Tải bản đầy đủ (.pdf) (197 trang)

(Luận Án Tiến Sĩ Ngôn Ngữ Học) Đối Chiếu Từ Ngữ Chỉ Tay Và Các Động Từ Biểu Thị Hoạt Động Của Tay Giữa Tiếng Hán Và Tiếng Việt.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 197 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HẢI QUỲNH ANH

ĐỐI CHIẾU TỪ NGỮ CHỈ TAY
VÀ CÁC ĐỘNG TỪ BIỂU THỊ HOẠT ĐỘNG CỦA TAY
GIỮA TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT

Ngành: Ngôn ngữ học so sánh, đối chiếu
Mã số: 9.22.20.24

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Văn Khang

HÀ NỘI – 2023


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
được nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất
kỳ cơng trình khoa học nào.
Tác giả luận án

Nguyễn Hải Quỳnh Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1


CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
LUẬN................................................................................................................ 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................ 6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới.......................................................... 6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ......................................................... 15
1.2. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 19
1.2.1. Quan niệm về từ và phân loại từ ........................................................... 19
1.2.2. Nghĩa và sự phát triển nghĩa của từ ..................................................... 25
1.2.3. Phương thức chuyển nghĩa của từ ........................................................ 33
1.2.4. Quan hệ ngữ nghĩa ................................................................................ 38
1.2.5. Lý thuyết về trường nghĩa ..................................................................... 39
1.2.6. Lý thuyết về ngôn ngữ học đối chiếu..................................................... 45
1.3. Quan điểm y học về phân chia các bộ phận cơ thể ............................. 49
1.3.1. Khái niệm giải phẫu học ....................................................................... 49
1.3.2. Các quan điểm và phương pháp trình bày giải phẫu học..................... 50
1.3.3. Quan điểm y học về phân chia các bộ phận của chi trên ..................... 51
1.4. Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................... 51
CHƢƠNG 2. ĐỐI CHIẾU TỪ NGỮ CHỈ TAY GIỮA TIẾNG HÁN VÀ
TIẾNG VIỆT ................................................................................................. 53
2.1. Giới hạn nghiên cứu ............................................................................... 53
2.2. Đối chiếu cách phân loại các từ chỉ tay và các bộ phận của tay giữa
tiếng Hán và tiếng Việt ................................................................................. 53
2.2.1. Đối chiếu cách phân loại từ chỉ tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt ....... 53
2.2.2. Đối chiếu cách phân loại các từ chỉ bộ phận của tay giữa tiếng Hán và
tiếng Việt ......................................................................................................... 54
2.3. Đối chiếu đặc điểm ngữ nghĩa của các từ chỉ tay và các bộ phận của
tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt................................................................... 62


2.3.1. Đối chiếu nghĩa của từ “手”trong tiếng Hán và từ “tay, thủ” trong tiếng Việt

........................................................................................................................................62
2.3.2. Đối chiếu nghĩa các từ chỉ bộ phận của tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt .....85
2.4. Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................. 105
CHƢƠNG 3. ĐỐI CHIẾU CÁC ĐỘNG TỪ BIỂU THỊ HOẠT ĐỘNG
CỦA TAY GIỮA TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT ................................. 109
3.1. Giới hạn vấn đề nghiên cứu................................................................. 109
3.1.1. Động từ .............................................................................................................109
3.1.2. Động từ biểu thị hoạt động của tay .................................................................110
3.2. Đối chiếu các từ chỉ hoạt động của tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt
....................................................................................................................... 111
3.2.1. Các từ chỉ hoạt động của tay trong tiếng Hán.................................... 112
3.2.2. Các từ chỉ hoạt động của tay trong tiếng Việt ................................................115
3.2.3. Những tương đồng và khác biệt .......................................................... 117
3.3. Đối chiếu nghĩa của các động từ biểu thị hoạt động của tay giữa tiếng
Hán và tiếng Việt ......................................................................................... 123
3.3.1. Đối chiếu nghĩa của một số nhóm động từ biểu thị hoạt động của tay giữa
tiếng Hán và tiếng Việt ...............................................................................................124
3.3.2. Đối chiếu nghĩa của từ biểu thị hoạt động của tay và các bộ phận của tay
giữa tiếng Hán và tiếng Việt .....................................................................................144
3.4. Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................. 152
KẾT LUẬN .................................................................................................. 154
NHỮNG CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN............................................................................. 159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 160
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 171


BẢNG QUY ƢỚC CÁCH VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN ÁN

Bộ phận cơ thể người : BPCTN

Chuyển nghĩa

: CN

Nhà xuất bản

: Nxb

[80, tr.25]

: Phần chú thích tài liệu tham khảo, trong đó
- 80: Tài liệu số 80 trong “Danh mục tài liệu
tham khảo
- Tr.25: Trang số 25


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng đối chiếu cách gọi tên các bộ phận của tay giữa tiếng Hán và tiếng
Việt ........................................................................................................................... 53
Bảng 2.2. Bảng đối chiếu số lượng từ mô tả các bộ phận của tay giữa tiếng Hán và
tiếng Việt .................................................................................................................. 55
Bảng 2.3. Nghĩa của từ “手” trong tiếng Hán ......................................................... 60
Bảng 2.4. Bảng đối chiếu nghĩa của từ “手” trong tiếng Hán và “tay, thủ” trong tiếng
Việt ........................................................................................................................... 71
Bảng 2.5. Tần số xuất hiện các từ mô tả “手臂” trong tiếng Hán ........................... 81
Bảng 2.6. Nghĩa của từ “手臂” trong tiếng Hán ...................................................... 82
Bảng 2.7. Nghĩa của từ “肘” trong tiếng Hán ......................................................... 83
Bảng 2.8. Nghĩa của từ “前臂” trong tiếng Hán ..................................................... 83
Bảng 2.9. Tần số xuất hiện các từ mô tả “手腕” trong tiếng Hán ........................... 85
Bảng 2.10. Nghĩa của từ “手腕” trong tiếng Hán ................................................... 85

Bảng 2.11. Tần số xuất hiện các từ mô tả“掌”trong tiếng Hán ........................... 86
Bảng 2.12. Nghĩa của từ “掌”trong tiếng Hán .................................................... 87
Bảng 2.13. Nghĩa của từ “手心”trong tiếng Hán ..................................................... 88
Bảng 2.14. Tần số xuất hiện các từ mô tả “指” trong tiếng Hán ............................. 89
Bảng 2.15. Nghĩa của từ “指” trong tiếng Hán ....................................................... 90
Bảng 2.16. Bảng đối chiếu số lượng nghĩa các từ chỉ bộ phận của tay giữa tiếng Hán
và tiếng Việt ............................................................................................................. 96
Bảng 3.1.Bảng tổng hợp số lượng nghĩa các động từ biểu thị hoạt động của tay và
các bộ phận của tay trong tiếng Hán ...................................................................... 109
Bảng 3.2. Bảng tổng hợp số lượng nghĩa các động từ biểu thị hoạt động của tay và
các bộ phận của tay trong tiếng Việt ...................................................................... 112
Bảng 3.3. Bảng đối chiếu phân loại trường nghĩa các động từ biểu thị hoạt động
của tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt ...................................................................... 113
Bảng 3.4. Bảng đối chiếu số lượng nghĩa các động từ biểu thị hoạt động của tay
giữa tiếng Hán và tiếng Việt .................................................................................. 117


