửa sau TK XVIII, khi một làn sóng di cư của đơng đảo của người
Việt, người Chàm và người Khmer đến vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long để
khai phá, cải tạo đất đai... thì mới chính xác là sự sáp nhập. Những tộc người này sinh
sống xen kẽ, cùng lao động sản xuất và sinh hoạt đời sống…[1]

7



CHƯƠNG 2: SO SÁNH KHƠNG GIAN VĂN HĨA – XÃ HỘI TRONG
TRUYỆN “TRẠNG QUỲNH” CỦA VIỆT NAM VÀ TRUYỆN “TH’MÊNH
CHÂY” CỦA CAMPUCHIA.

1. Phong tục, tập quán và lễ hội

Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng cùng nằm trong một khu vực
vì vậy ít nhiều có sự tương đồng về văn hóa. Ngay cả trong văn học, cụ thể hơn hết
trong truyện Th’Mênh Chây của Campuchia và truyện Trạng Quỳnh ở Việt Nam đều
có những điểm chung khi nhắc đến những phong tục, tập quán truyền thống.
Truyện Trạng Quỳnh ở Việt Nam mang nhiều yếu tố dân gian quen thuộc từ
cảnh sắc làng quê đến lời ăn tiếng nói, và cả phong tục tập quán được thể hiện trong
truyện rất đặc trưng cho truyền thống của nhân dân nơi đây. Mở đầu truyện Trạng
Quỳnh là hình ảnh về một vùng nông thôn quen thuộc, gần gũi mà tràn đầy thơ mộng:
đó là bầu trời, mặt nước, đàn vịt, quả mít trên cành, là ánh trăng sáng, là hình ảnh của
trẻ thơ vui đùa trước sân, lấy tàu chuối làm cờ, lấy lá sen làm lọng… tất cả những hình
ảnh này hiện lên như dựng lại một bức tranh về đời sống của những người nông dân
Việt Nam ngày xưa dân dã, mộc mạc.
Trong Trạng Quỳnh, truyện “Sự tích ơng Bình Vơi miệng túm” [14, Tr.130] có
nhắc đến tục ăn trầu cau của nước ta. Ở Việt Nam từ thời Vua Hùng đã xuất hiện“Sự
tích trầu cau”. Miếng trầu khơng những dùng để đãi khách, mà nó cịn xuất hiện trong
ngày lễ, ngày tết. Ngồi ra, trầu cau cịn được sử dụng trong các mâm cúng tổ tiên, lễ
tế thần linh… để thể hiện sự thành kính, đồng thờ, người xưa cịn ăn trầu để bảo vệ
hàm răng của mình.
Trong tuổi thơ của tất cả chúng ta, chắc hẳn ai ai cũng đã từng chơi trò “khiêng
kiệu”. Trò chơi dân gian này đã được nhắc đến trong mẫu truyện “Đầu to bằng cái
bồ” [14, Tr.100]. Được biết đây là một trò chơi dân gian được phổ biến với nhiều lớp
thế hệ của người Việt Nam. Cách chơi đúng nhất là chia thành 2 đội, mỗi đội gồm 3
người chơi. Trong đó, 2 người chơi đứng đối mặt nhau lấy tay phải nắm vào giữa tay
8



