BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TRƯƠNG THỊ PHƯƠNG NHUNG
XỬ LÝ VIỆC KẾT HƠN TRÁI PHÁP LUẬT
THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
VIỆT NAM
KHĨA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 6 - NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TRƯƠNG THỊ PHƯƠNG NHUNG
XỬ LÝ VIỆC KẾT HƠN TRÁI PHÁP LUẬT
THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
ThS. NGUYỄN PHƯƠNG ÂN
TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 6 - NĂM 2023
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BLDS
Chữ đầy đủ
Bộ luật Dân sự
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng Dân sự
CQNN
Cơ quan nhà nước
KHTPL
Luật HN&GĐ
Kết hơn trái pháp luật
Luật Hơn nhân và gia đình
TA
Tịa án
TAND
Tịa án nhân dân
TTLT 01/2016
Thơng tư liên tịch số
01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP ngày
06/01/2016 hướng dẫn thi
hành một số quy định của
Luật HN&GĐ số
52/2014/QH13
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ........................................................... 2
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ............................................................................ 4
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 5
6. Bố cục đề tài ....................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XỬ LÝ VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP
LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ............................................................. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc xử lý kết hôn trái pháp luật theo pháp luật
Việt Nam ................................................................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm xử lý việc kết hôn trái pháp luật .................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của việc xử lý kết hơn trái pháp luật ............................................... 8
1.2. Q trình phát triển của quy định về xử lý việc kết hôn trái pháp luật..... 10
1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945........................................ 10
1.2.2. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước ngày 01/01/2015 .. 12
1.3. Ý nghĩa của việc xử lý kết hôn trái pháp luật .............................................. 15
1.4. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về xử lý việc kết hôn trái pháp
luật........................................................................................................................ 16
1.4.1. Pháp luật Trung Quốc về xử lý việc kết hôn trái pháp luật ........................... 16
1.4.2. Pháp luật Pháp về xử lý việc kết hôn trái pháp luật ..................................... 18
1.4.3. Pháp luật Nhật Bản về xử lý việc kết hôn trái pháp luật ............................... 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 20
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ XỬ LÝ VIỆC KẾT HÔN TRÁI
PHÁP LUẬT, BẤT CẬP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN .............. 22
2.1. Thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, bất cập và
kiến nghị hoàn thiện ............................................................................................ 22
2.1.1. Quy định của pháp luật về thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu hủy việc kết hôn trái
pháp luật ................................................................................................................ 22
2.1.2. Bất cập và kiến nghị hồn thiện về chủ thể có quyền u cầu Tịa án hủy việc
kết hơn trái pháp luật ............................................................................................. 25
2.2. Căn cứ xử lý việc kết hôn trái pháp luật, bất cập và kiến nghị hoàn thiện 26
2.2.1. Quy định của pháp luật về căn cứ xử lý việc kết hôn trái pháp luật .............. 26
2.2.2. Bất cập và kiến nghị hồn thiện về kết hơn trái pháp luật do vi phạm điều kiện
độ tuổi ................................................................................................................... 34
2.2.3. Bất cập và kiến nghị hồn thiện về kết hơn trái pháp luật do vi phạm về điều
kiện nhận thức ....................................................................................................... 36
2.2.4. Bất cập và kiến nghị hồn thiện về kết hơn trái pháp luật do kết hơn với người
đang có vợ hoặc có chồng...................................................................................... 38
2.2.5. Bất cập và kiến nghị hồn thiện về kết hơn trái pháp luật người cùng dịng máu
về trực hệ, người có họ trong phạm vi ba đời. ........................................................ 39
2.3. Đường lối xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật và hệ quả pháp lý,
bất cập và kiến nghị hoàn thiện .......................................................................... 41
2.3.1. Quy định của pháp luật về đường lối xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp
luật và hệ quả pháp lý ............................................................................................ 41
2.3.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện về đường lối xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn
trái pháp luật và hệ quả pháp lý ............................................................................. 46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 51
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình được coi là tế bào của xã hội vì đây là nơi sinh ra và nuôi dưỡng các
thế hệ tương lai của đất nước, đảm bảo tương lai tồn tại của cả một dân tộc. Các tế
bào khỏe mạnh thì xã hội mới phát triển nên việc xuất hiện nhiều “tế bào không tốt"
sẽ ảnh hưởng xấu đến xã hội và cản trở sự phát triển của đất nước. Có thể nói, sự phát
triển của một cộng đồng xã hội phụ thuộc vào các tế bào gia đình ở trong xã hội đó.
Một trong những cơ sở hình thành nên các tế bào gia đình chính là hơn nhân.
Hơn nhân có thể được hiểu là một hiện tượng xã hội, trong đó hai người được pháp
luật thừa nhận cùng nhau xây dựng gia đình và chung sống với nhau trong suốt qng
đời cịn lại. Thơng thường, hơn nhân phát sinh và được hình thành thơng qua thủ tục
đăng ký kết hơn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu hơn nhân được thiết lập
không tuân thủ theo quy định mà pháp luật đặt ra sẽ hình thành nên các tế bào xấu,
gây nên những bất cập và ảnh hưởng lớn đến con cái của họ, đồng thời, tàn phá những
giá trị đạo đức và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Ngày nay, kết hôn trái
pháp luật không còn phổ biến như trước nhưng trên thực tế vẫn cịn tồn tại khá nhiều.
Hiện tượng khơng tn thủ các điều kiện kết hôn vẫn diễn ra khá phổ biến, đặc biệt
là vùng sâu, vùng xa. Điều này dẫn tới các hệ quả tiêu cực trong lĩnh vực hôn nhân
và gia đình cũng như gián tiếp ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác trong đời sống.
Nguyên nhân chính dẫn đến hiện trạng này phần lớn do ý thức của người dân và sự
tác động của những yếu tố khác như văn hóa, giáo dục và kinh tế. Kết hơn trái pháp
luật gây ảnh hưởng vô cùng tiêu cực đến quan hệ hơn nhân, gia đình cũng như lối
sống và đạo đức của xã hội. Do vậy, khi có căn cứ, việc hủy kết hôn trái pháp luật sẽ
được đặt ra nhằm giải quyết những vấn đề có liên quan một cách công bằng và phù
hợp với luật pháp trong nước, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật về hôn nhân và gia
đình một cách tồn diện.
Có thể thấy nghiên cứu về việc hủy kết hôn trái pháp luật là vô cùng quan
trọng và cần thiết khi khơng chỉ tìm hiểu về các vấn đề pháp lý liên quan đến việc
hủy kết hôn trái pháp luật và cách giải quyết chúng một cách hợp lý mà còn nhằm
phản ánh đầy đủ thực tiễn kết hôn trái pháp luật hiện nay. Mặc dù pháp luật hơn nhân
và gia đình hiện hành đã điều chỉnh rất tốt vấn đề này nhưng trong một số tình huống,
các quy định này vẫn cịn mang tính chất hình thức, khái qt và khó áp dụng. Khi
nghiên cứu đề tài về xử lý việc kết hôn trái pháp luật, tác giả hi vọng cơng trình sẽ
góp phần làm rõ lý luận, qua đó đề xuất các kiến nghị phù hợp với thực tiễn, giúp cho
2
việc thực thi pháp luật hiệu quả hơn và tăng cường ý thức cộng đồng về tầm quan
trọng của pháp luật hơn nhân và gia đình trong xã hội.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Xử lý việc kết hôn trái
pháp luật theo luật Hơn nhân và Gia đình Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, việc tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề này đã được một số tổ chức, cá
nhân triển khai thực hiện, có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu sau:
-
Sách tham khảo, chuyên khảo, giáo trình
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2022), Giáo trình Luật Hơn nhân và
Gia đình Việt Nam (tái bản lần thứ nhất, có sửa chữa, bổ sung), Nguyễn Văn Tiến
chủ biên, Nhà xuất bản Hồng Đức: có đề cập đến hủy việc kết hơn trái pháp luật, phân
tích và đánh giá khái niệm kết hôn trái pháp luật, thẩm quyền giải quyết yêu cầu, căn
cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật, chủ thể có thẩm quyền yêu cầu, đường lối xử lý và
hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật. Đây là cơ sở cho tác giả có cái
nhìn tổng quan về quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình. Tuy nhiên với đặc thù của
giáo trình mang tính tổng qt, khái luận, các vấn đề trong thực tiễn áp dụng pháp
luật sẽ không được đề cập cụ thể.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình
Việt Nam, Nguyễn Văn Cừ chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp: cũng có nói đến vấn đề
kết hơn trái pháp luật và đưa ra cách giải quyết theo ba hướng: xử lý về dân sự, xử lý
về hành chính và hình sự. Trên cơ sở đó, tác giả nắm được những kiến thức khái quát
về xử lý việc kết hôn trái pháp luật và những vấn đề khác có liên quan.