Bảng 3.5. Bảng nghĩa các từ thuộc nhóm từ biểu thị hoạt động cầm nắm vật trong
tay trong tiếng Hán ................................................................................................. 120
Bảng 3.6. Giải thích nghĩa các từ thuộc nhóm từ biểu thị hoạt động cầm nắm vật
trong tay trong tiếng Việt ....................................................................................... 121
Bảng 3.7. Đối chiếu các từ thuộc nhóm từ biểu thị hoạt động cầm nắm của tay giữa
tiếng Hán và tiếng Việt .......................................................................................... 122
Bảng 3.8. Giải thích nghĩa các từ thuộc nhóm từ biểu thị hoạt động dùng tay (hoặc
dụng cụ) gõ, đập lên vật thể trong tiếng Hán ....................................................... 128
Bảng 3.9. Giải thích nghĩa các từ thuộc nhóm từ biểu thị hoạt động dùng tay (hoặc
dụng cụ) gõ, đập lên vật thể trong tiếng Việt ......................................................... 129
Bảng 3.10. Bảng đối chiếu các từ thuộc nhóm từ biểu thị hoạt động dùng tay (hoặc
dụng cụ) gõ, đập lên vật thể giữa tiếng Hán và tiếng Việt .................................... 130
Bảng 3.11. Giải thích nghĩa các từ thuộc nhóm từ biểu thị hoạt động đặt, để vật thể

ở vị trí nào đó trong tiếng Hán ............................................................................... 135
Bảng 3.12. Giải thích nghĩa các từ thuộc nhóm từ biểu thị hoạt động đặt, để vật thể
ở vị trí nào đó trong tiếng Việt ............................................................................... 135
Bảng 3.13. Đối chiếu các từ thuộc nhóm từ biểu thị hoạt động đặt, để vật thể ở vị trí
nào đó giữa tiếng Hán và tiếng Việt ....................................................................... 136
Bảng 3.14. Nghĩa của từ “拿” trong tiếng Hán và từ “cầm” trong tiếng Việt ...... 141
Bảng 3.15. Nghĩa của từ “摸” trong tiếng Hán và từ “sờ” trong tiếng Việt ......... 146
Bảng 3.16. Nghĩa của từ “挠” trong tiếng Hán và từ “gãi” trong tiếng Việt ........ 148

Hình 2.1. Độ mở của tử cung trong quá trình chuyển dạ ......................................... 91
Hình 2.2. Dùng hoa quả để so sánh độ mở của tử cung ........................................... 92


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Phân loại ngôn ngữ học đối chiếu trong tiếng Hán ................................ 43
Sơ đồ 2.1. Các từ chỉ bộ phận của tay trong tiếng Việt ........................................... 53
Sơ đồ 2.2. Sự chuyển nghĩa của từ “手” dựa theo đặc điểm vật lý .......................... 63
Sơ đồ 2.3. Sự chuyển nghĩa của từ “手” dựa theo đặc điểm chức năng .................. 67
Sơ đồ 2.4. Sự chuyển nghĩa của từ “tay” trong tiếng Việt ...................................... 70


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1) Việc nghiên cứu nghĩa từ là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của ngơn ngữ học. Từ các góc độ nghiên cứu khác nhau, các nhà ngôn ngữ
học sẽ đưa ra cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu ý nghĩa của từ khác
nhau. Trong đó, lý thuyết về trường nghĩa (semantic field theory) là một trong
những lý thuyết quan trọng trong ngữ nghĩa học truyền thống.
2) Nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người (BPCTN) và hoạt động của các
bộ phận này là một mảng từ vựng rất quan trọng trong bất kỳ ngơn ngữ nào.

Trong đó, tay là một trong những bộ phận mà con người tìm hiểu và nhận biết
sớm nhất và từ ngữ chỉ tay là nhóm từ vựng quan trọng của từ chỉ BPCTN.
Cho đến nay, ngôn ngữ học thế giới cũng như Việt ngữ học đã có khơng ít
cơng trình nghiên cứu (dưới dạng sách chuyên khảo, luận án, bài báo…) về
nhóm từ này với mức độ khác nhau và từ các góc nhìn khác nhau. Các từ chỉ
tay và các động tác của tay giữa các ngơn ngữ có một đặc điểm chung là: mặc
dù cùng là tay và hoạt động tay của con người, nhưng do sự phân chia các bộ
phận của tay cũng như hoạt động của tay có sự khác nhau giữa các dân tộc
nên giữa các ngôn ngữ, bên cạnh các từ chung cịn có các từ khác nhau. Thứ
nữa, bên cạnh nghĩa cơ bản (còn gọi là “nghĩa gốc”, “nghĩa đen”) của từ tay
và hoạt động của tay giống nhau thì cịn những khác biệt ở nghĩa phái sinh.
Có thể nói, tùy theo các đặc điểm riêng của mỗi ngôn ngữ cũng như đặc điểm
về phương thức cấu tạo từ và kèm theo nó là các đặc điểm về nhận thức, tư
duy của cộng đồng sẽ có những cách thức chuyển nghĩa, cách biểu đạt khác
nhau. Vì thế, chỉ khi đối chiếu mới có thể thấy được nét tương đồng cũng như
sự dị biệt giữa chúng trong từng ngôn ngữ.
3) Đến nay, những nghiên cứu về đối chiếu các đơn vị từ vựng trong
tiếng Hán và tiếng Việt đã được thực hiện rất nhiều, trong đó đối chiếu giữa
các động từ và danh từ được thực hiện nhiều nhất, vì đây là hai thực từ cơ bản
trong hệ thống từ loại của hai ngôn ngữ này. Khi khảo sát các động từ biểu thị
hoạt động của tay, chúng tôi thấy số lượng các động từ của nhóm từ này vơ
cùng phong phú và có nhiều ý nghĩa hơn cả.
1


4) Theo những nguồn tư liệu mà chúng tôi tiếp cận được thì hiện việc
nghiên cứu các từ chỉ tay và các động từ biểu thị hoạt động của tay trong tiếng
Hán và tiếng Việt chủ yếu là các nghiên cứu đơn lẻ và đối chiếu cũng đối chiếu
theo từng mảng cụ thể. Nói cách khác, cho đến nay, chưa có cơng trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống, tồn diện theo hướng đối chiếu ngữ nghĩa của

nhóm từ này giữa tiếng Hán và tiếng Việt.
Vì những lý do nêu trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Đối chiếu từ
ngữ chỉ tay và các động từ biểu thị hoạt động của tay giữa tiếng Hán và
tiếng Việt”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lý thuyết ngữ nghĩa học truyền thống, luận án khảo sát, miêu
tả đặc điểm nghĩa và khả năng kết hợp của các từ chỉ tay, các bộ phận của tay
và các từ chỉ hoạt động của tay trong tiếng Hán và trong tiếng Việt; từ đó đối
chiếu để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt của chúng giữa hai ngơn ngữ.
Kết quả nghiên cứu góp phần vào nghiên cứu nghĩa của từ, đối chiếu
song ngữ Hán-Việt dưới tác động của các nhân tố ngơn ngữ- văn hóa- xã hội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên, luận án phải giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước về những nội
dung liên quan đến đề tài nghiên cứu; từ đó, xây dựng cơ sở lý thuyết cho đề
tài luận án;
- Miêu tả và đối chiếu từ ngữ chỉ tay trong tiếng Hán và tiếng Việt;
- Miêu tả và đối chiếu các động từ biểu thị hoạt động của tay trong
tiếng Hán và tiếng Việt.
- Phân tích chỉ ra các nhân tố ngơn ngữ-văn hóa-xã hội chi phối sự
tương đồng và khác biệt của các từ chỉ tay và hoạt động của tay giữa tiếng
Hán và tiếng Việt.
2


