Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.92 MB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ PHƯỢNG

TRÁCH NHIỆM CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI
CON CHUNG SAU KHI LY HƠN

KHĨA LUẬN CHUN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH – 6 – 2023


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ PHƯỢNG

TRÁCH NHIỆM CỦA CHA MẸ
ĐỐI VỚI CON CHUNG SAU KHI LY HÔN

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN PHƯƠNG ÂN

TP. HỒ CHÍ MINH – 6 – 2023


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

STT


Nội dung được viết tắt

1

BLDS

Bộ luật Dân sự

2

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

3

BLHS

Bộ luật Hình sự

4

HĐXX

Hội đồng xét xử

5

HĐTP-TANDTC


Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân
tối cao

6

Luật HNGĐ năm 2014

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

7

Luật NCN năm 2010

Luật Ni con ni năm 2010

8

TAND

Tòa án nhân dân

9

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON CHUNG SAU KHI LY HÔN
.....................................................................................................................................6
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của cha mẹ
đối với con chung sau khi ly hôn ..............................................................................6
1.1.1 Khái niệm trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn ...6
1.1.2 Đặc điểm trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn ....9
1.1.3 Ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung
sau khi ly hôn trong Luật HNGĐ .......................................................................12
1.1.3.1 Ý nghĩa về mặt xã hội........................................................................12
1.1.3.2 Ý nghĩa về mặt pháp luật ...................................................................13
1.2 Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm của cha mẹ đối với con
chung sau khi ly hôn ...............................................................................................14
1.2.1 Xác định trách nhiệm của cha, mẹ đối với con thông qua cơ chế xác
định người trực tiếp nuôi con và thay đổi người trực tiếp nuôi con ...................14
1.2.1.1 Xác định người trực tiếp nuôi con .....................................................14
1.2.1.2 Thay đổi người trực tiếp nuôi con .....................................................16
1.2.2
Trách nhiệm chung của cha mẹ trong việc trơng nom, chăm sóc, giáo
dục con sau khi ly hôn ........................................................................................17
1.2.2.1 Trách nhiệm của cha mẹ trong việc yêu thương, trơng nom, chăm sóc
con
...........................................................................................................17
1.2.2.2 Trách nhiệm của cha mẹ trong việc giáo dục con, chăm lo, tạo điều
kiện cho con học tập. ......................................................................................18
1.2.2.3 Trách nhiệm của cha mẹ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của con ...........................................................................................................19
1.2.3 Trách nhiệm của người trực tiếp nuôi con ............................................19
1.2.4 Trách nhiệm của người không trực tiếp nuôi con .................................21
1.2.4.1 Trách nhiệm cấp dưỡng của cha mẹ đối với con ...............................21

1.2.4.2 Trách nhiệm thăm nom con. ..............................................................24


1.2.5 Quy định của pháp luật trong trường hợp có sự vi phạm về trách nhiệm
của cha, mẹ đối với con chung khi ly hơn ..........................................................24
1.2.5.1 Chế tài hành chính .............................................................................24
1.2.5.2 Chế tài dân sự ....................................................................................24
1.2.5.3 Chế tài hình sự ...................................................................................25
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .........................................................................................27
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON
CHUNG SAU KHI LY HÔN .................................................................................28
2.1 Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị trong việc xác định người trực tiếp
nuôi con khi cha, mẹ ly hôn ....................................................................................28
2.1.1 Bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật và nguyên nhân ..................28
2.1.2 Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật..................................................34
2.2 Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
của người không trực tiếp nuôi con .......................................................................38
2.2.1

Bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật và nguyên nhân ..................38

2.2.2
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật .................................................42
2.3 Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị trong việc thực hiện quyền và nghĩa
thăm nom con ..........................................................................................................44
2.3.1 Bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật và nguyên nhân ..................44
2.3.2 Một số kiến kiến nghị hoàn thiện pháp luật ..........................................45
2.4 Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị trong việc thay đổi người trực tiếp
nuôi con ....................................................................................................................46

2.4.1 Bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật và nguyên nhân ..................46
2.4.2 Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật..................................................48
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .........................................................................................50
KẾT LUẬN ..............................................................................................................51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC CÁC BẢN ÁN ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG KHÓA LUẬN


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xem gia đình là nhân tố quan trọng quyết định
sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1991 khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội,
là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp
sống và hình thành nhân cách”1. Ở góc độ pháp lý, Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014 (Luật HNGĐ năm 2014) đưa ra khái niệm về gia đình như sau:“Gia đình là tập
hợp những người gắn bó với nhau do hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ
nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của
Luật này”2.
Một trong những nền tảng của gia đình chính là hơn nhân. Hơn nhân là cầu nối,
là sợi dây ràng buộc giữa người đàn ông và người phụ nữ, gắn kết họ trở thành một
gia đình. Tuy nhiên, để có được một cuộc hơn nhân hạnh phúc khơng phải chuyện
đơn giản. Ngày nay, cùng với sự đa dạng về chính trị, kinh tế, văn hóa trên thế giới,
nhiều quan niệm khác nhau về hơn nhân, gia đình và ni dạy con cái cũng xuất hiện.
Tính bền vững của gia đình ngày càng giảm, tỷ lệ ly hơn ngày càng tăng, tạo nên
nhiều cái giá phải trả về mặt cá nhân, cộng đồng và xã hội.
Khi vợ chồng không thể sống với nhau và quyết định ly hơn thì việc ly hơn

khơng có nghĩa là chấm dứt mọi chuyện mà còn rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết.
Bên cạnh tình thương, cách ứng xử với con làm sao để giúp trẻ hiểu hồn cảnh thực
tại thì cả cha và mẹ cần nhìn nhận, xác định rõ trách nhiệm của mình đối với con.
Điều này khơng chỉ góp phần bảo vệ tốt nhất quyền lợi của con một cách tổng thể,
mà cịn để đảm bảo duy trì những điều kiện thiết yếu cho con được phát triển đầy đủ,
lành mạnh. Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp luật cho thấy việc xác định trách nhiệm
của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hơn vẫn cịn nhiều bất cập, quyền lợi của
con chưa được nhìn nhận đầy đủ. Hoặc tuy xác định rõ được trách nhiệm của cha, mẹ
đối với con nhưng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cịn gặp những khó khăn nhất
định. Ngồi ra các bên cũng không tuân thủ đúng những nghĩa vụ mà pháp luật đặt ra
cho mình, gây ảnh hưởng rất lớn đến tương lai phát triển của những đứa trẻ. Từ những
1

Nguyễn Thị Nga, Ngơ Thị Nụ, “Vấn đề gia đình trong tư tưởng triết học của C.Mác, Ph.Ăngghen”,
truy cập ngày 25/04/2023.
2
Khoản 2 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014.