Khóa luận, luận văn, luận án
Phan Đình Dương (2019), Biện pháp xử lý việc kết hôn trái pháp luật – Thực
tiễn tại tỉnh Bắc Kạn, Luận văn, Trường Đại học Luật Hà Nội: đã đề cập một cách
chi tiết về việc xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật trên thực tiễn tại Bắc Kạn.
Theo đó, luận văn đã trình bày và giải thích một số thuật ngữ, khái niệm về kết hôn,
kết hôn trái pháp luật, biện pháp xử lý việc kết hôn trái pháp luật trên cơ sở quy định
của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 kết hợp với việc đưa ra những vấn đề thực
tiễn đang được áp dụng. Mặc dù luận văn của tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu
thực tiễn áp dụng tại Bắc Kạn nhưng đã đưa ra những vướng mắc, bất cập đang tồn
tại tại tỉnh Bắc Kạn nói riêng và cả nước nói chung nhằm góp phần đưa ra phương
3
hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi các biện pháp xử lý kết hôn
trái pháp luật hiện nay.
Nguyễn Tài Dương (2016), Hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp
luật theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học
Quốc gia Hà Nội: phân tích về các vấn đề lý luận chung và nội dung hậu quả pháp lý
của việc hủy hôn nhân trái pháp luật, từ đó đưa ra những tồn tại, hạn chế và một số
giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Trong đề tài này, tác giả đã đưa ra một
số kiến nghị nổi bật, cụ thể như: cần có những quy định cụ thể hơn nữa về trường hợp
hôn nhân trái pháp luật do bị lừa dối, cần đưa ra quy định về xác minh quan hệ nhân
thân của người tham gia kết hơn, và cần có những chế tài xử lý mạnh mẽ hơn đối với
những trường hợp kết hôn trái pháp luật.
Phạm Thị Lan Anh (2014), Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân
Gia đình, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội: có sự đề cập đầy đủ
về quy định pháp luật, thực tiễn giải quyết, phương hướng và giải pháp hồn thiện
pháp luật về hủy việc kết hơn trái pháp luật. Mặc dù bài viết này chỉ nghiên cứu trên
cơ sở Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 nhưng lại là nguồn cung cấp cho tác giả
những kiến thức pháp lý về kết hôn trái pháp luật ở những giai đoạn lịch sử của thời
kỳ trước.
Các bài báo khoa học, tạp chí:
Đức Thị Hịa (2021), “Một số vấn đề cần lưu ý trong áp dụng pháp luật về hủy
việc kết hơn trái pháp luật”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 16/2021, trang 25 – 29: tập
trung phân tích, làm rõ về hủy việc kết hơn trái pháp luật và nêu ra một số vấn đề cần
lưu ý khi áp dụng pháp luật về hủy việc kết hơn trái pháp luật. Từ đó, tác giả kiến
nghị hồn thiện pháp luật.
Nguyễn Thị Phương (2020), “Xử lý việc kết hơn trái pháp luật theo luật hơn
nhân và gia đình hiện hành”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 343, trang 49 – 53:
đã đưa ra những kiến thức cơ bản cũng như nêu rõ những vướng mắc, bất cập khi xử
lý việc kết hôn trái pháp luật.
Nguyễn Thị Lan (2019), “Về giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật, kết hôn
không đúng thẩm quyền và nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hơn”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 7/2019, trang 1 – 8: đã đề cập đến
cách giải quyết hủy việc kết hôn trái pháp luật theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Huỳnh Thị Trúc Giang (2016), “Xử lý việc kết hôn trái pháp luật theo luật Hôn
nhân và Gia đình”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 (343), trang 41 – 46: bài
4
viết đã phân tích và bình luận các cách thức xử lý việc kết hôn trái pháp luật theo
Luật hôn nhân và gia đình hiện hành và một số vấn đề pháp lý phát sinh, từ đó, đưa
ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này.
-
Tài liệu nước ngoài:
Malhotra A, Elnakib S (2021), “20 Years of the Evidence Base on What Works
to Prevent Child Marriage: A Systematic Review”, Journal of Adolescent Health,
Volume 68, Pages 847 - 862: trình bày các đánh giá được công bố từ năm 2000 đến
năm 2019 nhằm làm sáng tỏ những phương pháp hiệu quả trong việc ngăn chặn tình
trạng tảo hơn ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình.
Syarifah Rahmatillah, Amrullah Bustamam (2023), “Government's legal
policy on the protection of women and children pre- and post-illegal marriages”,
International Journal of Child and Gender Studies, Volume 9, Page 98: nghiên cứu
này tập trung vào những nỗ lực của chính quyền Aceh (một tỉnh của Indonesia) nhằm
bảo vệ phụ nữ và trẻ em trước và sau hôn nhân bất hợp pháp.
Trong các nghiên cứu này, những vấn đề được tập trung nghiên cứu bao gồm:
các quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình, hậu quả pháp lý của việc kết hơn trái
pháp luật, các giải pháp để xử lý và ảnh hưởng của việc kết hôn trái pháp luật đến xã
hội và cá nhân. Tuy nhiên thực tiễn vấn đề này vẫn ghi nhận những bất cập, nên việc
tiếp tục nghiên cứu và phát triển để có thể đưa ra các giải pháp và chính sách phù hợp
hơn nhằm cải thiện quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng là cần thiết. Do
vậy, các cơng trình nghiên cứu kể trên sẽ là nguồn tham khảo hữu ích giúp tác giả kế
thừa và phát triển, đồng thời là cơ sở so sánh giúp hồn thiện nội dung khóa luận một
cách tốt nhất.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Phù hợp phạm vi nghiên cứu, đề tài hướng đến giải quyết các mục tiêu:
Thứ nhất, nghiên cứu khái quát về xử lý việc kết hôn trái pháp luật theo pháp
luật Việt Nam, cụ thể là nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc xử lý
kết hôn trái pháp luật và quy định của pháp luật nước ta về vấn đề này.
Thứ hai, đề cập đến thực tiễn giải quyết việc kết hôn trái pháp luật, đồng thời
đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và giải quyết những
bất cập còn tồn tại trên cơ sở tham khảo pháp luật một số quốc gia.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Cơng trình chỉ tập trung nghiên cứu xử lý việc kết hôn trái pháp luật trong
quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình khơng có yếu tố nước ngoài, được điều chỉnh
5
bởi Luật Hơn nhân và gia đình 2014. Mặc dù trong khóa luận có đề cập đến những
văn bản quy phạm pháp luật trước đây nhưng mục đích chính của việc viện dẫn đó là
để so sánh, đối chiếu với pháp luật hiện hành. Tác giả thực hiện nghiên cứu quy định
trong pháp luật Việt Nam, có đề cập đến pháp luật một số nước trên thế giới như
Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc nhằm có sự so sánh, đối chiếu, rút ra kinh nghiệm cho
việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng trong việc nghiên cứu về vấn đề xử lý việc kết hôn trái
pháp luật bao gồm phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin và các
phương pháp khác như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử,... để đánh
giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện nhất. Phù hợp nội dung và phạm vi nghiên
cứu, tác giả sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: nhằm đánh giá, phân
tích và tổng hợp các lý thuyết đã được công bố, đưa ra các kết luận và đề xuất giải
pháp cho việc cải thiện vấn đề kết hôn trái pháp luật.