3. Đối tƣợng, phạm vi và tƣ liệu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các từ ngữ chỉ tay và các động từ

biểu thị hoạt động của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án chọn cách tiếp cận các từ chỉ tay, các bộ phận của tay và hoạt động
của tay chủ yếu theo cách phân chia của ngôn ngữ, cụ thể là: các từ ngữ chỉ tay, bộ
phận của tay và hoạt động của tay hiện có, đang được sử dụng trong tiếng Hán và
trong tiếng Việt. Riêng đối với các từ ngữ chỉ các bộ phận của tay, luận án có
tham khảo cách phân chia bộ phận tay của y học để đối chứng, từ đó, xác lập danh
sách thống kê các từ ngữ chỉ bộ phận của tay ở hai ngôn ngữ.
3.3. Tư liệu nghiên cứu
Để tìm hiểu quá trình chuyển nghĩa của các từ chỉ tay và các động từ
biểu thị hoạt động của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt, các từ nghiên cứu
trong luận án được lấy trong một số từ điển tiếng Hán và tiếng Việt bao gồm:
1) Nguồn tư liệu từ điển
+ Từ điển tiếng Hán:
- 现代汉语词典(第七版)(Từ điển tiếng Hán hiện đại (tái bản lần thứ
7) ) [109];
- 现代汉语频率词典(Từ điển tần suất tiếng Hán hiện đại) [66];
- 汉语大词典(第 6 卷)(Đại từ điển tiếng Hán) (quyển số 6) [74];
- 现代汉语动词大词典 (Đại từ điển động từ tiếng Hán hiện đại) [77];
- 汉语动词用法词典 (Từ điển cách dùng động từ tiếng Hán) [68];
+ Từ điển tiếng Việt:
- Từ điển tiếng Việt (2015), Hoàng Phê (chủ biên) [34];
- Từ điển Hán - Việt (汉越词典) Phan Văn Các (chủ biên) (2002) [3].
2) Nguồn từ liệu khác
+ Nguồn tư liệu trong tiếng Hán:
- 北京语言大学汉语语料库 (Kho ngữ liệu tiếng Hán của Đại học
Ngôn ngữ Bắc Kinh), thông qua website />3


- 国家语委古代汉语语料库(Kho ngữ liệu tiếng Hán Cổ đại của Ủy ban

Ngôn ngữ Quốc gia),thông qua website
+ Nguồn tư liệu trong tiếng Việt:
- Kho ngữ liệu tiếng Việt của Vietlex (Vietlex Corpus), thông qua website
/>- Một số truyện ngắn trên tạp chí Hội nhà văn, tạp chí Văn nghệ: Ngược
dịng nước lũ, Ma Văn Kháng (2000); 15 truyện ngắn, Lưu Quang Vũ (2000);
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường (1991)… .
+ Cách thu thập tài liệu
Thông qua khảo sát các từ điển, điều tra thực tế cũng như vốn hiểu biết
ngôn ngữ tiếng Hán và tiếng Việt của bản thân, chúng tôi lên danh sách các từ
chỉ tay và bộ phận của tay, các từ biểu thị hoạt động của tay trong tiếng Hán
và tiếng Việt. Từ những dữ liệu thu được, chúng tơi phân tích, thống kê và
tổng hợp để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai ngôn ngữ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp và thủ pháp sau: phương pháp miêu
tả, phương pháp của ngôn ngữ học đối chiếu và cách tiếp cận liên ngành.
a. Phương pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả sử dụng các thủ pháp thống kê nhằm cung cấp các
thông tin định lượng cần thiết cho việc mô tả, nhận xét, đánh giá về đặc điểm
cấu trúc, ngữ nghĩa, xu hướng sử dụng các từ ngữ chỉ tay, các bộ phận của tay và
các động từ biểu thị hoạt động của tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt.
b. Phương pháp của ngôn ngữ học đối chiếu
Luận án sử dụng phương pháp của ngôn ngữ học đối chiếu nhằm tìm ra
những nét tương đồng và dị biệt giữa hai ngơn ngữ, từ đó có thể tìm ra những
nét phổ quát và đặc trưng văn hóa của người Trung Quốc và người Việt Nam
qua việc sử dụng các từ ngữ chỉ tay và các động từ biểu thị hoạt động của tay.
c. Cách tiếp cận liên ngành
Luận án sử dụng cách tiếp cận liên ngành để giải thích các hiện tượng
của ngơn ngữ, cụ thể: việc phân chia các bộ phận của tay và hành động của
tay theo tư duy của mỗi dân tộc.
4



5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Áp dụng lý thuyết trường nghĩa để nghiên cứu một cách hệ thống các
từ chỉ tay và các động từ biểu thị hoạt động của tay, từ đó chỉ ra những điểm
tương đồng và khác biệt.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
- Góp phần vào nghiên cứu trường nghĩa;
- Góp phần vào nghiên cứu ngôn ngữ học đối chiếu cụ thể là đối chiếu
Hán - Việt và chỉ ra được các nhân tố ngơn ngữ và ngồi ngơn ngữ chi phối
sự giống nhau và khác nhau giữa chúng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Góp phần vào giảng dạy tiếng Hán và tiếng Việt như một ngoại ngữ;
- Góp phần làm sáng tỏ các đặc điểm của tay và các từ chỉ tay cũng như
các hoạt động của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt;
- Vận dụng các kết quả nghiên cứu của luận án để biên soạn từ điển,
biên soạn sách học ngoại ngữ Hán – Việt, Việt – Hán cũng như trở thành tài
liệu tham khảo hỗ trợ cho công tác dịch thuật.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
gồm ba chương sau đây:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận
Chương 2: Đối chiếu từ ngữ chỉ tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt
Chương 3: Đối chiếu các động từ biểu thị hoạt động của tay giữa tiếng
Hán và tiếng Việt