1


lí do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi
ly hơn” với mong muốn đi sâu tìm hiểu những quy định pháp luật; đánh giá thực tiễn
áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay; đưa ra những kiến nghị góp phần cải thiện các
quy định của pháp luật theo hướng ngày càng hồn thiện, đem lại kết quả tích cực đối
với những trẻ em có cha mẹ ly hơn nói riêng, đối với sự phát triển của xã hội nói
chung.
2. Tình hình nghiên cứu
-


Nhóm sách giáo trình, sách chun khảo
Đại học Luật TP. HCM (2022), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam
(tái bản lần thứ nhất, có sửa chữa, bổ sung), Nguyễn Văn Tiến, Nxb Hồng Đức.
Giáo trình cung cấp kiến thức cơ bản về các quy định của pháp luật hơn nhân
và gia đình nói chung, đặc biệt là các quy định có liên quan đến phạm vi nghiên

-

cứu của đề tài nói riêng làm cơ sở nghiên cứu cho đề tài.
Lê Vĩnh Châu, Đỗ Văn Đại, Trần Thị Hương, Lê Thị Mận, Nguyễn Văn Tiến,
Ngơ Thị Anh Vân (2018), Sách tình huống (Bình luận bản án) Luật Hơn nhân
và gia đình Việt Nam. Các chủ đề trong sách gồm: “Xét nguyện vọng con khi

-

-

quyết định giao con cho cha hoặc mẹ nuôi sau khi ly hôn”, “Quan hệ cha mẹ
con khi cha mẹ ly hôn”, “Quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng con của cha mẹ”,
“Quyền thăm nom con sau khi ly hôn” nêu lên các vấn đề pháp lý xảy ra trong
thực tiễn xoay quanh phạm vi nghiên cứu của đề tài nhưng chưa được nhà làm
luật dự liệu và đưa vào trong luật thực định cũng như các vấn đề pháp lý vẫn
còn nhiều quan điểm khác nhau làm cơ sở nghiên cứu cho đề tài.
Nhóm các luận án, luận văn
Trương Bích Thủy (2020), Trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung khi ly
hôn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật TP. HCM. Trong luận văn này,
tác giả phân tích cơ chế xác định người trực tiếp nuôi con sau khi ly hơn, từ đó
tiến hành chia nhóm và phân tích trách nhiệm của người trực tiếp và khơng trực
tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Thông qua việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp
luật, tác giả nêu lên những vướng mắc xoay quanh đề tài bao gồm: việc giao

con cho ai nuôi, thăm nom con, xác định mức cấp dưỡng, thời điểm cấp dưỡng
và việc tạm ngừng cấp dưỡng nuôi con. Đối với vấn đề thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau khi ly hôn tác giả không có sự đề cập.
Ngơ Khánh Tùng (2018), Bảo vệ quyền lợi của con sau khi cha mẹ ly hơn, Khóa
luận tốt nghiệp, Đại học Luật TP. HCM. Thông qua việc nghiên cứu toàn diện
2


các khía cạnh lý luận, quy định cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật, tác giả
đưa ra nhiều kiến nghị cần thiết xoay quanh phạm vi nghiên cứu của khóa luận.
Một trong những kiến nghị đáng chú ý của tác giả đó là việc cơ quan chức năng
cần lựa chọn, cơng bố án lệ có liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của con sau
khi cha, mẹ ly hơn. Bên cạnh đó, Tịa án nhân dân tối cao (TANDTC) cũng cần
có thêm Cơng văn hướng dẫn về cách thức áp dụng án lệ phù hợp với tình hình
thực tiễn, giúp cho Thẩm phán “mạnh dạn” hơn trong việc viện dẫn và áp dụng
-

án lệ vào quá trình xét xử.
Mã Nhựt Hào (2021), Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hơn, Khóa
luận tốt nghiệp, Đại học Luật TP. HCM. Trong khóa luận của mình, tác giả đã
chỉ ra bất cập của pháp luật hôn nhân gia đình khi khơng ghi nhận cách thức,
thời gian, địa điểm thăm nom con dẫn đến việc thăm nom con chưa có kế hoạch,
chưa hợp lý, đồng thời chỉ thừa nhận quyền nuôi con thuộc về một bên sau khi
ly hôn dẫn đến việc trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con của người
không trực tiếp nuôi con gặp nhiều cản trở. Liên hệ giữa hai bất cập này, cùng
việc tham khảo pháp luật Anh và Hoa Kỳ, tác giả đưa ra đề xuất việc công nhận

-

-


thêm quyền trực tiếp nuôi con của cả cha và mẹ sau khi ly hơn thay vì chỉ thuộc
một bên như hiện nay.
Nhóm các tạp chí
Trương Minh Tấn (2020), “Xem xét nguyện vọng của người con khi cha mẹ ly
hơn”, Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử. Trong bài viết này, tác giả đã nêu ra
những bất cập điển hình của việc xem xét nguyện vọng của con khi cha mẹ ly
hôn hiện nay là hình thức chưa có sự thống nhất và việc đây có phải là thủ tục
bắt buộc hay khơng cịn tồn tại những quan điểm trái chiều. Từ đó, tác giả kiến
nghị cần phải xem việc lấy ý kiến của con là thủ tục bắt buộc, đồng thời pháp
luật cần phải quy định hình thức cụ thể thực hiện thủ tục này khi giải quyết vụ
việc ly hôn.
Dương Tấn Thanh (2023), “Một số ý kiến về mức cấp dưỡng ni con tối thiểu”,
Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử. Trong bài viết này, tác giả trình bày quy định
của pháp luật hiện nay về mức cấp dưỡng và chỉ ra sự khuyết thiếu của việc
hướng dẫn mức cấp dưỡng tối thiểu mà cha hoặc mẹ có nghĩa vụ phải cấp dưỡng
cho con mình. Dựa trên mức cấp dưỡng tối thiểu mà Dự thảo Nghị quyết của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTP-TANDTC) hướng dẫn
một số vấn đề về giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình quy định, tác giả
3


đề xuất mức cấp dưỡng ít nhất bằng 3/4 mức lương cơ sở hoặc không được thấp
hơn 30% mức thu nhập bình qn của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trong 06
-

tháng liền kề.
Tạ Ngọc Nam (2023), “Khắc phục vướng mắc về thực hiện quyền và nghĩa vụ
thăm nom, chăm sóc con sau ly hơn”, Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử. Tác giả
nêu lên bất cập đó là Luật HNGĐ năm 2014 không quy định rõ về cách thức,

thời gian, địa điểm thực hiện quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con sau
khi ly hơn nên việc thăm nom của người không trực tiếp nuôi con gặp nhiều khó
khăn, đồng thời chế tài cho hành vi này cịn tương đối nhẹ. Từ đó tác giả đề xuất
việc quy định rõ phương thức, cách thức, thời gian, địa điểm thăm nom con, ưu
tiên sự ghi nhận hành vi ngăn cản việc thăm nom là có sở pháp lý để thực hiện
quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

3.
-

Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn về quy định pháp luật: tác giả giới hạn nghiên cứu đề tài trong phạm
vi pháp luật hơn nhân và gia đình, có sự tham khảo đối sánh với pháp luật Dân
sự, Luật Trẻ em, Luật Nuôi con nuôi và các Nghị định, Thơng tư hướng dẫn có