ngay cùi chỏ của mình và tay trái thì nắm vào tay phải của người đối diện để làm kiệu.
Sau đó người chơi cịn lại của đội này ngồi lên kiệu của đội cịn lại và giữ cho chắc để
khơng ngã.
Trò chơi chọi gà được xuất hiện trong“Khốn nạn thân gà thiến” [14. Tr. 145].
Chọi gà là một trò chơi dân gian phổ biến, khi thi đấu người ta sẽ chọn những nơi có
khơng gian rộng rãi thoải mái để không gây nguy hiểm cho gà khi ra trận. Người ta sẽ
chia gà thành từng cặp để đá với nhau. Người chiến thắng sẽ nhận được một bữa thịnh
soạn từ bên thua cuộc và cùng nhau bàn tán, chia sẻ về trận đấu vừa rồi để đút rút kinh
nghiệm. Ngoài ra cịn có trị chọi trâu được nhắc tới qua truyện “Trạng chọi trâu”
[14, Tr. 137]. Ở Việt Nam, chọi trâu đã trở thành một lễ hội lớn, một tập tục cổ xưa có
nguồn gốc từ Đồ Sơn, Hải Phịng.
Mỗi một dân tộc đều có những cách ăn mặc riêng của mình, thơng qua trang
phục ta có thể thấy được những nét nổi bật trong phong tục và đặc trưng văn hóa của
dân tộc đó. Hình ảnh chiếc yếm đào được xuất hiện trong “Vần thơ gỡ bí” [14, Tr.
103]chính là trang phục truyền thống của người phụ nữ dân tộc ta ngày xưa. Yếm đào
mang đến cho người phụ nữ vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm mà duyên dáng. Yếm đào là
trang phục được người phụ nữ sử dụng để che chắn cơ thể mặt phía trước và là nét đẹp
của phái nữ, bên cạnh đó nó cịn giúp phô ra những nét đẹp, đường cong của người
phụ nữ. Hay trong mẫu truyện “Đơn trình bị chết của cơ gái Kẻ Nghì” [14, Tr 104]
có nhắc đến hình ảnh của chiếc áo năm thân - một trong những trang phục truyền
thống của người dân Việt Nam, ra đời vào năm 1744. Áo có tà khơng bó sát người mà
rộng rãi, càng xuống càng xòe ra. Áo năm thân (áo ngũ thân) có 2 loại chính là áo ngũ
thân tay chẽn và áo ngũ thân tay thụng. Đặc biệt loại trang phục này khơng phân biệt
tầng lớp, giới tính, độ tuổi.
Từ xưa đến nay, trong phong tục của người Việt Nam, tiếng hát ru là những
lời hát quen thuộc, đi sâu vào trong giấc ngủ của chúng ta thuở bé thơ, nuôi dưỡng
chúng ta khôn lớn mãi cho đến ngày trưởng thành. Việc hát ru là hết sức quan trọng vì
khơng những ni nấng chúng ta lớn khơn về mặt thể xác mà còn ngơi nguồn sống

của trẻ thơ về mặt tâm hồn. Phần lớn các câu hát ru thường được lấy trong các bài
đồng ca, ca dao, những câu hò dân gian, thơ, … được truyền từ đời này đến đời khác,
9


thể hiện được tính mộc mạc, gần gũi, chân thật, chân quê của con người hiện thực. Hát
ru còn là nơi để gửi gắm những tâm tư tình cảm, nỗi niềm giấu kín. Ở mẫu truyện
“Chiếc vịng độc nhất vơ nhị của Trung Quốc” [14. Tr 138] cũng đã đề cập đến tiếng
hát ru con. Thị Điểm không tiện ra mặt nên đã gửi tâm tư, chỉ cách cho Trạng Quỳnh
bằng cách hát ru:
“Tính tịch tình tang
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng.
Một đầu lấy giấy mà bưng.
Một đầu thoa mỡ, thơm lừng: kiến sang.
Tính tình tang!
Tang tính tình!...”
Về sau, bài hát ru con của Thị Điểm đã trở thành một câu phong dao mà các
tầng lớp bình dân Việt Nam, ai nấy đều thuộc nằm lòng.
Phong tục tập quán của người dân Việt Nam không chỉ được thể hiện qua
trang phục, trò chơi, lời hát ru mà còn được thể hiện qua chi tiết nói về những ngày lễ
của người dân Việt. Ở truyện “Thi mâm ngũ quả” [14; Tr. 160] đã đề cập đến ngày lễ
Trung thu và cuộc thi mâm ngũ quả. Trung thu là giữa của mùa thu. Tết Trung thu
nhằm vào ngày 15 tháng 8 âm lịch hằng năm. Ở Việt Nam, vào ngày này người ta bày
cỗ với nhiều loại bánh kẹo khác nhau, cùng nhau nhảy múa ca hát, rước đèn, múa lân,
… rất rộn ràng và tưng bừng. Theo phong tục của người Việt, Tết Trung thu là dịp để
đoàn viên, tất cả các thành viên trong nhà đều mong muốn quây quần bên nhau, làm
mâm cỗ cúng gia tiên của mình. Đêm xuống họ cùng nhau tụ tập với xóm làng vui
chơi dưới hội trăng rằm, cùng nhau rước đèn, phá cỗ… Khung cảnh này đã được tái
hiện lại trong truyện “Thi mâm ngũ quả”. Cứ đến dịp rằm trung thu nhà chúa lại cho
mở cuộc thi mâm ngũ quả. Cả phủ ai nấy đều nôn nao chuẩn bị mâm ngũ quả của