5



CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ vựng chỉ bộ phận cơ thể người (BPCTN) ngoài việc dùng để chỉ cơ
thể con người, còn được sử dụng rất nhiều trong giao tiếp hàng ngày ở nhiều
ngơn ngữ. Để có được cái nhìn tồn diện về các khía cạnh và hướng nghiên
cứu của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Hán và tiếng Việt, đồng thời tìm ra
những khoảng trống, những vấn đề chưa được đề cập đến hoặc đi sâu nghiên
cứu để có thể tiếp tục nghiên cứu trong luận án, trong chương này, chúng tôi
sẽ tổng hợp các công trình nghiên cứu của các học giả đi trước về nhóm từ
này. Theo thống kê của chúng tơi, hiện tại việc nghiên cứu nhóm từ chỉ
BPCTN thường được các nhà ngôn ngữ học, các học giả nghiên cứu dựa trên
các bình diện: bình diện ngữ nghĩa học truyền thống và bình diện ngơn ngữ
học tri nhận.
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.1. Từ bình diện ngữ nghĩa học truyền thống
Về vấn đề này, đầu tiên phải kể đến nghiên cứu “Variational
Semantics in Tibeto-Burman” (Biến thể từ vựng trong tiếng Tạng – Miến
Điện) của Matisoff (1978). Trong nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng các từ
chỉ BPCTN làm những từ căn bản rồi dùng phương pháp so sánh để nêu ra
những khác biệt về ngữ nghĩa giữa các ngôn ngữ trong ngữ hệ của Tây Tạng
và Miến Điện. Tác giả đã nghiên cứu tính đa nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN
và chỉ ra rằng dựa theo các tiêu chuẩn phân loại khác nhau, nhóm từ chỉ
BPCTN có thể thuộc nhiều loại khác nhau [58].
Tác giả Rubal (1994) với “Metaphors of the Body” (Ẩn dụ từ vựng
chỉ bộ phận cơ thể người) đã nghiên cứu ẩn dụ dùng từ ngữ chỉ các BPCTN
từ quan điểm đa văn hóa và nghiên cứu cơ thể con người ảnh hưởng thế nào
đến quan sát, trải nghiệm thế giới của con người hoặc bị ảnh hưởng bởi thế
giới quan [61].
Trong nghiên cứu “Body-Part Metaphors: A Cross-Cultural Survey

of the Perception of Translatability Among Americans and Japanese”
(Ẩn dụ về bộ phận cơ thể: Khảo sát liên văn hóa trong nhận thức về khả năng
6


dịch giữa người Mỹ và người Nhật), các tác giả Sakuragi Toshiyuki và Judith
W. Fuller(2003)đã thông qua một cuộc khảo sát thực nghiệm đối với sinh
viên Đại học ở hai nước Anh và Nhật Bản, từ đó nghiên cứu khả năng chuyển
dịch các phép ẩn dụ từ biểu thị BPCTN giữa tiếng Anh và tiếng Nhật [62].
Các tác giả Anastasia Egorovna Shamaeva, Svetlana Mitrofanovna
Prokopieva (2018) với nghiên cứu “Mongolian Loanwords in the Figurative
Words of the Yakut Language (Illustrated by Verbs of Body Parts)” (Từ mượn
tiếng Mông Cổ trong từ tượng hình của ngơn ngữ Yakut (Minh họa bằng các
động từ chỉ bộ phận cơ thể người)) đã chỉ ra rằng, các từ tượng hình chiếm một
vị trí đặc biệt trong từ vựng tiếng Mơng Cổ. Do đó, nhóm tác giả đã nghiên cứu
từ vựng tiếng Mông Cổ thông qua các từ tượng hình của ngơn ngữ Yakut để chỉ
ra các đặc điểm giống nhau và khác nhau về nghĩa của các từ tượng hình biểu thị
hoạt động trong ngơn ngữ Yakut và các từ ngữ trong tiếng Mông Cổ [53].
Nabil Dhafer (2020) trong nghiên cứu “Conceptualization of
Metonymy Denoting Human Body Parts: (eye and hand) Idioms in English and
Yemen” (Khái niệm hóa hốn dụ từ biểu thị bộ phận cơ thể người: các thành
ngữ (có chứa từ mắt và tay) trong tiếng Anh và tiếng Yemen) đã khảo sát một
số từ chỉ BPCTN cũng như các thành ngữ có chứa các bộ phận cơ thể của con
người được sử dụng theo nghĩa ẩn dụ và hoán dụ trong các ngữ cảnh khác
nhau, để từ đó chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong ngôn ngữ của
những người ở các nền văn hóa nói tiếng Ả Rập (Yemen) và tiếng Anh [60].
Ở Trung Quốc, các cơng trình nghiên cứu liên quan đến từ chỉ BPCTN
cũng chiếm một số lượng đáng kể.
Tác giả 朱莹莹 (Chu Oánh Oánh ) (2007), trong nghiên cứu “手部动


作常用词的语义场研究”(Nghiên cứu trường từ vựng - ngữ nghĩa của các
từ thông dụng chỉ hoạt động của tay), đã dựa vào lý thuyết trường từ vựng –
ngữ nghĩa và hai bình diện lịch sử của tiếng Hán thượng cổ và tiếng Hán hiện
đại làm phạm vi nghiên cứu, tiến hành miêu tả một cách hệ thống sự khác biệt
của các từ thông dụng biểu thị hoạt động của tay trong hai bình diện lịch sử
này. Kết quả đối chiếu cho thấy, xét về tính khách quan của khái niệm và tính
lịch sử của trường từ vựng – ngữ nghĩa, trong xã hội thời thượng cổ và thời
7


hiện đại, việc con người sử dụng các động tác của tay là yếu tố khách quan và
đồng nhất, chỉ là các từ hoặc các cụm từ trong ngôn ngữ được sử dụng để diễn
đạt ở các giai đoạn lịch sử khác nhau thì khác nhau, dẫn đến trường từ vựng ngữ nghĩa đại diện cho cùng một khái niệm đã có sự thay đổi và nhóm trường
từ vựng – ngữ nghĩa chỉ các động từ biểu thị hoạt động của tay trong tiếng
Hán hiện đại phong phú hơn trong tiếng Hán thượng cổ [105].
Tác giả 黄碧蓉 (Hồng Bích Dung) (2009) trong“人体词语语义研究”

(Nghiên cứu ngữ nghĩa của từ chỉ bộ phận cơ thể người), đã tập trung nghiên
cứu chi tiết hệ thống ngữ nghĩa của hai từ chỉ BPCTN là 手(tay)và “眼”
(mắt) để từ đó nghiên cứu hệ thống ý nghĩa của các từ chỉ BPCTN. Tác giả cũng
thông qua đối chiếu sự chuyển nghĩa các từ chỉ BPCTN giữa tiếng Hán và tiếng
Anh, chỉ ra những quy tắc và đặc điểm chung và riêng về nội dung cũng như số
lượng chuyển nghĩa giữa hai ngôn ngữ. Theo tác giả, sự chuyển nghĩa của nhóm
từ chỉ BPCTN chủ yếu thơng qua phương thức ẩn dụ và hoán dụ. Luận án đã
tiến hành phân tích và nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về ngữ nghĩa
của từ chỉ BPCTN tuy nhiên mới chỉ tập trung nghiên cứu nghĩa của từ chỉ
BPCTN có trong từ điển, hơn nữa việc khảo sát nghĩa của từ chủ yếu là nghĩa
gốc mà bỏ qua việc phân tích nghĩa phái sinh của từ [97].
Trong nghiên cứu “现代汉语“拿”类单音节手部动词研究(Nghiên
cứu về nhóm động từ đơn âm tiết biểu thị hoạt động của tay trong tiếng Hán