-

-

4.
-

liên quan.
Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: tác giả nghiên cứu các vấn đề xoay quanh
trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn trong quan hệ pháp
luật giữa cha, mẹ và con phát sinh dựa trên sự kiện sinh đẻ và sự kiện nhận nuôi
con nuôi, không dựa trên sự kiện sống chung. Đồng thời tác giả cũng không
nghiên cứu đối tượng trong quan hệ hơn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài
theo quy định của Luật HNGĐ năm 2014 và các văn bản pháp luật có liên quan.
Giới hạn về phạm vi lãnh thổ: tác giả nghiên cứu đề tài của mình theo quy định

của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, đề tài có đề cập đến pháp luật một số nước
trên thế giới như Anh, Mỹ, nhằm có sự so sánh, đối chiếu, rút ra kinh nghiệm
cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Giới hạn về thời gian: Đề tài của tác giả nghiên cứu trong giới hạn của Luật
HNGĐ năm 2014.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phương pháp sau:
Phương pháp liệt kê, trích dẫn được sử dụng để liệt kê các khái niệm ở mục
1.1.1, các quy định của pháp luật có liên quan đến phạm vi nghiên cứu trong

4


tồn thể khóa luận. Phương pháp này cũng được sử dụng ở Chương 2 để trích
dẫn ý kiến của các học giả, nhà nghiên cứu khác.
˗

Phương pháp phân tích được sử dụng ở mục 1.1.2 để phân tích các đặc điểm về
trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung sau khi ly hôn. Tác giả cũng sử dụng
phương pháp này ở mục 1.2 để phân tích các quy định của pháp luật hiện hành
về trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hơn. Ngồi ra tác giả
sử dụng phương pháp này ở các mục 2.1.1, 2.2.1, 2.3.1, 2.4.1 để giải thích
nguyên nhân của các bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật xoay quanh phạm
vi nghiên cứu.

˗

˗

Phương pháp so sánh được sử dụng ở mục 2.1.2 để so sánh các quy định của

pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật nước ngoài. Tác giả cũng sử
dụng phương pháp này ở các mục 2.1.1, 2.2.1, 2.3.1, 2.4.1 để chỉ ra bất cập
trong thực tiễn áp dụng so với nội dung các quy định pháp luật xoay quanh phạm
vi nghiên cứu.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong tồn bộ khóa luận để liên kết các
vấn đề với nhau tạo nên một chỉnh thể có trật tự nhất định nhằm củng cố, chứng

minh cho những luận điểm, những vấn đề mà tác giả nghiên cứu.
5. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của tác giả đối với đề tài: xác định người trực tiếp nuôi con
chung sau khi ly hôn, xác định trách nhiệm chung của người trực tiếp nuôi con và
người không trực tiếp nuôi con, xác định trách nhiệm đặc thù của người trực tiếp nuôi
con và người không trực tiếp nuôi con. Trên cơ sở nghiên cứu ấy, tác giả đối chiếu
giữa các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, đồng thời học hỏi một số kinh
nghiệm của pháp luật nước ngồi để từ đó đưa ra các kiến nghị trong việc sửa đổi, bổ
sung các quy định của pháp luật Việt Nam nhằm hoàn thiện chế định trách nhiệm của
cha mẹ đối với con chung sau khi ly hơn. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của các
quy định pháp luật cũng như bảo vệ một cách tốt nhất lợi ích của các chủ thể.
6. Bố cục đề tài
Tác giả thực hiện đề tài với bố cục gồm có phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và 02 chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung và quy định của pháp luật về trách nhiệm của cha
mẹ đối với con chung sau khi ly hôn;
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn.
5


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON CHUNG

SAU KHI LY HÔN
1.1
Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của
cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn
1.1.1

Khái niệm trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly

hôn
Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con có thể phát sinh dựa vào một trong các
sự kiện sau: sinh đẻ; nuôi dưỡng hoặc sống chung. Đặt trong phạm vi tìm hiểu về
khái niệm “con chung” thì hiện nay Luật HNGĐ năm 2014 mặc dù không đưa ra khái
niệm cụ thể, nhưng dựa trên các quy định của Luật, ta cũng có căn cứ để xác định khi
nào con sẽ được công nhận là con chung của vợ chồng. Cũng cần phải khẳng định
rằng quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con dù phát sinh dựa trên sự kiện sinh đẻ hay
sự kiện ni dưỡng thì con chung của vợ chồng là đứa trẻ có cha mẹ mà giữa cha mẹ
của trẻ tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Đầu tiên và cũng là phổ biến nhất, quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con chung
phát sinh dựa vào sự kiện sinh đẻ. Cụ thể, con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và
được cha mẹ thừa nhận; con sinh ra hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân
là con chung của vợ chồng. Con sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm
dứt hơn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hơn nhân 3. Có thể
thấy quy định này nhấn mạnh đến yếu tố thời kỳ hôn nhân. Theo pháp luật hiện hành,
thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày
đăng ký kết hơn đến ngày chấm dứt hơn nhân4. Theo đó, người con có thể được sinh
ra trước, trong, và sau thời kỳ hôn nhân của vợ chồng. Đối với mỗi thời điểm khác
nhau thì căn cứ để xác định con chung của vợ chồng có thể dựa trên sự thừa nhận tự
nguyện của cha mẹ hoặc dựa trên phương pháp suy đoán pháp lý. Trước thời kỳ hôn
nhân của cha mẹ, nếu người con được sinh ra thì pháp luật cơng nhận đây là con
chung của vợ chồng với điều kiện phải có sự thừa nhận của cha, mẹ một cách tự

nguyện. Còn đối với trong thời kỳ hôn nhân và sau thời kỳ hôn nhân thì con chung
của vợ chồng được xác định dựa theo phương pháp suy đoán pháp lý.

3
4

Khoản 1 Điều 88 Luật HNGĐ năm 2014.
Khoản 13 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014.

6


Tuy nhiên, không phải lúc nào người con cũng được sinh ra trong thời kỳ hôn
nhân của cha mẹ. Khi mẹ của trẻ mang thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng trẻ chưa
được sinh ra mà cha mẹ của trẻ đã ly hôn (chấm dứt quan hệ hôn nhân kể từ ngày bản
án, quyết định ly hơn của Tịa án có hiệu lực pháp luật5) hoặc khơng may mắn cha
của trẻ chết (chấm dứt quan hệ hôn nhân kể từ thời điểm người chồng chết6) thì đứa
trẻ ấy sẽ được xác định là con chung của vợ chồng khi được sinh ra trong vòng 300
ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân. Lúc này trẻ được coi là con do vợ có thai
trong thời kỳ hơn nhân7. Người chồng đã ly hôn hoặc đã chết về mặt pháp luật được
suy đốn là cha của trẻ em đó. Tuy nhiên lúc này nếu người chồng đã ly hôn hoặc
những người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến người chồng đã chết không công
nhận đứa trẻ ấy là con của người chồng theo phương pháp suy đốn nêu trên thì họ
cần chứng minh và điều này phải được Tòa án chấp nhận.
Ngồi ra, pháp luật cịn quy định thêm trường hợp con chung của vợ chồng được
sinh ra theo phương thức đặc biệt là sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản8 và mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo9. Trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật
này10. Cịn trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì đứa trẻ sinh ra là
con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh11.

