Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Thủ tục xét xử vụ án hình sự của tòa gia đình và người chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
--- ------- ---

LÊ PHÚC AN

THỦ TỤC XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TỊA
GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUN NGÀNH: LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NIÊN KHĨA: 2019 – 2023
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2023


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

THỦ TỤC XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
TỊA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHÚC AN
KHÓA: 44 – MSSV: 1953801013001
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Th.S TRẦN QUỐC MINH

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2023


LỜI CẢM ƠN


Qua bốn năm học tập và rèn luyện tại trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh thì em đã tích lũy được cho bản thân vốn kiến thức về pháp luật và khả
năng tư duy, phân tích các vấn đề pháp lý. Với nền tảng đó mà em đã vận dụng
những kiến thức đã học đề thực hiện khóa luận tốt nghiệp này với đề tại “Thủ tục
xét xử vụ án hình sự của Tịa gia đình và người chưa thành niên”.
Để có thể hồn thành được khóa luận này, trước tiên em xin cảm ơn các
thầy cô là giảng viên của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh vì những
kiến thức q báu mà thầy cơ đã truyền dạy trong suốt q trình em học tại trường.
Đặc biệt hơn cả, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Trần Quốc Minh –
giảng viên hướng dẫn của em, cảm ơn thầy vì đã luôn quan tâm và định hướng,
giúp đỡ em rất nhiều từ lúc bắt đầu nghiên cứu đến khi hoàn thiện đề tài để em có
thể hồn thành khóa luận một cách tốt nhất. Em cũng xin được cảm ơn thầy Lê
Huỳnh Tấn Duy – trưởng bộ môn luật Tố tụng hình sự vì đã cho phép em thực hiện
đề tài này.
Cuối cùng, em xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đặc biệt là một người anh đã
ủng hộ, giúp đỡ và đưa ra những lời khuyên đúng đắn trong suốt thời gian học tập,
nghiên cứu vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn.


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam doan khóa luận tốt nghiệp “Thủ tục xét xử vụ án hình sự của
Tịa gia đình và người chưa thành niên” là kết quả nghiên cứu do bản thân thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Trần Quốc minh, đảm bảo tính trung
thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin
hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Thành phố Hồ Chí minh, 21 tháng 6 năm 2023

Lê Phúc An



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS
BLHS
CQĐT
TAND
TANDTC
TGĐ&NCTN
TTHS
VAHS

Bộ luật Tố tụng hình sự
Bộ luật Hình sự
Cơ quan điều tra
Tịa án nhân dân
Tịa án nhân dân tối cao
Tịa gia đình và người chưa thành niên
Tố tụng hình sự
Vụ án hình sự
Thơng tư số 02/2018/TT-TANDTC
ngày 21 tháng 09 năm 2018 của Tịa án nhân dân
Thơng tư số 02/2018/TT- tối cao về Quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình
TANDTC
sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi
thuộc thẩm quyền của Tịa gia đình và người chưa
thành niên
Thơng tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTCTANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018
Thông tư số
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân

06/2018/TTLTdân tối cao - Bộ Công an - Bộ Tư pháp - Bộ Lao
VKSNDTC-TANDTCđộng-Thương binh và Xã hội về phối hợp thực hiện
BCA-BTP-BLĐTBXH
một số quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự về
thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi
Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC
Thông tư số 01/2017/TTngày 28 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân tối
TANDTC
cao về Quy định về phịng xử án
Thơng tư số 01/2016/TT-CA ngày 21 tháng 01 năm
2016 của Tòa án nhân dân tối cao về Quy định việc
Thơng tư số 01/2016/TT- tổ chức các Tịa chun trách tại Tòa án nhân dân
CA
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương
Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày
01/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
Nghị quyết số
dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định
06/2019/NQ-HĐTP
tại các điều 141,142,143,144,145, 146, 147 của Bộ
Luật hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục
người dưới 18 tuổi


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA TỊA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN............................ 6