hiện đại), 刘倩忠(Lưu Thiến Trung ) (2011) đã lấy nhóm động từ đơn âm tiết
“拿” (cầm, nắm, mang,…) làm đối tượng nghiên cứu. Từ góc độ ngữ nghĩa,
tác giả đã chia nhóm từ này thành các tiểu trường để tìm ra những điểm giống
nhau và khác nhau về mặt cú pháp của chúng. Tác giả cho rằng nhóm từ này
chỉ sử dụng hạn chế trong một số trường hợp [110].
Trong nghiên cứu “汉泰手部动词词义不对等研究”(Nghiên cứu sự
không tương đồng về ý nghĩa của các từ chỉ hoạt động của tay giữa tiếng Hán
và tiếng Thái), tác giả Ratchadapun Wongleang (2015) đã thông qua việc
nghiên cứu hiện tượng không tương đồng về ý nghĩa của các động từ biểu thị
hoạt động của tay trong tiếng Hán và tiếng Thái, chỉ ra những điểm khác biệt
giữa các nghĩa tố cụ thể, từ đó tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến nghĩa của từ và
8


giải thích ngun nhân dẫn đến sự khác biệt đó. Từ góc độ đối chiếu ngơn ngữ
học, nghiên cứu khơng chỉ chứng minh được tính tương đồng và đặc điểm khác
biệt của các từ trong cùng một hệ ngôn ngữ, mà cịn chỉ ra nghĩa cơ bản, nghĩa
văn hóa xã hội, nghĩa ngữ dụng của từ trong các ngôn ngữ khác nhau [95].
Ngồi những cơng trình nghiên cứu kể trên, cịn có rất nhiều các nghiên
cứu cũng dựa theo hướng nghiên cứu này đã được thực hiện như: 陈德琳
(Trần Đức Lâm) (2009) [83], 孙冬梅 (Tôn Đông Mai) (2008) [88], 杜玉凤
(Đỗ Ngọc Phượng) (2017) [92], 刘亚枫、程 昕 (Lưu Á Phong, Trình Hân)
(2020) [ 73]… .
1.1.1.2. Từ bình diện Ngơn ngữ học tri nhận
Trong các báo cáo được đăng tại Hội nghị ngôn ngữ học Nhận thức
Vương quốc Anh lần thứ 4, nghiên cứu “From human body parts to the
embodiment of spatial conceptualization in English idioms” (Từ bộ phận cơ
thể người đến hiện thân của khái niệm không gian trong thành ngữ tiếng Anh)
của tác giả Larissa Manerko (2014) đã tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa
“tâm trí” và “cơ thể”, cụ thể là từ các bộ phận cơ thể con người đến hiện thân

của khơng gian, ý niệm hóa trong thành ngữ tiếng Anh. Kết quả nghiên cứu
đã chứng minh được ngơn ngữ có mối liên hệ chặt chẽ với các quá trình nhận
thức tri giác, nhận biết đối tượng với các đặc điểm trong khơng gian. Trong
đó, nhận thức về khơng gian đóng vai trị quan trọng nhất trong việc mã hóa
kiến thức của con người về khơng gian cũng như tư duy của con người và
cách xử lý ngôn ngữ [57].
Ở Trung Quốc, trong những năm gần đây, việc nghiên cứu từ chỉ
BPCTN dựa trên lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận đã nhận được sự quan tâm
của đông đảo các học giả.
Luận án “基于语料库的现代汉语手部动词研究”(Nghiên cứu các từ
chỉ hoạt động của tay trong tiếng Hán hiện đại dựa vào kho ngữ liệu) của 吕
艳辉(Lã Diễm Huy) (2008), đã dựa trên lý thuyết về từ vựng học, ngữ pháp
học và ngôn ngữ học tri nhận, kết hợp với các khái niệm và ý nghĩa mà các
động từ biểu thị hoạt động của tay biểu đạt, tiến hành nghiên cứu chi tiết và
toàn diện các động từ biểu thị hoạt động của tay. Mặc dù luận án đã khái quát
9


được các quy tắc kết hợp của từ biểu thị hoạt động của tay từ góc độ đồng đại,
tuy nhiên chưa đề cập đến sự so sánh các từ chỉ hoạt động của tay từ góc độ
lịch đại [78].
Tác giả 阮氏黎心(Nguyễn Thị Lê Tâm ) (2011) trong nghiên cứu “汉

越人体名词隐喻对比研究” (Nghiên cứu đối chiếu ẩn dụ các danh từ chỉ bộ
phận cơ thể người giữa tiếng Hán và tiếng Việt), đã giải thích các đặc điểm
ngữ nghĩa của từ chỉ BPCTN trong tiếng Hán và tiếng Việt từ góc độ ngôn
ngữ học tri nhận. Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy, hiện tượng chuyển
loại các danh từ chỉ BPCTN trong tiếng Hán và tiếng Việt khá nhiều. Theo
tác giả, ánh xạ ẩn dụ về BPCTN là một mối quan hệ phức tạp, không phải là
mối quan hệ ánh xạ một chiều đơn giản “từ gần đến xa”, từ miền ánh xạ

BPCTN đến thế giới sự vật bên ngoài. Trên thực tế, ánh xạ có thể là hai chiều,
thậm chí nhiều khi rất khó để phân biệt đâu là miền nguồn và đâu là miền
đích. Mặc dù luận án đã đạt được một số kết quả nghiên cứu, tuy nhiên ở một
số chương mục, việc khảo sát hiện tượng ngơn ngữ cịn sơ sài, các ví dụ cịn
ít, đặc biệt khả năng phân tích và lập luận vẫn chưa thực sự thuyết phục [101].
Trong nghiên cứu“汉越语“手”类词语隐喻和转喻对比研究”
(Nghiên cứu đối chiếu ẩn dụ và hoán dụ từ chỉ “tay” trong tiếng Hán và tiếng
Việt), tác giả 阮氏乔泠(Nguyễn Thị Kiều Linh ) (2020) đã dựa trên lý thuyết
ẩn dụ ý niệm của Lakoff & Johnson và lý thuyết hoán dụ ý niệm của Radden &
Kovecses để tiến hành phân loại và phân tích cơ chế cấu tạo ẩn dụ, hốn dụ của
từ “tay” trong tiếng Hán và tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu cho thấy, về phương
diện ẩn dụ, các từ chỉ “tay” trong tiếng Hán và tiếng Việt đều được phản ánh
qua ba phạm trù ẩn dụ: ẩn dụ định hướng, ẩn dụ bản thể và ẩn dụ cấu trúc; về
mặt hốn dụ, đều có thể chỉ “người” dựa trên mối quan hệ hốn dụ lấy bộ phận
chỉ tồn thể. Mặc dù tác giả đã cố gắng phân tích các nghĩa của từ chỉ tay trong
tiếng Hán và tiếng Việt cũng như chỉ ra điểm tương đồng và dị biệt, tuy nhiên
với những từ vừa có thể chuyển nghĩa ẩn dụ, vừa có thể chuyển nghĩa hốn dụ
thì những lập luận tác giả đưa ra vẫn chưa đầy đủ và rõ ràng [84].
Trên đây là một số cơng trình nghiên cứu về từ chỉ BPCTN dưới góc độ
ngơn ngữ học tri nhận. Ngồi những nghiên cứu kể trên, hiện cịn khá nhiều
10


các bài viết, luận văn, luận án khác cũng đi theo hướng nghiên cứu này như:
赵学德 (Triệu Học Đức)(2010) [70], 孙崇飞 (Tôn Sùng Phi) (2012) [91],
马春媛 (Mã Xuân Viện)(2010) [108]… .
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Cũng như mọi ngơn ngữ, tiếng Việt cũng có các từ chỉ BPCTN và đây
được coi là nhóm từ thuộc vốn từ cơ bản của ngơn ngữ. Do đó, nhóm từ này
cũng đón nhận được sự quan tâm của rất nhiều học giả.