Bên cạnh đó, quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con chung cũng phát sinh dựa
vào sự kiện nuôi dưỡng. Nuôi con nuôi “là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa
người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”12. Đối với quan hệ nuôi con
nuôi, kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ ni và con ni có đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con13. Pháp luật đồng nhất địa vị pháp lý của con
nuôi trong quan hệ đối với cha mẹ nuôi tương tự địa vị pháp lý của con đẻ trong mối
quan hệ với cha mẹ. Cụ thể trong Luật HNGĐ năm 2014, chế định quyền và nghĩa
vụ giữa cha mẹ và con được áp dụng cho quan hệ cha mẹ, con phát sinh dựa vào sự

5

Khoản 1 Điều 57 Luật HNGĐ năm 2014.
Điều 65 Luật HNGĐ năm 2014.
7
Khoản 1 Điều 88 Luật HNGĐ năm 2014.
8
Khoản 21 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014.
9
Khoản 22 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014.
10
Khoản 1 Điều 93 Luật HNGĐ năm 2014.
11
Điều 94 Luật HNGĐ năm 2014.
12
Khoản 1, 2, 3 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi (Luật NCN) năm 2010.
13
Khoản 1 Điều 24 Luật NCN năm 2010.
6

7



kiện sinh đẻ và cũng được áp dụng cho quan hệ cha mẹ, con phát sinh dựa vào sự
kiện nuôi dưỡng mà khơng có bất kỳ một sự khác biệt nào tồn tại14.
Hôn nhân tuy mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp, nhưng khơng phải ai cũng may mắn
có cho mình một cuộc hôn nhân viên mãn. Khi không thể xây dựng được gia đình
hạnh phúc, vợ chồng có thể đi đến quyết định ly hôn. Theo khái niệm cụ thể được
quy định tại Luật HNGĐ năm 2014, ly hôn “là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án”15. Việc ly hôn sẽ làm chấm dứt
quan hệ giữa vợ và chồng nhưng không làm chấm dứt quan hệ cha, mẹ, con. Lúc này
do mối quan hệ giữa cha mẹ đã rạn nứt, việc cả gia đình tiếp tục sống cùng nhau dưới
một mái nhà dường như là không thể, cho nên việc cần giải quyết lúc này là xác định
con chung của vợ chồng giao cho cha hay mẹ nuôi dưỡng, đồng thời quyền và nghĩa
vụ của mỗi bên là gì. Giải quyết vấn đề này sẽ giúp xác định được trách nhiệm của
người trực tiếp nuôi con và trách nhiệm của người khơng trực tiếp ni con, hay nói
cách khác đây chính là xác định trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly
hôn. Vậy trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hơn là gì. Trước hết,
về thuật ngữ “trách nhiệm”, có thể được nhìn nhận dưới 2 góc độ sau:
Một là, trách nhiệm là nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu của pháp luật. Ở góc độ
này, trách nhiệm được hiểu là dạng trách nhiệm tích cực, gắn liền với bổn phận, nghĩa
vụ, cùng với thái độ tích cực thực hiện những quyền và nghĩa vụ pháp lý bắt buộc.
Hai là, trách nhiệm là sự gánh chịu hậu quả bất lợi, khi cá nhân hoặc tổ chức
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế đã được
dự liệu trong chế tài pháp luật.
Cho tới nay, chưa có văn bản pháp lý nào đưa ra định nghĩa cụ thể về thuật ngữ
trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn. Theo quan điểm của tác
giả, khi xem xét khái niệm trách nhiệm trong trách nhiệm của cha mẹ đối với con
chung sau khi ly hôn, cần phải xem xét dựa trên tổng hịa cả 02 góc độ. Hay nói cách
khác, trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn là “nghĩa vụ của cha
mẹ gắn liền với bổn phận cùng thái độ tích cực thực hiện những quyền và nghĩa vụ

pháp lý bắt buộc đối với con chung sau khi ly hôn, nếu vi phạm sẽ bị áp dụng các
biện pháp cưỡng chế đã được dự liệu trong chế tài pháp luật”.

14

Đại học Luật TP. HCM (2022), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam (tái bản lần thứ nhất, có
sửa chữa, bổ sung), Nguyễn Văn Tiến, Nxb Hồng Đức, trang 317.
15
Khoản 14 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014.

8


1.1.2

Đặc điểm trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly

hôn
Thứ nhất, trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn được đặt
ra giữa cha và mẹ tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Dưới góc độ lý luận, ly hơn là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ vợ chồng,
chỉ đặt ra nếu quan hệ trước đó của đơi bên là hợp pháp và được nhà nước công nhận.
Nếu giữa nam và nữ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp, thì thủ tục giải quyết
đối với mối quan hệ đó được gọi là xử lý việc kết hơn trái pháp luật hoặc không công
nhận quan hệ vợ chồng, kéo theo quan hệ cha mẹ con của những cặp đơi này cũng là
quan hệ ngồi giá thú. Trong phạm vi nghiên cứu, trách nhiệm của cha mẹ đối với
con chung sau khi ly hôn được đặt ra giữa cha, mẹ đã từng tồn tại quan hệ hôn nhân
hợp pháp, thuộc các trường hợp16: i) đã từng kết hôn theo quy định của Luật HNGĐ
về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn17; ii) đã từng rơi vào trường hợp “hôn nhân
thực tế” được nhà nước thừa nhận18; iii) kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn theo quy

định của Luật hơn nhân và gia đình nhưng đã được Tịa án cơng nhận quan hệ hơn
nhân bằng bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật19. Như vậy, trách
nhiệm của cha, mẹ và con sau khi ly hôn trong những trường hợp kể trên sẽ được giải
quyết theo quy định tại Điều 58 Luật HNGĐ năm 2014.
Thứ hai, trong trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hơn thì
quyền của cha mẹ cũng là nghĩa vụ của họ đối với con. Đồng thời quyền, nghĩa vụ
của cha và mẹ trong trường hợp này ln ngang bằng nhau, bình đẳng với nhau.
Đặc thù của quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con là khơng có sự phân định
rạch rịi giữa quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con. Cha mẹ khơng chỉ có quyền
mà cịn có nghĩa vụ thực hiện các quyền cha mẹ của mình. Xuất phát từ một trong
những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam đó là vợ chồng
bình đẳng, Luật HNGĐ năm 2014 đã quy định rõ vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ
ngang nhau trong phạm vi gia đình, đặc biệt vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang

Khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng
dẫn thi hành một số quy định của Luật HNGĐ.
17
Khoản 5 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014.
18
Điều 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 về việc thi hành Luật HNGĐ; Mục 2 Thông tư liên
tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/1/2001; khoản 2 Điều 11 Luật HNGĐ năm 2014;
điểm b khoản 4 Điều 2 TTLT 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành một số quy
định của luật hơn nhân và gia đình.
19
Điểm c khoản 4 Điều 2, điểm c khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HNGĐ
16