mình sao cho ngon nhất, đầy đủ nhất và lạ nhất để được phần thắng lợi, khơng khí vơ
cùng vui tươi và rộn ràng. Đây chính là một trong những phong tục quý giá đối với
dân tộc ta.
10


Tưởng chừng như trầu cau là một lễ vật mang nét đẹp truyền thống của duy
nhất dân tộc Việt Nam nhưng ở Campuchia cũng đã có sự xuất hiện của trầu cau từ rất
lâu thể hiện trong truyện“Tôi không dám nhặt” [13, Tr. 89] của Th’Mênh Chây. Điều
này thể hiện sự tương đồng về văn hóa giữa Việt Nam và Campuchia. Cũng giống như
Việt Nam, trầu cau không thể thiếu trong việc giao hiếu, kết thân, lễ tế, cưới hỏi… của
văn hóa người Campuchia.
Lễ hội cũng là một lĩnh vực hấp dẫn khi tìm hiểu về văn hóa của một dân tộc.
Qua chuyện cưới hỏi của Th’Mênh Chây và Nàng Sao trong “Xin kính dâng tất cả”
[13, Tr. 104] ta như biết thêm phần nào về phong tục lễ cưới của người Campuchia.
Ngày cưới chính thức khơng được tổ chức vào tháng thiếu mà là tháng đủ. Đám cưới
người Campuchia thường được tiến hành trong 3 ngày với những thủ tục và nghi lễ
cần phải thực hiện theo. Ngày vào lều (ngày đầu tiên) nhà gái sẽ dựng trong nhà của
mình một lều tân lang, khi chú rể đến nhà cô dâu sẽ vào luôn trong lều này. Ngày thứ
hai, từ sáng sớm bố mẹ và bạn bè hai bên đều đến nhà cô dâu để tổ chức cúng tổ tiên,
buổi chiều sẽ là lễ cắt tóc cho cơ dâu và chú rể để xóa bỏ những điều khơng may mắn
của hai người. Tiếp theo là lễ tụng kinh rồi đến tiệc cưới. Cuối cùng là lễ buộc dây để
tượng trưng cho hai gia đình gắn bó chặt chẽ. Ngày thứ 3 là ngày bái đường do một
người già chủ trì, thường được tổ chức ở chùa chiền. Sau khi kết thúc nghi lễ cái chiếu
được đôi vợ chồng ngồi lên sẽ được bán đấu giá, cô dâu chú rể sẽ mua lại chiếc chiếu
đó, sau này trải lên giường của mình. Chủ hơn giao chú rể cho cơ dâu và kết thúc đám
cưới. [11, Tr. 106]
Trong truyện “Không ai dám ỉa” [13, Tr. 154] Th’Mênh Chây đã yêu cầu chơn
xác của mình dưới đất thay vì hỏa táng hoặc thả trơi trên sơng. Mặc dù tồn tại nhiều
hình thức mai táng như truyện đề cập, nhưng hỏa táng mới chính là hình thức phổ

biến. Theo phong tục của người Campuchia, nếu có người chết trong nhà thì người
nhà sẽ giữ xác chết trong nhà từ 3 – 7 ngày rồi mới thiêu đốt cịn nếu chết ở ngồi thì
xác được đưa vào chùa 1 tuần lễ sau đó mới hỏa táng. Quan tài do 4 người khiêng, đi
đầu là Acha, cầm phướn trượng tượng trưng cho linh hồn của người đã mất. Tiếp đến
là cô gái cầm giỏ bỏng vừa đi vừa rắc xuống đường. Sau đó là người con trai đi liền
với linh cửu đầu đội mũ rơm. Nơi hỏa táng thường đặt gần chùa hoặc trong chùa. Sau
11