Theo thống kê của chúng tôi, đến thời điểm hiện tại, nghiên cứu của
các học giả ở Việt Nam về các từ chỉ BPCTN cũng chủ yếu tập trung ở các
bình diện: bình diện ngữ nghĩa học truyền thống và bình diện ngơn ngữ học
tri nhận.
1.1.2.1. Từ bình diện ngữ nghĩa học truyền thống
Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có một số bài báo, sách
chuyên luận, luận văn, luận án nghiên cứu đặc điểm quá trình chuyển nghĩa
của từ chỉ BPCTN từ góc độ bình diện ngữ nghĩa học truyền thống.
Cơng trình đầu tiên phải kể đến là cuốn sách chuyên khảo “汉越人手

动作单音节动词研究” (Nghiên cứu nhóm động từ đơn âm tiết biểu thị động
tác tay trong tiếng Hán và tiếng Việt” của Đỗ Thị Thanh Huyền (2020). Từ
phương diện tiếp xúc ngôn ngữ và phương diện so sánh đồng đại ngôn ngữ,
đồng thời vận dụng lý luận trường ngữ nghĩa, tác giả đã tiến hành so sánh đối
chiếu 70 động từ đơn tiết biểu thị các động tác tay được lựa chọn trong “Đại
cương từ vựng HSK”. Kết quả so sánh đối chiếu cho thấy số lượng các động
từ đơn tiết biểu thị các động tác tay đã vay mượn và chưa vay mượn trong
tiếng Hán và trong tiếng Việt là tương đương nhau. Kết quả nghiên cứu cịn
cho thấy có 4 loại quan hệ giữa động từ biểu thị động tác tay trong tiếng Hán
và tiếng Việt. Về sự phát triển nghĩa của nhóm động từ này, theo tác giả về
nghĩa cơ bản của động từ giữa hai ngôn ngữ là như nhau nhưng sự phát triển
về ngữ nghĩa của động từ trong hai ngơn ngữ có nhiều điểm khác biệt. Ngoài
ra, khả năng tạo từ trong tiếng Hán phong phú hơn trong tiếng Việt. Mặc dù
công trình nghiên cứu đã đạt được một số kết quả quan trọng, đã chỉ ra được
những điểm khác biệt trong q trình phát triển ngữ nghĩa của nhóm động từ
11


biểu thị động tác tay trong tiếng Hán và tiếng Việt, tuy nhiên phạm vi nghiên
cứu mới chỉ giới hạn ở một số động từ đơn âm tiết thông dụng biểu thị động

tác của tay xuất hiện trong “Đại cương từ vựng HSK” mà trên thực tế ngoài
những nội dung được đề cập đến trong sách, còn rất nhiều hiện tượng ngôn
ngữ đáng được so sánh [24].
Cầm Tú Tài (2008) với nghiên cứu “Ngữ cố định: Có chứa từ chỉ bộ
phận cơ thể tiếng Hán trong sự so sánh với tiếng Việt” đã nghiên cứu nguồn
gốc, cấu trúc, đặc điểm của 2.601 thành ngữ tiếng Trung có chứa các từ chỉ
BPCTN (trong đó có 1.021 thành ngữ, 508 quán dụng ngữ, 558 yết hậu ngữ
và 514 tục ngữ) và nội hàm văn hóa để tiến hành so sánh đối chiếu về nội
hàm văn hóa, kết cấu ngữ nghĩa, chức năng ngữ pháp, cấu trúc hình thức, loại
hình của các tục ngữ có từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt, từ đó chỉ ra những
tương đồng và khác biệt của các ngữ cố định có chứa từ chỉ BPCTN trong hai
ngơn ngữ. Đây có thể được coi là một cơng trình nghiên cứu khá toàn diện về
so sánh ngữ cố định giữa tiếng Hán và tiếng Việt và có giá trị tham khảo cao
đối với việc nghiên cứu cũng như giảng dạy tiếng Hán ở Việt Nam hiện nay [38].
Luận án của Chăn Phômmavông(1999)“Đặc điểm định danh và
hiện tượng chuyển nghĩa trong trường từ vựng tên gọi bộ phận cơ thể con
người tiếng Lào”, đã vận dụng quan niệm về lý thuyết tính hệ thống của từ
vựng, đặc biệt là lý thuyết về trường từ vựng ngữ nghĩa để nghiên cứu về vấn
đề đặc điểm định danh và hiện tượng chuyển nghĩa của trường từ vựng – ngữ
nghĩa các tên gọi BPCTN trong tiếng Lào. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các
từ chỉ BPCTN của tiếng Lào cũng có thể khác về phạm vi biểu vật so với từ
tương đương trong tiếng Việt. Sự chia cắt thực tế khách quan các từ chỉ
BPCTN trong tiếng Lào và tiếng Việt cũng có điểm khác biệt. Mặc dù luận án
đã khái quát được hiện tượng chuyển nghĩa của các tên gọi BPCTN trong
tiếng Lào, tuy nhiên phần đối chiếu với các từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt
chỉ mang tính tương đối, chưa triệt để. Khi đối chiếu, tác giả chủ yếu liệt kê
mà không kiến giải được nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau trong phân chia
các BPCTN giữa hai ngôn ngữ [4].
Tác giả Trần Văn Tiếng (2009) với bài viết “Về những từ chỉ bộ phận
cơ thể người dùng theo nghĩa hoán dụ trong tiếng Hàn”, đã tập trung khảo sát