Thứ hai, phương pháp so sánh: giúp so sánh hai hay nhiều vấn đề, tình huống
khác nhau để phát hiện và tìm ra các điểm tương đồng và khác biệt, đưa ra các kết
luận và nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật.
Thứ ba, phương pháp nghiên cứu tình huống: tập trung vào một tình huống cụ
thể trong thực tế, từ đó giúp người nghiên cứu hiểu rõ hơn về tình huống đó và đưa
ra các giải pháp phù hợp để hoàn thiện những quy định pháp luật hiện nay.
6. Bố cục đề tài
Từ mục tiêu xác định, đề tài nghiên cứu được kết cấu hai Chương với các nội
dung như sau:
Chương 1: Khái quát chung về xử lý việc kết hôn trái pháp luật theo pháp luật
Việt Nam.
Chương 2: Quy định hiện hành về xử lý việc kết hôn trái pháp luật, bất cập
và một số kiến nghị hoàn thiện.
6
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XỬ LÝ VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc xử lý kết hôn trái pháp luật theo pháp
luật Việt Nam
1.1.1. Khái niệm xử lý việc kết hôn trái pháp luật
Để hiểu rõ hơn về khái niệm xử lý việc kết hôn trái pháp luật (KHTPL) theo
Luật Hơn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) 2014, cần phân biệt và nắm được các khái
niệm: kết hôn, điều kiện kết hôn và KHTPL.
Khái niệm kết hôn
Theo từ điển Luật học, kết hôn được định nghĩa “là sự liên kết giữa một người
đàn ông và một người đàn bà thành vợ chồng, được pháp luật công nhận”1. Như vậy,
hiểu theo nghĩa thông thường, kết hôn là việc trai lấy vợ, gái lấy chồng hay nói cách
khác là việc trai gái lấy nhau làm vợ chồng.
Khơng chỉ là sự gắn bó giữa người đàn ông và người đàn bà theo quy luật tự
nhiên - thể hiện ở việc con người cũng là một thực thể sinh vật tuân theo bản năng
sinh tồn, kết hơn cịn chịu sự điều chỉnh về mặt pháp lý, thông qua việc đăng ký kết
hôn được nhà nước cơng nhận quan hệ vợ chồng, từ đó phát sinh các quyền và nghĩa
vụ tương ứng. Tại Việt Nam, theo khoản 5 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014: “Kết hôn là
việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về
điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Như vậy, bản chất của kết hôn là để xác lập
quan hệ vợ chồng. Chỉ khi đáp ứng đủ điều kiện kết hôn, nam, nữ mới được thực hiện
quyền kết hôn. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 20132 và Bộ luật Dân sự (BLDS) 20153. Ngoài
ra, để việc kết hơn được thừa nhận thì hai bên nam nữ phải thực hiện thủ tục đăng ký
kết hôn tại Cơ quan nhà nước (CQNN) có thẩm quyền. Về mặt nguyên tắc, việc kết
hơn chỉ có giá trị pháp lý khi nam, nữ được Cơ quan hộ tịch cấp Giấy chứng nhận kết
hơn sau khi hồn thành xong thủ tục kết hơn4. Như vậy, có thể hiểu, theo Luật
Viện khoa học pháp lý (1999), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, trang 244.
Điều 36 Hiến pháp năm 2013.
3
Điều 39 BLDS 2015.
4
Ngoại trừ trường hợp người xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03-01-1987 và
trường hợp người đã kết hôn với người khác vi phạm điều kiện kết hôn nhưng đã được TA công nhận
quan hệ hôn nhân bằng bản án, quyết định của TA, quy định tại Điểm b, c Khoản 4 Điều 2 Thông tư
1
2
7
HN&GĐ Việt Nam hiện hành, kết hôn là hành vi xác lập quan hệ vợ chồng giữa nam
và nữ thông qua thủ tục đăng ký kết hôn dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng,
tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc,
đảm bảo trật tự xã hội. Nhà nước chỉ thừa nhận hình thức kết hơn duy nhất là kết hôn
theo luật định.
Khái niệm điều kiện kết hôn
Từ khái niệm kết hơn, có thể thấy, bên cạnh việc đáp ứng u cầu về đăng ký
thì hai bên nam nữ cịn phải đáp ứng đủ điều kiện kết hôn. Chỉ khi đã thực hiện đúng
và đủ các thủ tục và điều kiện này thì quan hệ vợ chồng giữa hai bên mới được coi là
hợp pháp trước pháp luật. Theo đó có thể hiểu đơn giản, điều kiện kết hơn là những
yêu cầu pháp lý, những quy định mang tính chất bắt buộc do Nhà nước đặt ra được
quy định trong Luật HN&GĐ mà nam nữ phải tuân theo để việc kết hôn được công
nhận.
Về cơ bản, theo Điều 8, điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ 2014,
nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện về độ tuổi, sự tự nguyện, năng
lực hành vi dân sự, điều kiện cấm kết hôn và giới tính5. Mục đích chính của việc ban
hành điều kiện kết hơn là đảm bảo sự an tồn và trật tự xã hội trong việc kết hôn,
đồng thời bảo vệ quyền lợi và sự bình đẳng giữa các bên trong quá trình chung sống.
Việc quy định điều kiện kết hơn cũng góp phần kiểm sốt, phân định việc KHTPL và
giảm thiểu những hậu quả xấu có thể xảy ra.
Khái niệm kết hôn trái pháp luật
Theo Từ điển Luật học, KHTPL là kết hơn vi phạm các điều mà pháp luật
cấm6. Cịn theo quy định của Luật HN&GĐ hiện hành, “KHTPL là việc nam, nữ đã
đăng ký kết hơn tại CQNN có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm
điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này”7. Như vậy, những trường
hợp kết hôn mặc dù đã được đăng ký đúng thẩm quyền nhưng một hoặc cả hai bên
không đáp ứng đủ điều kiện kết hôn sẽ được coi là KHTPL.
KHTPL là hành vi vi phạm pháp luật bởi vì chủ thể tham gia kết hôn đã không
tuân theo các điều kiện kết hôn mà luật định. Cụ thể, tại thời điểm đăng ký kết hôn,
liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số
quy định của Luật HN&GĐ số 52/2014/QH13 (TTLT 01/2016).
5
Được phân tích cụ thể ở mục 2.2.1 quy định của pháp luật về căn cứ xử lý việc kết hôn trái pháp
luật.
6
Viện khoa học pháp lý (1999), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, trang 244.
7
Khoản 6 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014.
8
người kết hôn thuộc một trong các trường hợp: chưa đủ tuổi kết hơn; khơng có sự tự
nguyện; bị mất năng lực hành vi dân sự; đang có vợ, có chồng; có quan hệ cùng dịng
máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời; là cha, mẹ nuôi với con nuôi; đã
từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể; cha
dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Trong trường hợp này,
việc kết hơn đó khơng làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ mặc dù đã
được cơ quan hộ tịch cấp Giấy chứng nhận kết hôn. Cần lưu ý rằng nếu các bên không
đăng ký kết hôn mà vi phạm điều kiện kết hơn thì cũng khơng được xem là KHTPL.
Bên cạnh đó, hành vi KHTPL sẽ khơng được bảo hộ như việc kết hôn hợp pháp.
Khái niệm xử lý việc kết hôn trái pháp luật
Khi nam, nữ kết hôn không tuân theo các quy định của pháp luật về điều kiện
kết hơn thì Nhà nước sẽ phải có trách nhiệm đảm bảo rằng pháp luật được thực hiện
nghiêm túc và giải quyết vấn đề này để bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Tùy vào từng
trường hợp cụ thể, pháp luật quy định các biện pháp xử lý KHTPL bao gồm: xử lý về
dân sự, xử lý hành chính và xử lý hình sự. Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm,
CQNN có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khác nhau để giải quyết. Có thể hiểu,
đây chính là xử lý việc KHTPL.