khi được hỏa táng, người thân trong gia đình đến nhặt xương cốt bỏ vào lọ đem về nhà
rồi sau đó đem đến chùa. Sau 100 ngày, người trong gia đình mời sư đến làm lễ cúng
và như vậy là hết tang.
Trò chơi dân gian cũng là một điểm thú vị về văn hóa mà chúng ta cần phải
tìm hiểu khi nghiên cứu về những vấn đề của phong tục tập quán người Campuchia
trong truyện Th’Mênh Chây. Cụ thể trong truyện “Người Trung Hoa phải tiễn” [13,
Tr. 148] có chi tiết Th’Mênh Chây làm diều sáo. Diều sáo ở Campuchia được xem là
một trò chơi dân gian thú vị, xưa kia các nhà sư thường thả những chiếc diều bay lơ
lửng trên các ngôi chùa và gắn trên chúng là một công cụ phát ra âm thanh. Với người
Campuchia, thả diều là một việc làm có ý nghĩa nhằm cầu mong sự bình an, an n,
tốt lành. Bên cạnh đó người ta cịn quan niệm hễ có chiếc diều nào bị rơi thì nhà chùa
phải làm lễ để xua đuổi những tà ma ấy mà cầu an. Ngồi ra, hình ảnh con diều còn là
một phong tục của vua chúa được xem như những vật dâng lên thần linh. Họ còn quan
niệm rằng tục thả diều là cúng chiếc răng của Phật được cất giữ ở Vương quốc của rắn
Thần Naga.
Đọc truyện Th’Mênh Chây ta sẽ phát hiện ra nhiều điều thú vị từ văn hóa của
Campuchia. Trong truyện “Người Trung Hoa phải tiễn” [13, Tr. 148] sau khi
Th’mênh Chây bị bán sang nước Trung đã mua gạo và làm ra miến sợi, truyền bá cho
người dân nước này một món ăn lạ, mới mẻ, hết sức thu hút được vua nước này tấm
tắc khen ngon, từ đó khắp nơi nước Trung lan truyền món ăn độc lạ này. Đây chính là
một trong những đặc trưng trong ẩm thực của người Campuchia. Ẩm thực của họ

cũng giống như nước ta và nhiều dân tộc khác đều thuộc nền văn minh lúa nước trong
khu vực Châu Á, vì thế có rất nhiều món ăn được chế biến từ lúa gạo rất đặc sắc và
hấp dẫn riêng biệt, điển hình trong số đó là miến sợi.
Nhìn chung, truyện trạng của Việt Nam và Campuchia đều chứa những hình
ảnh về phong tục, tập quán của nền văn hóa mà nó thuộc về. Ở mỗi nước sẽ có những
đặc trưng về phong tục khác nhau, tuy nhiên, với xuất phát cùng một cái nôi văn hóa
nên giữa chúng cịn có sự tương đồng, điển hình như tục trầu cau và một số trị chơi
dân gian (chọi gà, chọi trâu) được xuất hiện trong truyện trạng Việt Nam lẫn
Campuchia.
12


2. Tín ngưỡng – tơn giáo
2.1. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi
gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho
cá nhân và cộng đồng [5]. Tín ngưỡng khơng chỉ xuất hiện trong đời sống hằng ngày
mà còn hiện diện trong văn học, đặc biệt là văn học dân gian. Trong truyện Trạng
Quỳnh của Việt Nam, tín ngưỡng thể hiện trên nhiều khía cạnh đa dạng và phong phú.
Tín ngưỡng phồn thực là một phần trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam mang
ý nghĩa linh thiêng, biểu hiện cho sự sinh sơi, nảy nở. Tín ngưỡng phồn thực cũng thể
hiện niềm tin về sự phát triển, mong muốn một mùa màng bội thu, một điều rất quan
trọng ở đất nước nơng nghiệp. Trong truyện trạng có xuất hiện nhiều câu chuyện
mang yếu tố linga và yoni - hai biểu tượng đặc trưng trong tín ngưỡng phồn thực.
Truyện “Thay lời giáo thụ gửi vợ” [14, Tr. 106] viết như sau:
“Nay lời giáo thụ gửi về quê
Nhắn nhủ cô bay chớ ngứa nghề
Cỏi bắc anh mang thằng cù lẳng
Miền nam em giữ cái trai he
Hãy cịn vướng vít như hang thỏ

