Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Phân tích, đánh giá và đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 về đại diện của pháp nhân.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.86 KB, 5 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN HỌC: LUẬT DÂN SỰ 1
Đề bài 03:
Phân tích, đánh giá và đưa ra kiến nghị hồn thiện quy
định của Bộ luật dân sự năm 2015 về đại diện của pháp
nhân.

Hà Nội, 2022
1


Pháp nhân có nguồn gốc từ thời La Mã cổ đại và theo truyền thống Sovietque
Law, pháp nhân được coi là một con người giả tưởng, khơng có hình hài vật chất,
nhưng là một chủ thể của pháp luật có khả năng hưởng quyền và gánh vác nghĩa
vụ. Tuy nhiên, mọi hoạt động của pháp nhân nói chung đều thơng qua đại diện.
1. Phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật dân sự 2015 về đại diện của
pháp nhân
Thông thường, đại diện của pháp nhân được quy định trong chế định quản trị
pháp nhân. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (là người đại diện) nhân dân và vì
lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (là người được đại diện) xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự1. BLDS 2015 đã mở rộng phạm vi người đại diện cho pháp nhân
khơng cịn đơn thuần là cá nhân mà còn bao gồm cả pháp nhân. Đây cũng là một
điểm đáng được ghi nhận. Đại diện của pháp nhân bao gồm: Đại diện theo pháp
luật và đại diện theo ủy quyền.
Căn cứ vào Điều 135 BLDS 2015 quy định về căn cứ xác lập quyền đại diện:
“Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người
đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật


(sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật).” Theo điều luật này, “quyền đại
diện” đồng nghĩa với “đại diện”. “Quyền đại diện” là quyền của “người đại diện”
được trao bởi người đại diện hoặc bởi pháp luật.
Về đại diện theo pháp luật của pháp nhân, Khoản 1 Điều 137 quy định các thể
thức trao quyền đại diện bao gồm: (i) Pháp nhân chỉ định theo điều lệ của pháp
nhân; (ii) pháp luật quy định; (iii) Tịa án chỉ định trong q trình tố tụng tại Tồ
án.
Một điểm mới trong BLDS 2015 cịn quy định một pháp nhân có thể có nhiều
người đại diện theo pháp luật2. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn hoạt động của pháp
nhân, đặc biệt là những pháp nhân thương mại có nhiều lĩnh vực và ngành nghề
1
2

Khoản 1 Điều 134 BLDS 2015
Khoản 2 Điều 137 BLDS 2015

2


hoạt động khác nhau, BLDS 2015 cho phép người đại diện có quyền nhân danh
pháp nhân xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự vì lợi ích của pháp nhân trong
phạm vi lĩnh vực được đại điện. Quy định này cũng phù hợp với Điều 12 Luật
Doanh nghiệp 2020 về việc một pháp nhân có thể có nhiều người đại điện.
Tuy nhiên, BLDS 2015 quy định mỗi người đại diện trong số những người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân chỉ được xác lập và thực hiện giao dịch dân sự
trong phạm vi đại diện quyết định của cơ quan có thẩm quyền hoặc theo quy định
của pháp luật3. Bên cạnh đó, cần phải thơng báo cho bên giao dịch biết về phạm vi
đại diện của mình4. Có thể nói, BLDS 2015 chỉ tập trung vào thẩm quyển đại diện
của mỗi người đại diện và toàn bộ việc xác định phạm vi đại diện này được thể hiện
trong văn bản trao quyền đại diện. Điều này khiến cho pháp nhân không thể hoạt

động được hoặc thực hiện chức năng và mục đích nếu người đại diện theo pháp luật
khơng có thẩm quyền đại diện đối với bất kỳ và tất cả các hoạt động của pháp nhân.
Không những thế, một số phần tử cịn có cơ hội lạm dụng việc có nhiều người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân nhưng thẩm quyền đại điện của mỗi người bị
hạn chế để chống lại người thứ ba ngay tình (đối với người thứ ba ngay tình, thì
mỗi đại diện của pháp nhân được coi là đại diện cho bất kỳ và tất cả các hoạt động
của pháp nhân dù rằng điều lệ hay văn bản khác của pháp nhân có quy định về giới
hạn thẩm quyền của đại diện nào đó).
Theo Khoản 1 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2020, người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân thương mại ở Việt Nam chỉ có thẩm quyền thực hiện các quyền
và nghĩa vụ phát sinh từ các hành vi pháp lý bao gồm hợp đồng và hành vi pháp lý
đơn phương chứ khơng có thẩm quyền xác lập các hành vi pháp lý để làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân thương mại. Có thể thấy, BLDS 2015 vẫn có sự
mâu thuẫn và thống nhất hồn tồn với Luật Doanh nghiệp 2020.
Về đại diện theo ủy quyền của pháp nhân, được quy định cụ thể tại Điều 138
BLDS 2015, đại diện theo ủy quyền là ý chí của cá nhân, pháp nhân (người ủy
3
4

Khoản 1 Điều 141 BLDS 2015
Khoản 4 Điều 141 BLDS 2015

3


quyền) ủy quyền cho bên được ủy quyền (đồng thời là bên đại diện). Như vậy, quan
hệ đại diện này là quan hệ nhân quả của quan hệ ủy quyền, có thể xác lập thơng qua
hợp đồng hoặc văn bản ủy quyền. Tại Khoản 2 Điều này quy định: “Các thành
viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân có thể thỏa
thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao

dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác,
tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân”. Từ “cử” là nói đến quan hệ chấp hành,
điều hành và thường gắn với quan hệ hành chính. Tuy nhiên, đại diện theo ủy
quyền của các chủ thể được quy định tại Khoản 2 Điều này khơng thể hình thành
thông qua cử người giám hộ. Về việc xác định phạm vi đại điện theo ủy quyền nhìn
chung khá rõ ràng, dễ hiểu, nội dung của điều luật với tiêu đề của điều luật thống
nhất, không bị trùng lặp giữa quy định về phạm vi đại diện với căn cứ xác lập quan
hệ đại diện và điều kiện làm phát sinh hiệu lực pháp lý của giao dịch dân sự do
người đại diện xác lập với người thứ ba.
2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật dân sự 2015 về đại diện của
pháp nhân
Để giải quyết những hạn chế về phạm vị đại diện theo pháp luật, BLDS 2015
cần dự liệu phạm vi đại diện của người đại diện hoặc các người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân có tính tổng qt, có nghĩa là cần xác định người đại diện hoặc
các người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phải đại diện cho pháp nhân đối
với bất kỳ và tất cả các công việc của pháp nhân. Người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân tư pháp chỉ đại diện cho pháp nhân trong việc xác lập các giao dịch và
thực hiện giao dịch. Do đó, BLDS 2015 cần chú ý tới việc quản trị pháp nhân của
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Bên cạnh đó, Khoản 2 Điều 138
BLDS 2015, kiến nghị thay từ “cử” thành từ “ủy quyền” để phù hợp hơn với quan
hệ xã hội được điều chỉnh.

4


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật dân sự 2015
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội
3. Luật Doanh nghiệp 2020

4. Bàn về đại diện theo pháp luật của pháp nhân trong các quy định pháp luật Việt
Nam, Vũ Lan Phương, trang thông tin congchungso1. com
5. Ngô Huy Cương (2015), “Bình luận các quy định về pháp nhân trong Dự thảo
Bộ luật Dân sự (sửa đổi)” (tr. 38 - 49), Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Số chuyên đề
sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 43.

5



×