Mặc dù Luật HN&GĐ hiện hành khơng có quy định nào định nghĩa về thuật
ngữ “Xử lý việc KHTPL”, tuy nhiên, Điều 11 Luật HN&GĐ 2014 có đề cập về việc
xử lý việc KHTPL và được cụ thể hóa tại Điều 4 TTLT 01/2016. Theo đó, những
trường hợp KHTPL sẽ được Tịa án (TA) xử lý theo quy định của pháp luật. Mặc dù
nhà nước không thừa nhận mối quan hệ vợ chồng được xác lập từ việc KHTPL nhưng
không phải tất cả các cuộc hôn nhân trái pháp luật đều bị TA hủy bỏ. Căn cứ vào
hoàn cảnh, mức độ vi phạm, hậu quả, TA sẽ xem xét để ra quyết định hủy hay khơng
hủy quan hệ đó.
Như vậy, có thể hiểu xử lý việc KHTPL là việc TA theo yêu cầu của người có
quyền yêu cầu hủy việc KHTPL sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật HN&GĐ và
pháp luật về tố tụng dân sự, xem xét và giải quyết các trường hợp nam, nữ đã đăng
ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn.
1.1.2. Đặc điểm của việc xử lý kết hôn trái pháp luật
Thứ nhất, xử lý KHTPL mang bản chất của một chế tài xử lý vi phạm. Xử lý
KHTPL có thể xem là một chế tài được áp dụng để giải quyết việc kết hôn tuy đúng
về hình thức (thủ tục đăng ký kết hơn) nhưng lại vi phạm về nội dung (điều kiện kết
hôn). Pháp luật nước ta thể hiện thái độ không thừa nhận đối với các trường hợp này
9
bởi lẽ bản chất của việc KHTPL là một sự việc xuất phát từ hành vi vi phạm pháp
luật. Ngoài ra, việc xử lý hành vi KHTPL còn được coi là một loại chế tài bởi vì nó
thể hiện ý chí của Nhà nước và buộc các bên kết hơn phải tn theo mà khơng phụ
thuộc vào ý chí của họ, nếu vi phạm thì phải gánh chịu những hậu quả bất lợi từ hành
vi trái pháp luật đó.
Thứ hai, xử lý KHTPL mang tính chất linh hoạt và mềm dẻo. Quan hệ hơn
nhân và gia đình là những quan hệ vô cùng nhạy cảm nên việc xử lý các trường hợp
KHTPL không chỉ đơn thuần là việc dùng sức mạnh của pháp luật để xử lý những vi
phạm, mà còn phải phù hợp với thực tế cuộc sống, hướng tới mục tiêu quan trọng
nhất là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Đó là lý do mà trong đường
lối xử lý việc KHTPL, pháp luật đặt ra nhiều hướng xử lý khác nhau như: hủy việc
KHTPL; giải quyết cho ly hôn; hoặc TA quyết định cơng nhận quan hệ hơn nhân đó8.
Có thể thấy, xử lý việc KHTPL chỉ được áp dụng hiệu quả khi hài hòa được cả hai
vấn đề thực tiễn và pháp luật.
Thứ ba, xử lý KHTPL là biện pháp bảo vệ chế độ hơn nhân và gia đình, đồng
thời thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với hơn nhân và gia
đình. Thơng qua các quy định của pháp luật, việc xử lý các trường hợp KHTPL giúp
tạo dựng, duy trì, củng cố và phát triển gia đình dựa trên tình yêu thương của vợ
chồng, của cha mẹ và con cái. Đồng thời, việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
này cũng sẽ giúp các CQNN thuận lợi trong việc quản lý và giải quyết các tranh chấp
trong đời sống xã hội. Việc thực hiện đúng các quy định của pháp luật về hôn nhân
và gia đình là nền tảng quan trọng cho việc xây dựng một gia đình ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc theo chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Việc kết hôn không đáp ứng đủ
điều kiện kết hôn sẽ ảnh hưởng tiêu cực và trực tiếp đến hạnh phúc của gia đình. Mọi
hành vi vi phạm pháp luật về hơn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh và
đúng đắn.
Thứ tư, xử lý KHTPL góp phần phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam về hơn nhân và gia đình. Những quy định về điều kiện kết
hôn cũng như việc xử lý các trường hợp KHTPL được ban hành đều dựa trên cơ sở
kế thừa, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống văn hóa gắn liền với việc tiếp
thu những giá trị đạo đức của dân tộc. Mặc dù hiện tại, những quy định khắc nghiệt,
Được phân tích kĩ hơn tại mục 2.3.1 của bài viết này về đường lối xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn
trái pháp luật và hệ quả pháp lý, bất cập và kiến nghị hoàn thiện.
8
10
lạc hậu đã được bãi bỏ nhưng tính trừng phạt vẫn được áp dụng đối với các cá nhân
vi phạm. Có thể thấy, các quy định về hơn nhân đều được xây dựng trên cơ sở truyền
thống văn hóa và đạo đức của dân tộc nhưng vẫn phù hợp với sự tiến bộ của xã hội
hiện nay về mặt đạo đức.
1.2. Quá trình phát triển của quy định về xử lý việc kết hôn trái pháp luật
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự phát triển của
khoa học và công nghệ, pháp luật Việt Nam cũng đã có những thay đổi tích cực.
Những quy định về hơn nhân và gia đình tại Việt Nam hiện nay được hình thành dựa
trên sự kế thừa và phát triển có chọn lọc những quy định về hôn nhân qua các thời kỳ
lịch sử.
1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Thời kỳ phong kiến
Trong thời kỳ phong kiến với chế độ quân chủ, các đạo luật đều do vua ban
hành, trong đó 02 bộ luật nổi tiếng và tiêu biểu nhất phải kể đến là Bộ luật Hồng Đức
(được ban hành dưới triều Lê) và Bộ luật Gia Long (được ban hành dưới thời
Nguyễn). Cả hai bộ luật này đều có những quy định về các trường hợp tiêu hôn.
Trong Bộ luật Hồng Đức, tùy vào từng trường hợp, việc kết hôn vi phạm quy
định có thể bị phạt hoặc bị tiêu hủy. Các bên buộc phải ly hôn (Điều 317, 318, 323,
324, 334) do hôn nhân đã vi phạm các quy định cấm kết hôn9. Một trong những điểm
tiến bộ trong Bộ luật này là trường hợp cưỡng ép phụ nữ kết hôn cũng bị tội, Điều
320 quy định như sau: “Mãn tang chồng nhưng người vợ thủ tiết, nếu ngồi ơng bà,
cha mẹ, kẻ nào khác gả ép người phụ nữ đó thì bị biếm ba tư và buộc phải ly dị. Trả
người đàn bà về chồng cũ…”.
Còn trong Bộ luật Gia Long, trường hợp hai bên trai gái đã vi phạm nghiêm
trọng quy định của luật lệ, thì nhà làm luật sẽ không công nhận sự hữu hiệu của giá
thú và bắt buộc phải tiêu hủy. Một số quy định tiêu biểu phải nói đến như:
Nếu đã có vợ cả mà cịn cưới vợ cả nữa thì phải phạt 90 trượng. Vợ cưới sau
buộc phải ly dị và trả về cho tông tộc10.
Hồng Lê Khánh Linh, “Quy định về vấn đề Hơn nhân - gia đình trong Bộ Luật Hồng Đức thời Lê
Sơ”, truy cập ngày 23/03/2023.
10
Điều 96 Bộ luật Gia Long.
9
11
-
Phàm cưới người cùng dịng họ thì chủ hơn và hai bên trai gái, mỗi người bị
phạt 60 trượng và bắt phải ly dị, đối với phụ nữ thì trả về cho tông tộc, và tiền cưới
được đem sung công11.