Hay đã tị ho q lỗ trê?
Bấm đít, bấm trơn mà chịu vậy
Một hai tuần nữa đợi anh về.”
Hàng loạt các chi tiết đại diện cho các bộ phận sinh thực khí nam và sinh thực
khí nữ xuất hiện trong bức thư gửi vợ ở quê nhà xa xôi của ông giáo thụ: cù lẳng, trai
he, hang thỏ, lỗ trê,... Trong truyện “Mừng chúa thắng trận” [14, Tr. 138], bài thơ
13


Trạng Quỳnh viết tặng chúa không đơn thuần là sự ca ngợi mà ẩn sâu bên trong là sự
lỡm Chúa của Trạng, các yếu tố phồn thực mang đậm nét hành vi kết giao nam nữ, bề
ngồi nhìn như là đang khen ngợi nhưng thật chất sâu xa không phải như vậy. Bóng
dáng tín ngưỡng phồn thực cịn xuất hiện trong một số câu chuyện như: “Đối đáp với
Thị Điểm”, “Cơ hàng nước”, “Đơn trình bị chết của cơ gái Kẻ Nghì”,...Tín ngưỡng
phồn thực của người Việt đã hình thành từ rất lâu, có vai trị rất quan trọng với đời
sống tâm linh và việc thể hiện nó trong các câu chuyện kể dân gian như một cách tiếp
nối, thể hiện đặc trưng của văn hóa dân tộc.
Trong tín ngưỡng dân gian, người Việt có quan niệm thờ thần linh, những
người có năng lực đặc biệt khơng cịn q xa lạ. Xuất phát từ niềm tin, các vị thần,
thánh được thờ cúng một cách trang nghiêm trong các đền, miếu ở làng, dân chúng
đến để cầu mọi điều như ý nguyện, yên lành, thịnh vượng trong đời sống. Các vị thần
được thờ cúng là những người bảo trợ ngôi làng, được dân làng thờ cúng từ xa xưa,
nối tiếp qua nhiều thế hệ. Bên cạnh đó, vì để bày tỏ lịng kính trọng với những người
phụ nữ, trong văn hóa Việt có tín ngưỡng thờ Mẫu. Trong truyện “Cúng Thành
Hồng làng” [14, Tr. 100], người dân có tục lệ thờ Thành Hoàng là một người bảo hộ
dân, Trạng Quỳnh cũng đến khấn cầu vợ đang bệnh mau khỏi bệnh. Tương tự như
thần thánh, Mẫu được thờ trong các ngôi đền, miếu, linh thiêng, giúp đỡ dân chúng,
chính bởi sự linh thiêng nên nếu làm trái cũng sẽ bị quở phạt, ngược lại mọi điều suôn
sẻ, thuận lợi cần đến tạ ơn để bày tỏ lòng thành. Trong chuyện “Bà Đanh mất vía”,
“Cấy rẽ ruộng bà chúa Liễu”, “Tiền múa, chúa cười”, “Trả ơn bà chúa Liễu”,...