12


một số từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Hàn được dùng theo nghĩa
hốn dụ. Thơng qua việc khảo sát các từ chỉ BPCTN như “mắt, mũi, miệng,
tai, đầu, tay”, tác giả đã chỉ ra rằng các từ chỉ BPCTN dùng theo nghĩa hoán
dụ trong tiếng Hàn cũng có nhiều nét tương đồng với tiếng Việt. Bên cạnh đó,
việc kết hợp các từ chỉ BPCTN với các từ khác dựa trên đặc điểm ngơn ngữ
văn hóa là nét riêng trong cách thể hiện của người Việt và người Hàn. Từ
“tay” trong tiếng Hàn chủ yếu là nét nghĩa chức năng và có thể chuyển nghĩa
thành 6 tiểu trường [40].
Ngồi những cơng trình nghiên cứu trình bày ở trên, tiếp tục với hướng
nghiên cứu này, hiện ở Việt Nam cịn có một số cơng trình nghiên cứu cũng
rất đáng được quan tâm: Mã Thị Hiển (2009) [19], Đào Duy Tùng (2017) [49],
Nguyễn Thị Vui (2002) [52], Trần Thị Minh (2009) [30]…
1.1.1.2. Từ bình diện Ngơn ngữ học tri nhận
Trong các báo cáo được đăng tại Hội nghị ngôn ngữ học Nhận thức
Vương quốc Anh lần thứ 4, nghiên cứu “From human body parts to the
embodiment of spatial conceptualization in English idioms” (Từ bộ phận cơ
thể người đến hiện thân của khái niệm không gian trong thành ngữ tiếng Anh)
của tác giả Larissa Manerko (2014) đã tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa
“tâm trí” và “cơ thể”, cụ thể là từ các bộ phận cơ thể con người đến hiện thân
của khơng gian, ý niệm hóa trong thành ngữ tiếng Anh. Kết quả nghiên cứu
đã chứng minh được ngơn ngữ có mối liên hệ chặt chẽ với các quá trình nhận
thức tri giác, nhận biết đối tượng với các đặc điểm trong khơng gian. Trong
đó, nhận thức về khơng gian đóng vai trị quan trọng nhất trong việc mã hóa
kiến thức của con người về khơng gian cũng như tư duy của con người và
cách xử lý ngôn ngữ [57].
Ở Trung Quốc, trong những năm gần đây, việc nghiên cứu từ chỉ
BPCTN dựa trên lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận đã nhận được sự quan tâm

của đông đảo các học giả.
Luận án “基于语料库的现代汉语手部动词研究”(Nghiên cứu các từ
chỉ hoạt động của tay trong tiếng Hán hiện đại dựa vào kho ngữ liệu) của 吕
艳辉(Lã Diễm Huy) (2008), đã dựa trên lý thuyết về từ vựng học, ngữ pháp
13


học và ngôn ngữ học tri nhận, kết hợp với các khái niệm và ý nghĩa mà các
động từ biểu thị hoạt động của tay biểu đạt, tiến hành nghiên cứu chi tiết và
toàn diện các động từ biểu thị hoạt động của tay. Mặc dù luận án đã khái quát
được các quy tắc kết hợp của từ biểu thị hoạt động của tay từ góc độ đồng đại,
tuy nhiên chưa đề cập đến sự so sánh các từ chỉ hoạt động của tay từ góc độ
lịch đại [78].
Tác giả 阮氏黎心(Nguyễn Thị Lê Tâm ) (2011) trong nghiên cứu “汉

越人体名词隐喻对比研究” (Nghiên cứu đối chiếu ẩn dụ các danh từ chỉ bộ
phận cơ thể người giữa tiếng Hán và tiếng Việt), đã giải thích các đặc điểm
ngữ nghĩa của từ chỉ BPCTN trong tiếng Hán và tiếng Việt từ góc độ ngôn
ngữ học tri nhận. Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy, hiện tượng chuyển
loại các danh từ chỉ BPCTN trong tiếng Hán và tiếng Việt khá nhiều. Theo
tác giả, ánh xạ ẩn dụ về BPCTN là một mối quan hệ phức tạp, không phải là
mối quan hệ ánh xạ một chiều đơn giản “từ gần đến xa”, từ miền ánh xạ
BPCTN đến thế giới sự vật bên ngoài. Trên thực tế, ánh xạ có thể là hai chiều,
thậm chí nhiều khi rất khó để phân biệt đâu là miền nguồn và đâu là miền
đích. Mặc dù luận án đã đạt được một số kết quả nghiên cứu, tuy nhiên ở một
số chương mục, việc khảo sát hiện tượng ngơn ngữ cịn sơ sài, các ví dụ cịn
ít, đặc biệt khả năng phân tích và lập luận vẫn chưa thực sự thuyết phục [101].
Trong nghiên cứu“汉越语“手”类词语隐喻和转喻对比研究”
(Nghiên cứu đối chiếu ẩn dụ và hoán dụ từ chỉ “tay” trong tiếng Hán và tiếng
Việt) tác giả 阮氏乔泠(Nguyễn Thị Kiều Linh ) (2020) đã dựa trên lý thuyết

ẩn dụ ý niệm của Lakoff & Johnson và lý thuyết hoán dụ ý niệm của Radden &
Kovecses để tiến hành phân loại và phân tích cơ chế cấu tạo ẩn dụ, hốn dụ của
từ “tay” trong tiếng Hán và tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu cho thấy, về phương
diện ẩn dụ, các từ chỉ “tay” trong tiếng Hán và tiếng Việt đều được phản ánh
qua ba phạm trù ẩn dụ: ẩn dụ định hướng, ẩn dụ bản thể và ẩn dụ cấu trúc; về
mặt hốn dụ, đều có thể chỉ “người” dựa trên mối quan hệ hốn dụ lấy bộ phận
chỉ tồn thể. Mặc dù tác giả đã cố gắng phân tích các nghĩa của từ chỉ tay trong
tiếng Hán và tiếng Việt cũng như chỉ ra điểm tương đồng và dị biệt, tuy nhiên
với những từ vừa có thể chuyển nghĩa ẩn dụ, vừa có thể chuyển nghĩa hốn dụ
14


thì những lập luận tác giả đưa ra vẫn chưa đầy đủ và rõ ràng [84].
Trên đây là một số cơng trình nghiên cứu về từ chỉ BPCTN dưới góc độ
ngơn ngữ học tri nhận. Ngồi những nghiên cứu kể trên, hiện còn khá nhiều
các bài viết, luận văn, luận án khác cũng đi theo hướng nghiên cứu này như:
赵学德 (Triệu Học Đức)(2010) [70], 孙崇飞 (Tôn Sùng Phi) (2012) [91],
马春媛 (Mã Xuân Viện)(2010) [108]… .
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Cũng như mọi ngơn ngữ, tiếng Việt cũng có các từ chỉ BPCTN và đây
được coi là nhóm từ thuộc vốn từ cơ bản của ngơn ngữ. Do đó, nhóm từ này
cũng đón nhận được sự quan tâm của rất nhiều học giả.
Theo thống kê của chúng tôi, đến thời điểm hiện tại, nghiên cứu của
các học giả ở Việt Nam về các từ chỉ BPCTN cũng chủ yếu tập trung ở các
bình diện: bình diện ngữ nghĩa học truyền thống và bình diện ngơn ngữ học
tri nhận.
1.1.2.1. Từ bình diện ngữ nghĩa học truyền thống
Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có một số bài báo, sách
chuyên luận, luận văn, luận án nghiên cứu đặc điểm q trình chuyển nghĩa
của từ chỉ BPCTN từ góc độ bình diện ngữ nghĩa học truyền thống