Phàm phụ nữ phạm tội bị phát giác ra ở quan rồi mà lại chạy trốn ra bên ngồi,
lại có người cưới làm vợ cả hay vợ lẽ thì nếu là có biết chuyện chạy trốn mà vẫn cưới
thì bị xử y tội của người phụ nữ ấy. Nhưng đối với người phụ nữ kia thì bắt phải tăng
thêm 2 bậc tội do lỗi đã chạy trốn, cịn người cưới thì khơng phải tăng tội. Nếu đến
tội chết thì được cho giảm đi 1 bậc và bắt phải ly dị12.
Tóm lại, trong thời kỳ này, hôn nhân bị coi là vô hiệu khi vi phạm một trong
các điều cấm kết hôn. Không phải tất các các trường hợp vi phạm đều bị xử lý. Hậu
quả của việc tiêu hủy hôn nhân là buộc các bên phải ly dị hoặc chịu những hình phạt
nhất định.
Thời kỳ Pháp thuộc
Trong thời kỳ này, Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 áp dụng tại miền Bắc, Bộ
dân luật Trung Kỳ năm 1936 áp dụng tại miền Trung, Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ
năm 1883 áp dụng tại miền Nam. Cả ba Bộ luật đều thừa nhận chế độ đa thê và có
những quy định khác nhau về điều kiện kết hơn nhưng đều có chung một nguyên tắc
xử lý: khi vi phạm điều kiện kết hơn thì việc kết hơn là vơ hiệu và có thể bị tiêu hủy.
Những vi phạm điển hình có thể nói đến là: vi phạm độ tuổi kết hơn, sự tự nguyện
của chủ thể kết hôn, thiếu sự đồng ý của cha mẹ và vi phạm các điều cấm. Ngồi ra,
hơn nhân cũng vơ hiệu khi vi phạm trường hợp không khai với hộ lại (Điều 82 Dân
luật Bắc Kỳ) hoặc trường hợp người đàn bà trước đã có giá thú chính thất hoặc thứ
nhất mà chưa tiêu hơn (Điều 84 Bộ Dân luật Bắc Kỳ)13.
Hậu quả của việc tiêu hủy trong ba Bộ dân luật được quy định khơng giống
nhau. Nhìn chung, Bộ dân luật Bắc Kỳ và Trung Kỳ đều được xây dựng nhằm giảm
bớt hậu quả cho các chủ thể kết hôn cũng như những người có liên quan nên quy định
khơng q nghiêm ngặt. Điều 89 Bộ luật Bắc Kỳ cho thấy hậu quả pháp lý của việc
tiêu hủy KHTPL cũng giống như trường hợp ly hôn. Như vậy, các bên chỉ chấm dứt
quan hệ vợ chồng kể từ khi kết hôn bị tiêu hủy. Ngược lại, Bộ Dân luật giản yếu ra
Điều 100 Bộ luật Gia Long.
Điều 104 Bộ luật Gia Long.
13
“Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật”,
truy cập ngày 29/03/2023.
11
12
12
đời sớm nhất lại quy định nghiêm khắc hơn. Khi việc kết hôn bị tiêu hủy, Bộ Dân
luật giản yếu Nam Kỳ phủ nhận hoàn toàn quan hệ phát sinh từ việc KHTPL14.
1.2.2. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước ngày
01/01/2015
Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 13/01/1960
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành cơng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh 47/SL ngày 10/10/1945. Theo đó, những quy định của ba Bộ dân luật về hơn
nhân và gia đình vẫn được kế thừa nếu khơng trái với lợi ích của Nhà nước và lợi ích
nhân dân. Ở miền Bắc, năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước ta được ra đời với
tính chất là đạo luật nguồn. Mãi đến năm 1950, các quy định của Luật HN&GĐ mới
có bước phát triển với sự ra đời của Sắc lệnh 97/SL sửa đổi một số quy lệ và chế định
trong dân luật, và Sắc lệnh 159/SL quy định về vấn đề ly hôn. Tuy nhiên, cả hai Sắc
lệnh đều không quy định về xử lý việc KHTPL.
Giai đoạn từ ngày 13/1/1960 đến trước ngày 03/01/1987
Ở miền Nam, Luật Gia đình ngày 02/01/1959 dưới chế độ Ngơ Đình Diệm,
Sắc luật số 15/64 ngày 23/07/1964 và Bộ Dân luật ngày 20/12/1972 của chính quyền
ngụy Sài Gòn – Nguyễn Văn Thiệu là những văn bản pháp luật chủ yếu điều chỉnh
các quan hệ hôn nhân và gia đình. Nếu nam nữ vi phạm điều kiện kết hơn thì hơn thú
sẽ vơ hiệu và bị tiêu hủy. Hôn thú vô hiệu khi vi phạm độ tuổi, sự tự nguyện, khơng
có sự ưng thuận của cha mẹ, ông bà người giám hộ, vi phạm điều cấm kết hơn, vi
phạm hình thức kết hơn. Bộ dân luật năm 1972 quy định mặc dù hôn thú bị tiêu hủy,
các con vẫn coi là con chính thức. Đồng thời, quan hệ vợ chồng vẫn được pháp luật
thừa nhận kể từ khi kết hôn đến khi bị tuyên hủy và khơng có hiệu lực hồi tố.
Ở miền Bắc, cơ sở điều chỉnh các quan hệ hơn nhân và gia đình là Luật
HN&GĐ 1959 (sau khi đất nước thống nhất, từ ngày 25/3/1977, thì Luật HN&GĐ
1959 mới được thi hành trên cả nước). Luật này đã ghi nhận chế độ hôn nhân một vợ
một chồng, vợ chồng bình đẳng, hơn nhân tự do, tự nguyện, bình đẳng nhằm cùng
nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hịa thuận và bền vững. Mặc dù Luật
HN&GĐ 1959 không quy định về xử lý việc xử lý KHTPL nhưng tại công văn số
1264 ngày 01/11/1966 có hướng dẫn việc xử lý những trường hợp KHTPL về đường
lối và thủ tục xét xử. Đồng thời, theo tinh thần chung của thông tư 112/NCPL của
Phạm Thị Lan Anh (2014), Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hơn nhân Gia đình, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 20 - 22.
14
13
Tòa án nhân dân (TAND) tối cao ngày 19/8/1972 hướng dẫn việc xử lý về dân sự
những hôn nhân vi phạm về điều kiện kết hơn do luật định. Có thể xác định đường
lối chung trong việc huỷ hôn nhân trái pháp luật15 như sau:
Phải xử huỷ những hôn nhân trái pháp luật vi phạm điều kiện kết hơn có tính
chất nghiêm trọng và đang tiếp diễn như: tảo hơn, cưỡng ép kết hơn, đang có vợ hoặc
có chồng mà kết hôn hay chung sống như vợ chồng đối với người khác, kết hơn người
có họ hàng mà pháp luật cấm, người đang mắc một trong các bệnh mà pháp luật cấm.
Với những hôn nhân trước đây vi phạm điều kiện kết hôn nhưng nay đã chấm
dứt hoặc vi phạm khơng có tính chất nghiêm trọng và có thể sửa chữa dễ dàng như:
kết hơn khơng đăng ký thì xử lý theo đường lối ly hôn nhằm chiếu cố đến quyền lợi
của đương sự nhất là phụ nữ và con cái của họ, cũng như chiếu cố đến phong tục tập
quán của địa phương.
Những trường hợp kết hôn vi phạm các điều kiện kết hơn do Luật định thì hơn
nhân đó cần phải xử lý tiêu hơn nhằm đấu tranh chống những việc vi phạm nghiêm
trọng trong điều kiện kết hôn.
Về quan hệ nhân thân, khi TA hủy hôn, các bên phải chấm dứt hôn nhân bất
hợp pháp, cũng như chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ về nhân thân vợ chồng. Những
vi phạm điều kiện kết hôn không nghiêm trọng thì khơng xử tiêu hơn mà xử theo thủ
tục ly hôn. Về tài sản, tài sản riêng của ai người đó lấy về, tài sản do hai bên tạo ra sẽ
chia theo cơng sức đóng góp, chi tiêu riêng của ai thì người đó trả. Về quan hệ cấp
dưỡng, vấn đề cấp dưỡng giữa họ không được đặt ra.