Ngoài ra việc thờ cúng người dân thường mang lễ đến trả, như một sự biết ơn, trân
trọng, trả lễ vật cũng là một thói quen thường thấy ở người Việt.
Từ xa xưa dân tộc ta luôn quan niệm vạn vật hữu linh, thiên nhiên thì bao la
và huyền bí, chúng mang sức mạnh lớn lao, nên từ đó người Việt sinh ra tín ngưỡng
thờ cúng tự nhiên. Trong những truyện như: “Lễ tế sao”, “Chữa bệnh cho quận
chúa”, khi vua và quận chúa bệnh không khỏi, Trạng Quỳnh đã đưa ra phương án giải
quyết bằng cách làm lễ cúng sao. Dù việc cúng sao như một cách để Trạng Quỳnh
châm biếm, đả kích lại chế độ cầm quyền, nhưng đây cũng là một trong những tín

14


ngưỡng thể hiện đức tin của con người vào vũ trụ bao la. Với một đất nước nơng
nghiệp việc có niềm tin và sùng bái tự nhiên là một lẽ hiển nhiên.
Campuchia là một đất nước nông nghiệp, người Campuchia cũng có tín
ngưỡng vạn vật hữu linh trong đời sống, họ coi trọng cây cối như một cách thức thể
hiện sự sùng bái với tự nhiên. Trong đời sống văn hóa của Campuchia cây dừa đóng
một vị trí vơ cùng quan trọng, trái dừa là một lễ vật xuất hiện trong một số nghi lễ,
tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở. Trong truyện “Th’mênh Chây”, trước khi sinh ra
chàng, bà mẹ đã nằm mơ thấy mình lạc trong một rừng dừa xanh tốt, điều này như
một sự báo hiệu cho việc bà sẽ sinh ra một đứa con trai thơng minh, kháu khỉnh.
Ngồi thờ cúng vạn vật, người Campuchia cịn có tục thờ cúng các vị thần,
người trấn giữ một nơi nào đó trong nhà. Trong truyện “Nói to, nói nhỏ” [13, Tr. 97],
khi nhà bị cháy, Chây bị ông chủ đất la mắng, buộc đem giao ra kẻ đã đốt nhà, chàng
Th’Mênh Chây vào bếp mang ra ba ông đầu rau bếp. Tương tự như trong văn hóa của
người Việt, ông đầu rau bếp là ba vị thần gồm hai ông và một bà, phụ trách trông coi
việc bếp núc trong nhà. Khi có chưa có dụng cụ nấu ăn hiện đại như bây giờ, ba ông
đầu rau được sử dụng rất phổ biến. Hằng năm, có tục thay mới ba ơng đầu rau, người
ta cịn quan niệm làm rơi vỡ một trong ba ông đầu rau là điều chẳng lành.
Người Campuchia cũng có một niềm tin về linh hồn của con người ở bên kia

thế giới. Họ chuẩn bị chu đáo, thực hiện đầy đủ các nghi thức tang ma truyền thống, vì
họ quan niệm rằng phải tiến hành đúng theo phong tục thì người chết ở thế giới bên
kia mới được siêu thoát. Lễ tang ma của người Campuchia chịu ảnh hưởng từ tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên, bởi sau tang lễ người Campuchia cịn có rất nhiều lễ cũng
diễn ra theo khoảng thời gian khác nhau: lễ cúng bảy ngày, lễ cúng 10 ngày,... Họ cịn
cho rằng chết khơng phải cách biệt hồn tồn với thế giới mà những giá trị tinh thần
do người chết để lại sẽ tiếp nối và cịn mãi. Chính vì lẽ đó, cái chết của Th’ Mênh
Chây cịn để lại cho hậu thế tài khơn lanh, mưu trí, ứng biến hơn người của mình
trong truyện “Khơng ai dám ỉa” [13, Tr. 97].