9



nhau trong việc trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục con. Đây cũng là tinh
thần được nội luật hóa từ Cơng ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em khi Công ước
quy định các Quốc gia thành viên phải có những cố gắng cao nhất để bảo đảm việc
thừa nhận nguyên tắc là cả cha và mẹ đều có trách nhiệm chung trong việc ni dưỡng
và sự phát triển của con cái. Cha mẹ, và tùy trường hợp có thể là người giám hộ hợp
pháp, có trách nhiệm đầu tiên trong việc nuôi dưỡng và sự phát triển của trẻ em.
Thứ ba, trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn bao gồm các
quyền và nghĩa vụ về nhân thân và quyền và nghĩa vụ về tài sản. Trong đó, các quyền
và nghĩa vụ về tài sản khơng mang tính đền bù ngang giá.
Quyền và nghĩa vụ về nhân thân trong quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình
là yếu tố tinh thần, tình cảm phi vật chất phát sinh giữa các chủ thể20. Trong trách
nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn, Luật HNGĐ năm 2014 đưa ra
các quyền và nghĩa vụ về nhân thân cho phép hoặc buộc cha mẹ phải thực hiện đối
với con chung gồm nghĩa vụ và quyền của cha mẹ trong việc u thương, trơng nom,
chăm sóc; giáo dục, chăm lo, tạo điều kiện học tập; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của con. Ngồi ra cịn có quyền và nghĩa vụ thăm nom con của người không trực tiếp
nuôi con21.
Quyền và nghĩa vụ tài sản trong quan hệ pháp luật hơn nhân gia đình là quyền
về lợi ích vật chất phát sinh và gắn với nhân thân của mỗi chủ thể22. Quyền và nghĩa
vụ về tài sản của cha mẹ trong trường hợp này có thể kể đến như quyền của cha mẹ
trong việc quản lý, định đoạt tài sản riêng của con theo quy định của pháp luật; quyền
và nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn; nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con gây ra23.
Thông thường, trong quan hệ dân sự, cụ thể như hợp đồng mua bán hoặc cho
thuê khi một tài sản được chuyển giao từ người này sang người khác thì cũng sẽ có
sự chuyển giao các giá trị tương ứng theo chiều ngược lại. Tuy nhiên, quan hệ tài sản
trong trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn không đặt ra vấn này.
Chẳng hạn đối với quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con thì cha mẹ có nghĩa vụ
20


Đại học Luật TP. HCM (2022), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam (tái bản lần thứ nhất, có
sửa chữa, bổ sung), Nguyễn Văn Tiến, Nxb Hồng Đức, trang 86.
21
Xem các quy định tại Điều 69; khoản 1, khoản 3 Điều 70; khoản 1 Điều 71; Điều 72; Điều 81; khoản 3
Điều 82 Luật HNGĐ năm 2014.
22
Đại học Luật TP. HCM (2022), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam (tái bản lần thứ nhất, có
sửa chữa, bổ sung), Nguyễn Văn Tiến, Nxb Hồng Đức, trang 88.
23
Xem các quy định tại Điều 74; Điều 76; Điều 77 Luật HNGĐ năm 2014; khoản 2 Điều 82 Luật HNGĐ
năm 2014.

10


chăm sóc, ni dưỡng đối với con, nếu họ khơng trực tiếp thực hiện nghĩa vụ này thì
phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng để thay thế. Người con được cấp dưỡng là người
đang trong tình trạng, hồn cảnh khơng thể tự lo cho mình, họ cần được ni dưỡng,
chu cấp cho cuộc sống tối thiểu nên khả năng thực hiện việc hoàn trả các giá trị vật
chất tương ứng nhận được từ việc cấp dưỡng là khó có thể đặt ra.
Thứ tư, trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hơn được hình
thành bởi những quyền và nghĩa vụ mang tính lâu dài, bền vững và không thể chuyển
giao cho chủ thể khác.
Pháp luật không đưa ra bất kỳ một quy định nào về việc cha mẹ có quyền yêu
cầu chấm dứt quan hệ cha mẹ đối với con chung do họ sinh ra, quan hệ này chỉ có thể
chấm dứt khi một bên cha mẹ hoặc người con chết đi mà thơi. Do đó trách nhiệm của
cha mẹ đối với con chung sau khi ly hơn cũng mang tính lâu dài, bền vững theo.
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định quyền nhân thân là quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật
khác có liên quan quy định khác24. Nghĩa vụ có thể chuyển giao từ bên có nghĩa vụ

sang cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ
gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định khơng được
chuyển giao nghĩa vụ25. Như đã phân tích ở trên, trách nhiệm của cha mẹ đối với con
chung sau khi ly hôn bao gồm các quyền và nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của cha
hoặc mẹ, do đó những quyền và nghĩa vụ này không được chuyển giao cho người
khác. Đối với quyền và nghĩa vụ về tài sản, pháp luật dân sự quy định không được
chuyển giao (nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không
thể chuyển giao cho người khác26).
Thứ năm, lợi ích của con là mối quan tâm hàng đầu, lợi ích này phải được đảm
bảo khi xác định trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn.
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã khẳng định: “Cha mẹ, và tùy
trường hợp có thể là người giám hộ hợp pháp, có trách nhiệm đầu tiên trong việc
nuôi dưỡng và sự phát triển của trẻ em. Những lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là điều
quan tâm cơ bản của họ”27. Tiến hành nội luật hóa Cơng ước, ngun tắc nêu trên
được Việt Nam thể hiện trong quy định bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em trong các
Khoản 1 Điều 25 BLDS năm 2015.
Khoản 1 Điều 370 BLDS năm 2015.
26
Khoản 1 Điều 107 Luật HNGĐ năm 2014.
27
Khoản 1 Điều 18 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
24

25

11


quyết định liên quan đến trẻ em28. Đặc biệt cụm từ “vì lợi ích tốt nhất của trẻ em”
xuất hiện trong rất nhiều điều luật của Luật Trẻ em năm 201629. Luật HNGĐ năm

2014 cũng nêu cao nguyên tắc này trong việc xác định người trực tiếp ni con, theo
đó trường hợp vợ chồng khơng thỏa thuận được thì Tịa án quyết định giao con cho
một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con30. Con dưới 36 tháng
tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để
trực tiếp trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận
khác phù hợp với lợi ích của con31. Khi cha mẹ có sự thỏa thuận về việc thay đổi
người trực tiếp ni con thì điều này cũng phải phù hợp với lợi ích của con32.
Như vậy, lợi ích của con là yếu tố chi phối rất lớn tới việc xác định, thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn.
1.1.3 Ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của cha mẹ đối với con
chung sau khi ly hôn trong Luật HNGĐ
1.1.3.1 Ý nghĩa về mặt xã hội
Thứ nhất, việc đặt ra trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn
sẽ đảm bảo những điều kiện cần thiết để con có cuộc sống ổn định và phát triển toàn
diện.
Quan điểm của Đảng và nhà nước ta luôn xem trẻ em là hạnh phúc của gia đình,
là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, có thể thấy nếu khơng được sự quan tâm của xã hội, sự bảo vệ của pháp
luật thì những mầm non của hôm nay không thể trở thành những cơng dân có ích cho
xã hội mai sau được. Những trẻ em có cha mẹ ly hơn phải chịu nhiều thiệt thòi so với
các bạn bè đồng lứa. Hơn nữa, chúng vẫn còn chưa thể tự lo được cho mình, vì vậy
rất cần có sự quan tâm đặc biệt đến đối tượng này. Do đó, việc đặt ra trách nhiệm của
cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn sẽ đảm bảo trẻ vẫn nhận được sự quan tâm
cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, vẫn được chăm sóc, bảo ban, giáo dục từ cha mẹ dù
cha mẹ khơng cịn bên nhau.