Giai đoạn từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001
Trên cơ sở kế thừa Luật HN&GĐ 1959, Luật HN&GĐ năm 1986 đã được xây
dựng trên nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng. Về cơ bản, các quy định về điều kiện kết hôn vẫn giống Luật HN&GĐ
1959, còn các trường hợp cấm kết hôn được sửa đổi theo hướng thu hẹp nhưng phù
hợp hơn.
Một sự khác biệt lớn so với các luật trước đây là thuật ngữ “hủy việc KHTPL”
lần đầu tiên được đề cập trong Luật HN&GĐ 198616. Về căn cứ để xử lý việc KHTPL,
Luật HN&GĐ 1986 quy định việc kết hơn vi phạm một trong các điều kiện kết hơn
“Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật”,
truy cập ngày 29/03/2023.
16
Điều 9 Luật HN&GĐ 1986.
15
14
của Luật này là trái pháp luật, cụ thể: vi phạm độ tuổi (Điều 5), sự tự nguyện (Điều
6), các điều cấm kết hơn (Điều 7).
Cịn chủ thể có quyền yêu cầu TA xử lý việc KHTPL là một hoặc hai bên đã
KHTPL, vợ, chồng hoặc con của người đang có vợ, có chồng mà kết hơn với người
khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đồn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh, Cơng đồn Việt Nam có quyền yêu cầu TAND huỷ việc KHTPL.
Nhà nước không thừa nhận quan hệ vợ chồng của chủ thể KHTPL. Hậu quả
pháp lý về tài sản của những người mà hôn nhân bị huỷ được giải quyết theo nguyên
tắc: tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người ấy; tài sản chung được
chia căn cứ vào cơng sức đóng góp của mỗi bên; quyền lợi chính đáng của bên bị lừa
dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn được bảo vệ. Về quan hệ với con cái, quyền lợi của con
được giải quyết như trong trường hợp cha mẹ ly hơn. Điều này có nghĩa việc KHTPL
không ảnh hưởng tới quyền lợi giữa cha mẹ với con cái. Có thể thấy, Luật HN&GĐ
1986 đã có những quy định chi tiết và rõ ràng hơn về việc giải quyết các trường hợp
KHTPL.
Giai đoạn từ năm 2001 đến trước ngày 01/01/2015
Luật HN&GĐ 1986 chỉ dành một điều luật (Điều 9) để điều chỉnh vấn đề hủy
việc KHTPL. Trên cơ sở đó, Luật HN&GĐ 2000 ra đời thay thế cho Luật HN&GĐ
1986 và đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu thay đổi của xã hội. Nhờ vậy,
những quy định về xử lý việc KHTPL cũng được quy định rõ ràng hơn. Trên cơ sở
kế thừa Luật HN&GĐ 1959 và 1986, Luật HN&GĐ 2000 đã có thêm quy định cấm
kết hôn giữa những người cùng giới, mất năng lực hành vi dân sự17.
Chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc KHTPL đã được mở rộng hơn so với Luật
HN&GĐ 1986 và được liệt kê tại Điều 15 Luật HN&GĐ 2000. Theo yêu cầu của cá
nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 15 của Luật này, TA xem xét và quyết định
việc hủy KHTPL và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký
kết hôn. Căn cứ vào quyết định của TA, cơ quan đăng ký kết hơn xố đăng ký kết
hôn trong Sổ đăng ký kết hôn18.
Khi việc KHTPL bị hủy thì hai bên nam nữ phải chấm dứt quan hệ như vợ
chồng19. Ngoài ra, tùy vào từng trường hợp, hành vi kết hôn vi phạm điều kiện kết
hôn cũng có thể bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi TA
Điều 10 Luật HN&GĐ 2000.
Điều 16 Luật HN&GĐ 2000.
19
Khoản 1 Điều 17 Luật HN&GĐ 2000.
17
18
15
hủy việc KHTPL, tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn
thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các
bên; nếu khơng thỏa thuận được thì u cầu TA giải quyết, có tính đến cơng sức đóng
góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con20. Đồng
thời, vấn đề con chung được giải quyết như khi vợ chồng ly hơn21 nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của con.
So với pháp luật hơn nhân và gia đình các thời kỳ trước thì thì Luật HN&GĐ
2000 đã có bước tiến lớn trong việc xây dựng và củng cố chế độ hơn nhân và gia đình,
là nguồn quan trọng và là nền tảng cho việc xây dựng Luật HN&GĐ 2014 hiện nay.
1.3. Ý nghĩa của việc xử lý kết hôn trái pháp luật
Luật HN&GĐ 2014 điều chỉnh các quan hệ về hơn nhân và gia đình, cụ thể là
xử lý việc KHTPL, nhằm đem lại những ý nghĩa sau:
Ý nghĩa về mặt xã hội
Bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các chủ thể trong quan hệ hôn nhân
gia đình, đặc biệt hướng tới bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
Do hủy việc KHTPL có thể dẫn đến nhiều hậu quả nặng nề đối với các bên kết
hôn, nhất là phụ nữ và con của họ nên pháp luật đã có những quy định mềm dẻo nhằm
bảo vệ quyền lợi cho trẻ em và các bên có liên quan. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của trẻ em, pháp luật hôn nhân và gia đình nước ta quy định quan hệ giữa cha,
mẹ và con không phụ thuộc vào cuộc hôn nhân của cha mẹ có hợp pháp hay khơng,
cịn tồn tại hay chấm dứt22. Ngồi ra, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người
phụ nữ, Luật HN&GĐ còn dựa vào cơng việc nội trợ và cơng việc khác có liên quan
để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập là căn cứ để chia tài
sản23. Đồng thời, không phải trong mọi trường hợp, TA đều hủy việc KHTPL. Quy
định này là hợp lý để bảo vệ quyền lợi của các bên kết hôn, đặc biệt là người phụ nữ.
Xử lý những trường hợp KHTPL nhằm củng cố và duy trì trật tự của xã hội.
Hành vi KHTPL không chỉ ảnh hưởng đến việc quản lý của CQNN mà cịn
tác động đến nhiều khía cạnh khác của đời sống xã hội. Nó có thể vi phạm nghiêm
trọng đạo đức xã hội và ảnh hưởng đến hạnh phúc của nhiều gia đình, tác động tiêu
cực đến cá nhân nói riêng và xã hội nói chung. Trước tiên, việc kết hôn không tuân
Khoản 3 Điều 17 Luật HN&GĐ 2000.
Khoản 3 Điều 17 Luật HN&GĐ 2000.
22
Khoản 2 Điều 12 Luật HN&GĐ 2014.
23
Khoản 3 Điều 12 và Khoản 2 Điều 16 Luật HN&GĐ 2014.
20
21
16
thủ pháp luật có thể gây ra sự bất hịa, xung đột và đe dọa đến trật tự của xã hội. Đồng
thời, nếu các trường hợp KHTPL diễn ra thường xuyên, điều này có thể gián tiếp gây
ra những hậu quả xã hội như: sự mất trật tự, tăng độ tuổi cưới hỏi, tăng độ tuổi sinh
sản, bạo lực gia đình, phân hóa xã hội và bất bình đẳng giới tính.
Ý nghĩa về mặt pháp lý
Xử lý việc KHTPL bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật trong việc xử lý
hành vi vi phạm pháp luật.