15


Tín ngưỡng là thứ khơng thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Đơng
Nam Á. Từ lâu nó là nét rất riêng trong khơng gian văn hóa của các nước trong khu
vực. Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia xuất phát cùng một cái nơi văn hóa nên
trong tín ngưỡng giữa hai nước có nhiều nét tương đồng. Là những quốc gia nơng
nghiệp cả hai nước đều có tín ngưỡng đa thần, tin vào thuyết vạn vật hữu linh, bằng
chứng là cả Việt Nam và Campuchia đề thờ cúng rất nhiều vị thần, thờ cúng sùng bái
tự nhiên.
2.2. Tôn giáo
Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt
động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức. [5]
Sự lăm le xâm lược các tập đoàn phong kiến phương Bắc kéo theo những
chuẩn mực cũ thay đổi, các ý thức nhân, lễ, nghĩa, trí, tín khơng cịn do lối sống thực
dụng, những quan niệm về tôn ti trật tự đạo vua - tôi, thầy - trị cũng khơng cịn. Từ
các câu chuyện rõ lối sống thực dụng của quan lại có chức, có quyền trong xã hội, bất
chấp đánh đổi, nịnh nọt để được thăng quan tiến chức như truyện “Sướng đời ơng nọ
bà kìa” [14, Tr. 122], vì lối sống thực dụng và hám danh lợi mà gặp phải một cái kết
trớ trêu. Chuẩn mực trong các mối quan hệ cũng dần thay đổi, nhiều lần Trạng Quỳnh

đã dùng sự nhanh nhẹn và mưu mẹo để đối đáp lại với chúa, làm chúa chỉ có thể im
lặng mà khơng thể nào phản bác hay bắt lỗi Trạng Quỳnh. Trong “Mừng chúa thắng
trận” [14, Tr. 138], Trạng Quỳnh còn cả gan trộm cả mèo của Chúa về ni dù biết nó
là con mèo mà Chúa yêu thích trong “Trộm mèo chúa thích” [14, Tr. 154]. Trạng
Quỳnh chê cười sự mê tín dị đoan của Chúa bằng việc so sánh với ông Bành Tổ trong
“Tức cười ông Bành Tổ” [14, Tr. 167], Trạng còn cho là Chúa ăn chơi sa đọa, ham
mê tửu sắc, chỉ trích thẳng thừng trong “Lễ tế sao” [14, Tr. 169], …
Khi các lễ nghi phong kiến dần suy yếu, thì đạo Phật dần khôi phục, tuy nhiên
dù được quan tâm tu sửa, đúc tượng nhưng nhìn chung đạo Phật vẫn khơng thịnh
vượng như giai đoạn trước. Truyện “Trạng Quỳnh”, Phật giáo xuất hiện cụ thể là vào
thời Lê Trung Hưng, dù cho giai đoạn này Phật giáo có chú trọng nhưng vị thế cũng

16


không mấy thay đổi. Trong câu chuyện “Phật say” [14, Tr. 109] những ngơi chùa
xuất hiện với vẻ ngồi mục nát, tượng Phật xiêu quẹo. Tuy nhiên, sự xuất hiện của đạo
Phật vẫn cho thấy con người cũng có niềm tin vào phật pháp, mong muốn sự bảo trợ
và che chở.
Tương tự nhiều quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á, Phật giáo xuất
hiện rất sớm ở Campuchia, và qua thời gian Phật Giáo trở thành tơn giáo chính gắn
liền với đời sống của người dân Campuchia. Vào thời kỳ cực thịnh của đất nước
Campuchia, đạo Phật phát triển rực rỡ, ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống xã hội. Phật
giáo ở Campuchia và vương quyền có mối quan hệ mật thiết, nhà vua rất coi trọng và
thường xuyên tiếp xúc với các nhà sư, điều này được thể hiện qua các truyện “Không
cấm được tôi”, “Tại sao lại khơng Chây?” “Chỉ cịn một người cũng đánh". Ta có thể
thấy các nhà sư thường xuyên lui tới cung điện để gặp gỡ và làm lễ chúc tụng, cầu
phúc.
Về tôn giáo, có thể thấy đạo Phật, du nhập đến và có ảnh hưởng lớn đến cả hai
quốc gia. Tuy nhiên, mỗi quốc gia cũng có những nét nổi bật riêng, chẳng hạn ở Việt