28

Khoản 3 Điều 5 Luật Trẻ em năm 2016.
Xem các Điều Điều 19, Điều 21, Điều 22, Điều 23 Luật Trẻ em 2016.

30
Khoản 2 Điều 81 Luật HNGĐ năm 2014.
31
Khoản 3 Điều 81 Luật HNGĐ năm 2014.
32
Điểm a Khoản 2 Điều 84 Luật HNGĐ năm 2014.
29

12


Thứ hai, việc cha mẹ thực hiện nghiêm túc trách nhiệm của mình đối với con
chung sau khi ly hơn sẽ góp phần giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc về hơn nhân và gia đình.
Gia đình là nơi bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, mơi
trường quan trọng để hình thành, ni dưỡng và giáo dục nhân cách con người33. Gia
đình Việt Nam truyền thống được hình thành và phát triển, gắn kết một cách bền chặt
là do tình nghĩa và trách nhiệm giữa các thành viên với những chuẩn mực giá trị tốt
đẹp như: nghĩa tình, hy sinh cho con, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, v.v.. trở thành
cái nơi, nền tảng hình thành và ni dưỡng nhân cách con người Việt Nam34. Do đó,
việc thực hiện trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hơn với đặc điểm
đề cao tình cảm yêu thương, chăm sóc của cha mẹ đối với con sẽ tiếp nối và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp ấy của dân tộc Việt Nam.
Thứ ba, trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn sẽ là nhân tố
giúp giảm tỉ lệ tội phạm vị thành niên hiện nay.
Một trong những chức năng chủ yếu của gia đình chính là chức năng giáo dục.
Nếu trẻ nhận được sự giáo dục đúng đắn và đầy đủ của gia đình, chủ yếu từ phía cha
mẹ thì trẻ sẽ biết những gì pháp luật cho phép được làm, khơng được làm, buộc phải
làm và những hình phạt tương ứng phải chịu nếu như vi phạm pháp luật. Cùng với
giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật sẽ góp phần trang bị cho trẻ “khả năng đề kháng”

bên trong giúp trẻ vượt qua được những cám dỗ trong cuộc sống, tránh xa những tệ
nạn xã hội, thực hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội, hình thành được
thói quen sống phù hợp với pháp luật35.
1.1.3.2 Ý nghĩa về mặt pháp luật
Thứ nhất, việc quy định trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly
hơn góp phần duy trì và ngày càng hoàn thiện chế định này của Luật HNGĐ, tạo cơ
sở để đánh giá sự phù hợp của các quy định pháp luật so với những điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước trong từng giai đoạn nhất định.

33

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.300.
Văn Thị Thanh Mai, Đinh Quang Thành, “Giáo dục gia đình góp phần quan trọng hình thành và phát triển
nhân cách con người”, truy cập ngày 05/5/2023.
35
Đỗ Thị Thu Trang, Lê Bích Ngọc, “Vấn đề ly hơn và tình trạng vi phạm pháp luật của người chưa thành
niên ở Việt Nam hiện nay”, truy cập ngày 05/5/2023.
34

13


Thứ hai, việc quy định trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn
cũng đưa ra chế tài để ngăn ngừa, xử phạt và khắc phục những hành vi vi phạm pháp
luật, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ, đảm bảo các chủ thể tuân thủ đúng những nghĩa
vụ của mình do pháp luật đặt ra.
1.2
Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm của cha mẹ đối
với con chung sau khi ly hôn
1.2.1

Xác định trách nhiệm của cha, mẹ đối với con thông qua cơ chế
xác định người trực tiếp nuôi con và thay đổi người trực tiếp nuôi con
1.2.1.1 Xác định người trực tiếp nuôi con
Pháp luật trước hết ưu tiên sự thoả thuận của cha mẹ về việc giao con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động
và khơng có tài sản để tự ni mình cho vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi, quyền và nghĩa
vụ của mỗi bên đối với con36. Thế nhưng không phải lúc nào cha mẹ cũng có thể đạt
được thỏa thuận trong việc quyết định giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng. Trong
trường hợp vợ chồng khơng tự thỏa thuận được thì có quyền u cầu Tòa án giải
quyết37. Khi giải quyết việc giao con cho một bên vợ hoặc chồng trực tiếp chăm sóc,
ni dưỡng, Tòa án cần dựa vào những căn cứ mà pháp luật quy định. Những căn cứ
đó bao gồm:
Thứ nhất, cơ sở của việc giao con cho một bên cha hoặc mẹ nuôi phải căn cứ
vào quyền lợi mọi mặt của con.
Đây được xem là căn cứ mang tính ưu tiên và quan trọng nhất trong những căn
cứ để Tòa án xem xét khi quyết định giao con cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi. Bởi
khi ly hôn, hầu hết cha, mẹ sẽ tranh giành quyền nuôi con hết sức quyết liệt. Ai cũng
muốn quyền ni con thuộc về mình. Ngay cả bản thân con cũng có mong muốn,
nguyện vọng của mình khi muốn được cha hoặc mẹ chăm sóc, hoặc nếu trẻ có anh,
chị, em thì trẻ muốn được ở với cha hoặc mẹ người nuôi anh, chị, em của trẻ. Tuy
nhiên, những mong muốn này sẽ khó có thể được đáp ứng nếu việc giao trẻ cho một
bên cha hoặc mẹ nuôi không đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt của trẻ. Tức quyết
định giao con cho ai ni có thể đi ngược lại hồn tồn với mong muốn của các bên,
nếu đó là vì quyền lợi về mọi mặt của con. Bởi đối tượng của việc tranh chấp nuôi
con là con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc

36
37

Khoản 2 Điều 81 Luật HNGĐ năm 2014.

Khoản 2 Điều 81 Luật HNGĐ năm 2014.

14


khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình nên việc quyết định
lý tính ở đây là thực sự cần thiết để đảm bảo cuộc sống cho con. Để xác định người
đảm bảo tốt nhất quyền lợi mọi mặt của con, Tòa án sẽ xem xét điều kiện thực tế của
vợ và chồng. Cụ thể, người được ni con phải chứng minh mình có đủ điều kiện vật
chất về thu nhập, tài sản, nơi ở ổn định và về tinh thần thì có đủ thời gian để ở bên
con, chăm sóc, ni dưỡng con, ln phải đặt con lên hàng đầu…để người con có
cuộc sống ổn định và phát triển hơn bên không được ni con 38. Trên cơ sở xem xét
đó, Tịa án quyết định một trong các bên vợ chồng, người có điều kiện thực tế tốt hơn
thì giao con cho người đó trực tiếp ni dưỡng.
Thứ hai, nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên phải xem xét nguyện vọng của con.
Khi Tòa án giải quyết việc giao con cho cha hoặc mẹ nuôi, nếu con đạt độ tuổi
từ đủ 7 tuổi trở lên thì Tịa án phải tham khảo ý kiến của trẻ về việc trẻ muốn sống
với ai trong hai bên cha, mẹ. Khi lấy ý kiến của trẻ phải bảo đảm thân thiện, phù hợp
với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của trẻ, bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của trẻ. Đặc biệt, việc lấy ý kiến phải đảm bảo giữ bí mật cá nhân
của trẻ39. Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07 tháng 4 năm 2017 của
TANDTC giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ tại điểm 26 Mục IV cũng hướng dẫn về
quy định nêu trên như sau: “Phương pháp lấy ý kiến phải bảo đảm thân thiện với trẻ
em. Tuy nhiên, Tòa án phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của người con để quyết
định giao cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng”. Cần lưu ý rằng, ý kiến của trẻ từ đủ 7
tuổi trở lên chỉ có ý nghĩa định hướng, tham khảo để Tịa án xem xét trước khi đưa ra
quyết định cuối cùng về việc giao trẻ cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi dưỡng.
Thứ ba, con dưới 36 tháng tuổi thì giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp
người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục
con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Trường hợp con dưới 03 tuổi, mặc định quyền nuôi con thuộc về người mẹ, trừ
khi người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo
dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác40. Tuy nhiên khi xem xét việc giao con cho
người nào trực tiếp nuôi dưỡng Tịa án phải đánh giá thực tế điều kiện ni dưỡng