Việc KHTPL có thể là cơ sở hình thành nên các suy nghĩ lệch lạc về việc
không chấp hành quy định pháp luật về điều kiện kết hơn, từ đó, hình thành nên hành
vi vi phạm của các chủ thể kết hơn khác. Có thể nói, việc KHTPL làm giảm đi sức
nặng của pháp luật đối với hành vi của con người và ảnh hưởng xấu đến tính cơng
bằng và bình đẳng của các quy định pháp luật trong thực tế. Hành vi KHTPL có thể
ảnh hưởng đến hoạt động quản lý của các CQNN. Điều này làm cho các CQNN gặp
khó khăn trong việc nắm bắt và quản lý các vấn đề liên quan. Do vậy, việc đưa ra các
biện pháp xử lý việc KHTPL là cần thiết.
Xử lý các trường hợp KHTPL nhằm đảm bảo mục đích của hơn nhân, dung
hịa được lợi ích của Nhà nước và của các chủ thể.
Trong trường hợp các bên KHTPL đã đủ điều kiện kết hôn theo ý chí của Nhà
nước và có nguyện vọng xác lập quan hệ hơn nhân theo ý chí của bản thân nên việc
công nhận hôn nhân này sẽ không ảnh hưởng tới mục đích cơ bản của hơn nhân. Điều
này khơng chỉ đem lại lợi ích cho gia đình mà cịn góp phần dung hịa lợi ích của Nhà
nước và các chủ thể. Trong trường hợp khác, TA có thể sẽ ra quyết định hủy việc
KHTPL. Việc đưa ra chế tài hủy việc KHTPL nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của các
bên theo ý chí của Nhà nước. Chế tài cịn góp phần đẩy lùi và hạn chế những gia đình
khơng đảm bảo được mục đích cơ bản của hơn nhân trong xã hội.
1.4. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về xử lý việc kết hôn trái
pháp luật
1.4.1. Pháp luật Trung Quốc về xử lý việc kết hơn trái pháp luật24
BLDS của Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa hiện hành được thông qua tại Kỳ
họp thứ ba của Đại hội đại biểu nhân dân Toàn quốc lần thứ XIII và có hiệu lực ngày
01/01/2021. Bộ luật này gồm 7 cuốn, trong đó pháp luật về hơn nhân được quy định
“Bộ luật dân sự Trung Quốc: Quyển V Hơn nhân và Gia đình (2020)”,
truy cập ngày 27/03/2023.
24
17
tại Chương II Cuốn V về Hôn nhân và Gia đình. Khi xử lý các trường hợp KHTPL,
pháp luật về hơn nhân Trung Quốc quy định cuộc hơn đó có thể bị vô hiệu hoặc hủy
bỏ.
Trường hợp thứ nhất, hôn nhân vô hiệu trong các trường hợp25 sau: (1) một
trong hai bên kết hơn đã có vợ hoặc đã có chồng; (2) các bên trong hôn nhân thuộc
quan hệ họ hàng bị pháp luật cấm kết hôn với nhau; (3) một trong hai bên tham gia
cuộc hôn nhân dưới tuổi kết hôn theo luật định.
Trường hợp thứ hai, TAND hủy bỏ việc kết hôn khi: (1) việc kết hôn do bị ép
buộc thì bên bị cưỡng chế có quyền u cầu hủy bỏ việc kết hôn26; (2) nếu một trong
hai bên mắc bệnh hiểm nghèo thì phải thơng báo trung thực cho bên kia về bệnh đó
trước khi đăng ký kết hơn; nếu thơng tin đó khơng trung thực thì bên kia có thể nộp
đơn yêu cầu huỷ bỏ việc kết hôn27.
Trong trường hợp việc kết hôn do bị ép buộc thì đơn bãi bỏ việc kết hơn được
thực hiện trong thời hạn một năm, kể từ ngày việc cưỡng chế chấm dứt. Trường hợp
bên bị cưỡng chế có quyền tự do cá nhân bị hạn chế trái pháp luật muốn bãi bỏ việc
kết hơn thì đơn xin bãi bỏ việc kết hôn được thực hiện trong thời hạn một năm, kể từ
ngày tự do nhân thân của bên đó được khơi phục28. Cịn trường hợp khơng khai báo
trung thực về bệnh hiểm nghèo, đơn xin bãi bỏ hôn nhân phải được thực hiện trong
thời hạn một năm, kể từ ngày một bên biết hoặc lẽ ra phải biết nguyên nhân của việc
bãi bỏ hôn nhân29.
Đối với hậu quả pháp lý về quan hệ nhân thân, một cuộc hôn nhân vơ hiệu
hoặc hủy bỏ khơng có hiệu lực pháp lý kể từ đầu, và không bên nào của cuộc hôn
nhân đó sẽ có bất kỳ quyền hoặc nghĩa vụ nào phát sinh từ quan hệ hôn nhân. Về
quan hệ tài sản, tài sản có được trong thời gian chung sống sẽ được giải quyết theo
thỏa thuận của hai bên. Trường hợp các bên khơng thỏa thuận được thì TAND xét xử
vụ án theo ngun tắc có lợi cho bên khơng có lỗi. Khi định đoạt tài sản có được trong
thời kỳ hôn nhân đã bị vô hiệu do tranh chấp thì quyền và lợi ích riêng của các bên
trong hơn nhân hợp pháp không bị xâm phạm. Về quan hệ với con cái, các quy định
của BLDS Trung Quốc 2020 về cha mẹ và con cái được áp dụng đối với trẻ em do
Điều 1051 BLDS Trung Quốc năm 2020.
Điều 1052 BLDS Trung Quốc năm 2020.
27
Điều 1053 BLDS Trung Quốc năm 2020.
28
Điều 1052 BLDS Trung Quốc năm 2020.
29
Điều 1053 BLDS Trung Quốc năm 2020.
25
26
18
các bên kết hôn vô hiệu hoặc hủy bỏ. Trong trường hợp hôn nhân bị vô hiệu hoặc bị
huỷ bỏ thì bên khơng có lỗi có quyền u cầu bồi thường thiệt hại30. Đây là một điểm
khác biệt trong pháp luật Trung Quốc so với quy định của pháp luật Việt Nam về xử
lý các trường hợp KHTPL.
1.4.2. Pháp luật Pháp về xử lý việc kết hôn trái pháp luật31
BLDS Pháp hay còn gọi là Bộ luật Napoleon được ra đời vào năm 1804 và đã
được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho đến nay. Trong đó, các quy định về hủy việc
KHTPL được quy định tại Chương IV Thiên V.
Trong trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện tự nguyện tại Điều 146 BLDS
Pháp 1804, cả hai vợ chồng hoặc người vợ hay người chồng không tự nguyện kết
hôn, Viện Cơng tố có thể u cầu hủy việc kết hôn. Việc ép buộc hai vợ chồng hoặc
một trong hai vợ chồng, kể cả do sợ hãi một người có quan hệ trực hệ hàng trên, cũng
là căn cứ để hủy kết hơn. Nếu một bên vợ hoặc chồng có sự nhầm lẫn về người hoặc
về tư cách chủ yếu của bên kia thì có quyền u cầu hủy việc kết hôn32. Trong trường
hợp này, đơn yêu cầu hủy việc kết hôn sẽ không được thụ lý sau năm năm tính từ
ngày kết hơn33.
Trong trường hợp kết hơn vi phạm Điều 148 BLDS Pháp 1804, việc kết hôn
được thực hiện mà khơng có sự đồng ý của cha, mẹ, ơng, bà hay của hội đồng gia tộc
trong khi bắt buộc phải có sự đồng ý của những người này, thì chỉ những người này
hoặc bên kết hơn cần có ý kiến đồng ý này có thể yêu cầu hủy việc kết hôn34. Vợ,
chồng và những họ hàng cần xin ý kiến đồng ý về việc kết hơn khơng cịn quyền yêu
cầu hủy việc kết hôn nếu việc kết hôn đã được những người này chấp thuận công khai
hoặc chấp thuận ngầm hoặc nếu sau năm năm kể từ khi biết việc kết hơn mà khơng
có u cầu. Người vợ hoặc người chồng cũng không được yêu cầu hủy kết hôn nếu
sau năm năm kể từ khi đến tuổi đủ khả năng tự nguyện kết hơn mà khơng có khiếu
kiện về việc kết hôn35.