Nam tín ngưỡng phồn thực được thể hiện rất rõ, ngồi thờ thần, người Việt rất kính
trọng và có tục thờ Mẫu, về tơn giáo ở Việt Nam bên cạnh sự tương đồng về đạo Phật
với quốc gia Campuchia người Việt còn theo Nho giáo trong suốt một thời kỳ dài của
lịch sử.
3. Các mối quan hệ xã hội
3.1. Mối quan hệ gia đình
Dưới thời phong kiến lạm quyền, xã hội Việt Nam tuân theo chế độ phụ hệ.
Mọi quyền lực đều nằm trong tay người đàn ông, và người đàn ông được gọi là “gia
chủ” có quyền quyết định mọi việc lớn bé trong gia đình. Những việc ở bên ngoài xã
hội, đối diện với mọi thứ bên ngồi thì đều là người nam tồn quyền quyết định.
Trong truyện Trạng Quỳnh, mối quan hệ trong gia đình được đề cập khá ít. Tuy nhiên,
trong đó ta vẫn có thể nhìn được chế độ phụ hệ đang hiện hữu trong xã hội đương thời
như trong truyện: “Cúng thành hoàng làng” [14, Tr. 110], “Cấy rễ ruộng bà chúa
17


Liễu” [14, Tr. 112] … Đa phần các truyện này nói về việc vợ Quỳnh bệnh, và việc ra
ngồi cúng kiến khấn thần, là những việc hệ trọng trong gia đình thì đều hiển nhiên do
Quỳnh đứng ra đảm trách khấn xin. Cho đến khi vợ khỏi bệnh cũng là do Quỳnh cúng
tạ. Hay những lần vay mượn chúa đất, … để lo trồng trọt lo cho kinh tế gia đình cũng
do một tay Quỳnh lo liệu chu tồn.
Trong truyện “Th’mênh Chây” thì mối quan hệ gia đình được thể hiện là tổ
chức theo gia đình lớn và lấy theo họ mẹ. Cụ thể, trong các truyện như “Xin làm nơ
lệ” [13, Tr. 87], “Nói to nói nhỏ” [13, Tr 97],… Qua các truyện, có thể thấy gia đình
dịng tộc trong vương quốc Campuchia đều theo chế độ mẫu hệ, mọi quyền lực quyết
định trong nhà hay ngay cả sự thừa kế và sở hữu nhà cửa đất đai đều là quyền của
người phụ nữ. Khi đến giờ ăn thì người vợ lập tức sai Th’Mênh Chây đi gọi chúa đất
trở về ăn đúng giờ giấc mà bà đã nấu xong và đã dọn ra mặc cho chúa đất vẫn đang
phải lên triều bàn việc với vua quan đại thần. Có thể thấy chúa đất rõ ràng cũng rất sợ
khi nghe Th’Mênh Chây đến báo vợ gọi về, dẫu có phần quê trước mắt các quan đại

thần khi bị Th’Mênh Chây gọi quá lớn tiếng, nhưng chúa đất vẫn không thể giấu được
vẻ lúng túng và vội vã về theo lời của Th’Mênh Chây. Đó chính là chi tiết nhỏ nhưng
cũng đã phần nào thể hiện được giá trị trong lời nói và hành động của người phụ nữ xã
hội Khơme bấy giờ. Bên cạnh đó cịn có chuyện tình cảm của Th’Mênh Chây và Nàng
Sao, Th’Mênh Chây gặp nàng khi trên đường đi tìm vợ để cưới theo lệnh của đức vua
và nên duyên chồng vợ cùng nàng. Th’Mênh Chây vơ cùng tử tế với vợ và gia đình
nàng, qua đó cũng thể hiện được phần nào khía cạnh con người Campuchia, trọng tình
trọng nghĩa và đối đãi đàng hồng với những người gần gũi xung quanh mình.
3.2. Mối quan hệ làng xã
Bây giờ công xã nông thôn, chế độ sở hữu ruộng đất vẫn còn phổ biến tại làng
quê Việt Nam. Cùng với chế độ công hữu ruộng đất, đất đai và của cải thuộc sự quản
lý của nhà nước thì đã bắt đầu xuất hiện việc tư hữu ruộng đất. Đất đai lần lượt thuộc
về những tầng lớp quý tộc, địa chủ khi mà trong tay họ đã có sẵn của cải tiền bạc cộng
với quyền lực dựa vào những chính sách khai hoang của nhà vua. Chế độ phong kiến
bấy giờ, người và của gắn liền với nhau, đối với những người có được nhiều quyền sở
18



×