38

Nguyễn Phan Nam (2019), “Quyền nuôi con khi ly hôn và các quy định của pháp luật”,
truy cập ngày
05/5/2023.
39
Khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015.
40
Khoản 3 Điều 81 Luật HNGĐ năm 2014.

15


con của cha, mẹ. Trong những trường hợp ngoại lệ người cha chứng minh được người
mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp ni con thì dù con dưới 36 tháng tuổi, Tịa án
vẫn giao cho cha ni để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của người con. Án lệ số
54/2022/AL về xác định quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi trong trường hợp người
mẹ khơng trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con được Hội đồng thẩm phán
Tịa án nhân dân tối cao thông qua cũng là một lời khẳng định cho vấn đề này. Theo
đó, trong vụ án hơn nhân và gia đình có tranh chấp về quyền nuôi con dưới 36 tháng
tuổi, người mẹ tự ý bỏ đi từ khi con cịn rất nhỏ, khơng quan tâm đến việc trơng nom,
chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con; người con được người cha ni dưỡng, chăm
sóc trong điều kiện tốt và đã quen với điều kiện, môi trường sống đó. Do đó đánh giá
việc tiếp tục con cho người cha trực tiếp ni dưỡng, chăm sóc là có căn cứ; giao con
cho người mẹ ni dưỡng là không phù hợp, chưa xem xét đầy đủ đến quyền và lợi

ích hợp pháp về mọi mặt của con.
1.2.1.2 Thay đổi người trực tiếp ni con
Tịa án ra quyết định giao con cho một bên cha hoặc mẹ trực tiếp ni dưỡng,
điều đó khơng có nghĩa là quyết định đó mãi mãi có hiệu lực và khơng thể thay đổi.
Khi cha mẹ ly hôn tất cả các vấn đề giải quyết liên quan đến quyền và lợi ích của trẻ
em luôn phải được giải quyết trên cơ sở bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích của
trẻ em. Quy định về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn là quy định
cần thiết, nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích về mọi mặt của con. Trong trường hợp
có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tịa án có
thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc thay đổi người trực tiếp
ni con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây41:
˗ Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với
lợi ích của con;
˗ Người trực tiếp ni con khơng cịn đủ điều kiện trực tiếp trơng nom, chăm
sóc, ni dưỡng, giáo dục con;
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ
07 tuổi trở lên. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực
tiếp nuôi con thì Tịa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của
BLDS42. Để có thể ra quyết định thay đổi người cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi con sau

41
42

Khoản 2 Điều 84 Luật HNGĐ 2014.
Khoản 3, 4 Điều 84 Luật HNGĐ năm 2014.

16


khi ly hơn thì Tịa án cần tn thủ căn cứ mà pháp luật đã xác định là có thỏa thuận

của cha, mẹ về việc thay đổi người nuôi con và đặc biệt thỏa thuận này được thiết lập
trên cơ sở phù hợp với lợi ích của con. Bên cạnh đó, việc thay đổi người ni con cịn
được quyết định khi người trực tiếp nuôi con không đảm bảo quyền lợi mọi mặt của
con. Việc không đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con trong trường hợp này được hiểu
là người cha hoặc mẹ đang trực tiếp sống chung với con khơng có khả năng đáp ứng
được việc trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. Cụ thể như bị mắc bệnh
tật trầm trọng, bị thất nghiệp khơng có khả năng tạo thu nhập, thi hành án phạt tù có
giam giữ, bị mất tích, bị mất năng lực hành vi dân sự...
1.2.2

Trách nhiệm chung của cha mẹ trong việc trơng nom, chăm sóc,

giáo dục con sau khi ly hơn
Sau khi ly hôn, quan hệ giữa vợ và chồng chấm dứt nhưng quan hệ giữa cha mẹ,
con thì khơng. Về cơ bản, khi cha mẹ ly hôn, quyền và nghĩa vụ đối với con cũng
khơng có gì thay đổi43. Như đã phân tích ở trên, đây là trách nhiệm mang tính lâu dài,
bền vững và chỉ chấm dứt khi một trong hai bên chết mà thơi. Tuy có sự khác biệt
trong việc trực tiếp nuôi dưỡng con nhưng cả cha và mẹ vẫn chia sẻ những trách
nhiệm này với nhau. Người trực tiếp nuôi con không được dựa vào việc con do mình
trực tiếp ni dưỡng mà làm ảnh hưởng, cấm cản người không trực tiếp nuôi con thực
hiện những trách nhiệm này. Ngược lại người không trực tiếp nuôi con khơng nên
cho rằng mình khơng ở với con để từ chối những trách nhiệm này đối với con. Những
trách nhiệm dưới đây được xem là trách nhiệm chung của cha, mẹ đối với con sau
khi ly hôn.
1.2.2.1 Trách nhiệm của cha mẹ trong việc u thương, trơng nom, chăm
sóc con
Trách nhiệm của cha mẹ trong việc yêu thương, trông nom, chăm sóc con được
Cơng ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đề cập với nội dung như sau: “Các
Quốc gia thành viên phải có những cố gắng cao nhất để bảo đảm việc thừa nhận
nguyên tắc là cả cha và mẹ đều có trách nhiệm chung trong việc nuôi dưỡng và sự

phát triển của con cái44.
Nội luật hóa Cơng ước, Luật HNGĐ năm 2014 quy định việc trơng nom, chăm
sóc, ni dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành
Nguyễn Thị Lan (2019), “Thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi cha mẹ ly hôn”, tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, số 5, tr. 43.
44
Khoản 1 Điều 18 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
43