Cơng trình đầu tiên phải kể đến là cuốn sách chuyên khảo “汉越人手

动作单音节动词研究” (Nghiên cứu nhóm động từ đơn âm tiết biểu thị động
tác tay trong tiếng Hán và tiếng Việt” của Đỗ Thị Thanh Huyền (2020). Từ
phương diện tiếp xúc ngôn ngữ và phương diện so sánh đồng đại ngôn ngữ,
đồng thời vận dụng lý luận trường ngữ nghĩa, tác giả đã tiến hành so sánh đối
chiếu 70 động từ đơn tiết biểu thị các động tác tay được lựa chọn trong “Đại
cương từ vựng HSK”. Kết quả so sánh đối chiếu cho thấy số lượng các động
từ đơn tiết biểu thị các động tác tay đã vay mượn và chưa vay mượn trong
tiếng Hán và trong tiếng Việt là tương đương nhau. Kết quả nghiên cứu cịn
cho thấy có 4 loại quan hệ giữa động từ biểu thị động tác tay trong tiếng Hán
và tiếng Việt. Về sự phát triển nghĩa của nhóm động từ này, theo tác giả về
nghĩa cơ bản của động từ giữa hai ngôn ngữ là như nhau nhưng sự phát triển
15


về ngữ nghĩa của động từ trong hai ngôn ngữ có nhiều điểm khác biệt. Ngồi
ra, khả năng tạo từ trong tiếng Hán phong phú hơn trong tiếng Việt. Mặc dù
cơng trình nghiên cứu đã đạt được một số kết quả quan trọng, đã chỉ ra được
những điểm khác biệt trong q trình phát triển ngữ nghĩa của nhóm động từ
biểu thị động tác của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt, tuy nhiên phạm vi
nghiên cứu mới chỉ giới hạn ở một số động từ đơn âm tiết thông dụng biểu thị
động tác của tay xuất hiện trong “Đại cương từ vựng HSK” mà trên thực tế
ngoài những nội dung được đề cập đến trong sách, còn rất nhiều hiện tượng
ngôn ngữ đáng được so sánh [24].
Cầm Tú Tài (2008) với nghiên cứu “Ngữ cố định: Có chứa từ chỉ bộ
phận cơ thể tiếng Hán trong sự so sánh với tiếng Việt” đã nghiên cứu nguồn
gốc, cấu trúc, đặc điểm của 2.601 thành ngữ tiếng Trung có chứa các từ chỉ
BPCTN (trong đó có 1.021 thành ngữ, 508 quán dụng ngữ, 558 yết hậu ngữ
và 514 tục ngữ) và nội hàm văn hóa để tiến hành so sánh đối chiếu về nội

hàm văn hóa, kết cấu ngữ nghĩa, chức năng ngữ pháp, cấu trúc hình thức, loại
hình của các tục ngữ có từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt, từ đó chỉ ra những
tương đồng và khác biệt của các ngữ cố định có chứa từ chỉ BPCTN trong hai
ngơn ngữ. Đây có thể được coi là một cơng trình nghiên cứu khá toàn diện về
so sánh ngữ cố định giữa tiếng Hán và tiếng Việt và có giá trị tham khảo cao
đối với việc nghiên cứu cũng như giảng dạy tiếng Hán ở Việt Nam hiện nay [38].
Luận án của Chăn Phômmavông (1999) “Đặc điểm định danh và hiện
tượng chuyển nghĩa trong trường từ vựng tên gọi bộ phận cơ thể con người
tiếng Lào”, đã vận dụng quan niệm về lý thuyết tính hệ thống của từ vựng,
đặc biệt là lý thuyết về trường từ vựng ngữ nghĩa để nghiên cứu về vấn đề đặc
điểm định danh và hiện tượng chuyển nghĩa của trường từ vựng – ngữ nghĩa
các tên gọi BPCTN trong tiếng Lào. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các từ chỉ
BPCTN của tiếng Lào cũng có thể khác về phạm vi biểu vật so với từ tương
đương trong tiếng Việt. Sự chia cắt thực tế khách quan các từ chỉ BPCTN
trong tiếng Lào và tiếng Việt cũng có điểm khác biệt. Mặc dù luận án đã khái
quát được hiện tượng chuyển nghĩa của các tên gọi BPCTN trong tiếng Lào,
tuy nhiên phần đối chiếu với các từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt chỉ mang
tính tương đối, chưa triệt để. Khi đối chiếu, tác giả chủ yếu liệt kê mà không
16


kiến giải được nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau trong phân chia các
BPCTN giữa hai ngôn ngữ [4].
Tác giả Trần Văn Tiếng (2009) với bài viết “Về những từ chỉ bộ phận
cơ thể người dùng theo nghĩa hoán dụ trong tiếng Hàn”, đã tập trung khảo sát
một số từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Hàn được dùng theo nghĩa
hốn dụ. Thơng qua việc khảo sát các từ chỉ BPCTN như “mắt, mũi, miệng,
tai, đầu, tay”, tác giả đã chỉ ra rằng các từ chỉ BPCTN dùng theo nghĩa hốn
dụ trong tiếng Hàn cũng có nhiều nét tương đồng với tiếng Việt. Bên cạnh đó,
việc kết hợp các từ chỉ BPCTN với các từ khác dựa trên đặc điểm ngơn ngữ

văn hóa là nét riêng trong cách thể hiện của người Việt và người Hàn. Từ
“tay” trong tiếng Hàn chủ yếu là nét nghĩa chức năng và có thể chuyển nghĩa
thành 6 tiểu trường [40].
Ngồi những cơng trình nghiên cứu trình bày ở trên, tiếp tục với hướng
nghiên cứu này, hiện ở Việt Nam cịn có một số cơng trình nghiên cứu cũng
rất đáng được quan tâm: Nguyễn Thị Vui (2002) [52], Trần Thị Minh (2009) [30],…
1.1.2.2. Từ bình diện Ngơn ngữ học tri nhận
Cho đến nay, ở Việt Nam đã có khá nhiều các cơng trình nghiên cứu
các từ chỉ BPCTN theo hướng ngơn ngữ học tri nhận.
Trịnh Thị Thanh Huệ (2012) với luận án “Nghiên cứu so sánh đối chiếu
ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Hán từ góc độ ngơn ngữ học tri nhận (trên tư
liệu tên gọi bộ phận cơ thể người”, đã phác thảo một bức tranh chung về tên
gọi BPCTN trong tiếng Việt có liên hệ với BPCTN trong tiếng Hán từ góc độ
ngơn ngữ học tri nhận. Tác giả đã chỉ ra được ý nghĩa cơ bản được chọn làm
miền nguồn, và phân tích, so sánh những đặc điểm chung và riêng trong miền
đích cùng q trình ánh xạ, để làm rõ được quá trình chuyển nghĩa ẩn dụ theo
phương thức tri nhận BPCTN trong hai ngôn ngữ này. Mặc dù luận án đã đi
sâu nghiên cứu một cách hệ thống, cụ thể và chi tiết, tác giả đã dựa vào các
khái niệm lý thuyết quan trọng của hai nhà nghiên cứu Lakoff và Johnson để
triển khai cơng trình nghiên cứu của mình, tuy nhiên số lượng ví dụ mà tác
17


×