Trong trường hợp việc kết hôn vi phạm quy định tại các điều 144, 146, 146-1,
147, 161, 162 và 163 BLDS Pháp 1804 hiện hành, vợ, chồng, những người có quyền
Điều 1054 BLDS Trung Quốc năm 2020.
“France FR512 Civil Code (consolidated version as of
truy cập ngày 30/03/2023.
32
Điều 180 BLDS Pháp năm 1804 sửa đổi, bổ sung năm 2013.
33
Điều 181 BLDS Pháp năm 1804 sửa đổi, bổ sung năm 2013.
34
Điều 182 BLDS Pháp năm 1804 sửa đổi, bổ sung năm 2013.
35
Điều 183 BLDS Pháp năm 1804 sửa đổi, bổ sung năm 2013.
30
31
July
1,
2013)”,
19
lợi liên quan hoặc Viện Công tố, trong thời hạn ba mươi năm kể từ ngày kết hơn, có
quyền u cầu hủy việc kết hôn36. Đối với hôn nhân do vợ hoặc chồng chưa đủ tuổi
hoặc một trong hai người khơng đủ tuổi theo luật định, có thể khơng cịn là căn cứ để
yêu cầu hủy kết hôn trong trường hợp sau: (1) đã qua sáu tháng kể từ khi các bên đủ
tuổi kết hôn, (2) người vợ không đủ tuổi đã thụ thai trước sáu tháng. Những người
thân thuộc hoặc con riêng của vợ hoặc chồng chỉ có thể yêu cầu hủy việc kết hôn theo
quy định tại điều 184 khi cả hai vợ chồng còn sống và chỉ khi quyền lợi liên quan của
họ đã phát sinh trước thời điểm yêu cầu và vẫn còn tồn tại vào thời điểm yêu cầu37.
Trong các trường hợp áp dụng điều 184, Viện trưởng Viện Cơng tố có quyền và nghĩa
vụ yêu cầu hủy việc kết hôn trong lúc sinh thời của vợ chồng và buộc họ phải sống
riêng biệt38. Trong trường hợp người vợ hoặc chồng bị thiệt hại do việc kết hôn lần
thứ hai của người chồng hoặc vợ gây ra có quyền u cầu hủy việc kết hơn lần thứ
hai đó ngay từ lúc sinh thời của người chồng hoặc vợ đã kết hơn với mình. Nếu vợ
chồng kết hôn lần thứ hai viện dẫn sự vô hiệu của lần kết hơn thứ nhất thì TA trước
hết phải xem xét hiệu lực của lần kết hôn thứ nhất39.
Về quan hệ nhân thân, khi hủy việc kết hôn, họ phải sống riêng biệt và chấm
dứt quan hệ vợ chồng. Việc kết hôn phát sinh hiệu lực đối với các con, ngay cả khi
việc kết hôn bị hủy. Thẩm phán ra quyết định việc trơng nom, chăm sóc, giáo dục,
ni dưỡng con như trong trường hợp giải quyết ly hôn. Quy định này khá tương
đồng đối với các quy định về xử lý việc KHTPL ở Việt Nam.
1.4.3. Pháp luật Nhật Bản về xử lý việc kết hôn trái pháp luật40
Tương tự với Pháp, quy định của pháp luật Nhật Bản về xử lý việc KHTPL
cũng nằm trong BLDS. BLDS Nhật Bản ra đời năm 1896 vừa được Quốc hội Nhật
Bản sửa đổi vào ngày 13/6/2018 và đã có hiệu lực thi hành kể từ tháng 4/2022.
Khác với pháp luật Việt Nam, điều kiện kết hôn về mặt nội dung của pháp luật
Nhật Bản chỉ yêu cầu về độ tuổi và liệt kê các trường hợp cấm kết hôn41. Về nguyên
Điều 184 BLDS Pháp năm 1804 sửa đổi, bổ sung năm 2013.
Điều 187 BLDS Pháp năm 1804 sửa đổi, bổ sung năm 2013.
38
Điều 190 BLDS Pháp năm 1804 sửa đổi, bổ sung năm 2013.
39
Điều 188 và 189 BLDS Pháp năm 1804 sửa đổi, bổ sung năm 2013.
40
“Civil Code (Act No. 89 of 1896)”, />truy cập ngày 02/04/2023.
41
Điều 731, 732, 733, 734, 735, 736, 737 và 738 BLDS Nhật Bản 1896 sửa đổi, bổ sung năm 2018.
36
37
20
tắc, hôn nhân không thể bị hủy bỏ, trừ những quy định từ điều 744 đến 747 BLDS
Nhật Bản42. Theo đó, chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn43 là:
Thứ nhất, một trong hai bên kết hôn, người thân của họ hoặc cơng tố viên có
thể u cầu TA hủy việc kết hôn nếu vi phạm các quy định về điều kiện kết hôn từ
các điều 731 đến 736 BLDS Nhật Bản. Tuy nhiên, cơng tố viên có thể không yêu cầu
điều này khi một trong hai bên đã chết.
Thứ hai, vợ/chồng hoặc vợ/chồng trước của một bên trong hôn nhân vi phạm
các quy định của Điều 732 hoặc Điều 733 có thể u cầu hủy hơn nhân.
Thứ ba, người bị lừa dối hoặc cưỡng ép kết hôn cũng có thể u cầu TA hủy
bỏ việc kết hơn đối với các trường hợp kết hôn do bị cưỡng ép, lừa dối được quy định
tại Điều 747 của BLDS Nhật Bản.
Một điểm khác biệt so pháp luật nước ta là quyền yêu cầu hủy bỏ việc KHTPL
ở Nhật Bản có những giới hạn nhất định. Đầu tiên, khi việc kết hơn có sự vi phạm về
độ tuổi, chủ thể kết hơn chưa đến tuổi kết hơn chỉ có thể u cầu hủy việc kết hơn
trong vịng ba tháng sau khi đã đủ tuổi kết hôn, với điều kiện là anh ấy/cô ấy chưa
phê chuẩn việc kết hôn khi đã đủ tuổi kết hôn44. Thứ hai, yêu cầu hủy việc kết hơn có
thể khơng được đưa ra đối với một cuộc hôn nhân vi phạm các quy định của Điều
733 nếu 06 tháng đã trôi qua kể từ ngày cuộc hôn nhân trước bị hủy bỏ, hoặc nếu một
người phụ nữ đã mang thai một đứa trẻ sau khi tái hôn45. Thứ ba, trong trường hợp
kết hôn do bị cưỡng ép, lừa dối thì quyền yêu cầu hủy bỏ việc kết hôn sẽ mất hiệu lực
sau ba tháng kể từ khi phát hiện ra mình bị lừa dối hoặc chấp nhận sự cưỡng ép đó46.
Việc hủy việc KHTPL ở Nhật Bản khơng có hiệu lực hồi tố47. Điều này có
nghĩa những quy định pháp luật hiện tại chỉ có hiệu lực điều chỉnh đối với những
trường hợp KHTPL xảy ra từ khi những quy định đó có hiệu lực.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này, tác giả đã tập trung giải quyết các vấn đề về khái niệm, đặc
điểm và ý nghĩa của việc xử lý kết hôn trái pháp luật theo Luật Hơn nhân và gia đình
Việt Nam, đồng thời đề cập đến những quy định liên quan ở những giai đoạn lịch sử
Điều 743 BLDS Nhật Bản 1896 sửa đổi, bổ sung năm 2018.
Điều 744 BLDS Nhật Bản 1896 sửa đổi, bổ sung năm 2018.
44
Điều 745 BLDS Nhật Bản 1896 sửa đổi, bổ sung năm 2018.
45
Điều 746 BLDS Nhật Bản 1896 sửa đổi, bổ sung năm 2018.
46
Điều 747 BLDS Nhật Bản 1896 sửa đổi, bổ sung năm 2018.
47
Điều 748 BLDS Nhật Bản 1896 sửa đổi, bổ sung năm 2018.
42
43