17


vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình là
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ45 (tương ứng với quyền được sống chung với cha mẹ,
được cha mẹ trông nom, ni dưỡng, chăm sóc của con 46). Sau khi ly hơn, cha mẹ
vẫn có quyền và nghĩa vụ này theo quy định của Luật HNGĐ, BLDS và các luật khác
có liên quan47. Từ “vẫn” ở đây dường như để khẳng định về mặt pháp lý, quyền và
nghĩa vụ này của cha mẹ đối với con chung khơng có sự thay đổi đối với trước và sau
khi ly hôn. Bên cạnh đó, dựa trên ngun tắc vợ chồng bình đẳng, Luật HNGĐ năm
2014 cũng khẳng định cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong việc chăm sóc
và ni dưỡng con48.
Không chỉ Luật HNGĐ năm 2014 mà Luật Trẻ em năm 2016 cũng quy định
cha, mẹ, có trách nhiệm trong việc chăm sóc, ni dưỡng, quản lý, giáo dục trẻ em;
dành điều kiện tốt nhất theo khả năng cho sự phát triển liên tục, toàn diện của trẻ em,
đặc biệt là trẻ em dưới 36 tháng tuổi; thường xuyên liên hệ với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có trách nhiệm để được hướng dẫn, trợ giúp trong quá trình thực hiện trách
nhiệm chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục trẻ em49.
1.2.2.2

Trách nhiệm của cha mẹ trong việc giáo dục con, chăm lo, tạo


điều kiện cho con học tập.
Luật HNGĐ năm 2014 quy định cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con,
chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập. Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống
trong mơi trường gia đình đầm ấm, hịa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt;
phối hợp chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con. Cha mẹ
hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con. Cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức
hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con khi gặp khó khăn khơng thể tự giải
quyết được”50.
Hiện nay, có rất nhiều tổ chức cùng tham gia vào quá trình giáo dục trẻ em như
trường học, cộng đồng, xã hội nhưng gia đình và đặc biệt là cha mẹ vẫn giữ vai trò
quyết định đối với việc giáo dục, phát triển trí thơng minh cũng như cảm xúc, kỹ năng
của trẻ em. Bằng việc đầu tư nguồn tài chính và thời gian, kiến thức trong việc chọn
Khoản 2 Điều 69 Luật HNGĐ năm 2014.
Điều 70 Luật HNGĐ năm 2014.
47
Khoản 1 Điều 81 Luật HNGĐ năm 2014.
48
Khoản 1 Điều 71 Luật HNGĐ năm 2014.
49
Khoản 1 Điều 98 Luật Trẻ em năm 2016.
50
Điều 72 Luật HNGĐ năm 2014.
45
46

18



trường, lớp, định hướng học tập, cha mẹ tạo mọi điều kiện cho trẻ được học tập tốt
nhất.
1.2.2.3 Trách nhiệm của cha mẹ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của con
Đối với con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình thì cha mẹ có
quyền và nghĩa vụ sau: Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tự mình thực hiện
giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con.
Đối với con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì
cha mẹ có quyền và nghĩa vụ như sau: Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của
BLDS; là người đại diện theo pháp luật của con, trừ trường hợp con có người khác
làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật. Đối với giao dịch liên quan
đến tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, tài
sản đưa vào kinh doanh của phải có sự thỏa thuận của cha mẹ.
Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật cho con được hiểu là cha mẹ có thẩm
quyền tham gia vào việc bảo vệ quyền và lợi ích của con trong các quan hệ với bất
kỳ cá nhân, tổ chức nào mà khơng cần có thẩm quyền đặc biệt, ví dụ như sự ủy quyền.
“Chỉ với tư cách là cha mẹ, cha mẹ có quyền đại diện để bảo vệ quyền và lợi ích của
con”51. Khơng phải một đứa trẻ ra đời chỉ liên quan trong phạm vi gia đình mà chúng
cịn được luật pháp, các tổ chức quốc tế bảo vệ quyền lợi hợp pháp, nhưng cha mẹ là
những người trực tiếp, có trách nhiệm bảo vệ mọi quyền lợi cho trẻ trước pháp luật.
Ngoài ra, trách nhiệm của cha mẹ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
con cịn thể hiện thơng qua các chế định như: cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con
chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định
của BLDS52; trách nhiệm của cha mẹ trong việc quản lý, định đoạt tài sản riêng của
con chưa thành niên53.
1.2.3 Trách nhiệm của người trực tiếp nuôi con
Mặc dù san sẻ những trách nhiệm chung nhưng với đặc điểm là người được trực
tiếp nuôi con, pháp luật đặt ra cho người trực tiếp nuôi con những quyền và nghĩa vụ
đặc thù. Nội dung của những quyền và nghĩa vụ này liên quan mật thiết, phản ánh rõ

51

Đại học Luật TP. HCM (2022), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam (tái bản lần thứ nhất, có
sửa chữa, bổ sung), Nguyễn Văn Tiến, Nxb Hồng Đức, trang 339.
52
Điều 74 Luật HNGĐ năm 2014.
53
Điều 76, 77 Luật HNGĐ năm 2014.

19


nét đặc điểm “trực tiếp nuôi con” của một trong hai bên cha, mẹ so với người còn lại.
Những quyền này hướng tới việc bảo vệ lợi ích của con và của chính bản thân người
trực tiếp ni con.
Thứ nhất, người trực tiếp ni con có quyền u cầu người không trực tiếp nuôi
con thực hiện các nghĩa vụ; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành
viên gia đình tơn trọng quyền được ni con của mình.
Cha, mẹ trực tiếp ni con có quyền u cầu người không trực tiếp nuôi con
thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này (nghĩa vụ tôn trọng
quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi; nghĩa vụ cấp dưỡng cho
con; nghĩa vụ thăm nom con); yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành
viên gia đình tơn trọng quyền được ni con của mình54. Thiết nghĩ, pháp luật đặt ra
quy định như vậy là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người con khi cha mẹ
ly hôn. Bởi có khơng ít cha, mẹ cho rằng khi cha, mẹ ly hơn nếu con khơng do mình
trực tiếp ni dưỡng thì cũng khơng cần có trách nhiệm gì với con nữa. Hoặc có thể
do người cha, mẹ đó đã đi thêm bước nữa hoặc vì sự ghét bỏ với người chồng, người
vợ cũ của mình nên cũng đối xử với người con được người chồng, người vợ đó trực
tiếp ni dưỡng một cách lạnh nhạt.
Đổi lại, người trực tiếp nuôi con cũng có nghĩa vụ làm trịn trách nhiệm của

mình để mang lại lợi ích cho con, tơn trọng quyền của người không trực tiếp nuôi
con.
Thứ hai, người trực tiếp ni con có trách nhiệm cùng các thành viên gia đình,
khơng được cản trở người khơng trực tiếp ni con trong việc thăm nom, chăm sóc,
ni dưỡng, giáo dục con.
Sau khi ly hơn, mặc dù người con chỉ có thể ở với một trong hai người cha hoặc
mẹ, được trông nom, chăm sóc, ni dưỡng trực tiếp bởi một người nhưng pháp luật
hơn nhân và gia đình Việt Nam khơng cấm việc người cịn lại được thăm nom con.
Đây khơng chỉ là quyền mà thậm chí cịn là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi
con sau khi ly hôn, cụ thể người khơng trực tiếp ni con có quyền, nghĩa vụ thăm
nom con mà không ai được cản trở55. Đồng thời, với tính chất quyền của chủ thể này
sẽ là nghĩa vụ của chủ thể khác trong quan hệ pháp luật hơn nhân gia đình mà Luật
HNGĐ năm 2014 quy định cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình

54

55

Điều 83 Luật HNGĐ năm 2014.
Khoản 3 Điều 82 Luật HNGĐ năm 2014.

20


×