1.1. Khái niệm về xét xử vụ án hình sự của Tịa Gia đình và người chưa
thành niên ....................................................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm xét xử vụ án hình sự ...........................................................6
1.1.2. Khái quát chung về Tịa Gia đình và người chưa thành niên ................8
1.2. Đặc điểm của thủ tục xét xử vụ án hình sự của Tịa gia đình và người
chưa thành niên ............................................................................................ 13
1.3. Ý nghĩa việc quy định xét xử vụ án hình sự của Tịa gia đình và người
chưa thành niên ............................................................................................ 17
1.4. Cơ sở của việc quy định xét xử vụ án hình sự của Tịa gia đình và người
chưa thành niên ............................................................................................ 19
Kết luận chương 1 ........................................................................................... 23
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TỊA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN, THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ........................................................................... 24
2.1 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về xét xử vụ án hình
sự của Tịa Gia đình và người chưa thành niên .......................................... 24
2.1.1. Quy định về thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự của Tịa Gia đình và
người chưa thành niên .................................................................................26
2.1.2. Quy định về phân công người tiến hành tố tụng trong hoạt động xét xử
...................................................................................................................31
2.1.3. Quy định về sự tham gia của người đại diện, nhà trường, cơ quan, tổ
chức ............................................................................................................34
2.1.4. Quy định về sự tham gia của người bào chữa cho bị cáo là người dưới
18 tuổi.........................................................................................................37
2.1.5. Quy định về sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại là người dưới 18 tuổi...................................................................39
2.1.6. Quy định về xét xử ............................................................................40
2.2 Thực tiễn xét xử vụ án hình sự của Tịa Gia đình và người chưa thành
niên................................................................................................................ 48



2.3 Kiến nghị hoàn thiện quy định về xét xử vụ án hình sự của Tịa gia đình
và người chưa thành niên ............................................................................ 54
2.3.1. Thành lập thêm các Tòa gia đình và người chưa thành niên...............54
2.3.2. Mở rộng phạm vi thẩm quyền của Tịa gia đình và người chưa thành
niên .............................................................................................................56
2.3.3. Phân cơng người tiến hành tố tụng ....................................................57
2.3.4. Hình thức phiên tịa xét xử có người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi và
bảo vệ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi .............................................58
2.3.5. Yêu cầu về người bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi ...........................60
2.3.6. Thời hạn cho thủ tục xét xử ............................................................... 61
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 63
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Người chưa thành niên (hay người chưa đủ 18 tuổi theo khoản 1 điều 21 Bộ
luật dân sự năm 2015) là những người đang ở thời kỳ chuyển từ trẻ em sang người
lớn, chưa được phát triển đầy đủ và tồn diện về thể lực, trí lực và tinh thần, chưa
phát triển đầy đủ về nhận thức nên họ là những đối tượng dễ bị tổn thương, dễ bị
xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp, đặc biệt là khi người chưa thành niên tham gia
vào quá trình tố tụng thì họ khơng đủ khả năng để tự bảo vệ bản thân. Bên cạnh đó
thì họ cịn rất nhạy cảm nên dễ bị tổn thương về mặt tâm lý ảnh hưởng đến sự phát
triển và cuộc sống sau này.
Và xuất phát từ những đặc điểm đó của người chưa thành niên mà BLTTHS

năm 2015 đã có những quy định thủ tục tố tụng riêng để áp dụng cho người chưa
thành niên khi tham gia tố tụng với nhiều tư cách khác nhau (người bị buộc tội, bị
hại, người làm chứng). Đặc biệt hơn là sự thành lập nhánh tòa án chuyên trách
chuyên xử lý những vụ việc liên quan đến người chưa thành niên (trong đó có vụ
án hình sự liên quan đến người chưa thành niên) là hệ thống Tịa Gia đình và người
chưa thành niên ở TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện theo Luật
tổ chức tòa án năm 2014 (và hiện nay đã được tổ chức thí điểm ở một số tỉnh thành).
Điều này thể hiện rõ chính sách hình sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước, sự quan
tâm đối với công cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm có liên quan đến người
chưa thành niên và phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế được quy định
trong các công ước quốc mà Việt Nam là thành viên, tuân thủ nguyên tắc tận tâm
thực hiện những gì đã cam kết khi tham gia các công ước quốc tế.
Tuy vậy, do là một hệ thống tịa án có phần “mới mẻ” ở Việt Nam nên thủ
tục xét xử vụ án hình sự của TGĐ&NCTN về cơ bản vẫn theo thủ tục quy định
trong BLTTHS và vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng, chưa hợp lý, chưa thực sự
phù hợp với người chưa thành niên khi tham gia tố tụng dẫn đến thiếu sót, bất cập
trong thực tiễn xét xử.
Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn trong xét xử vụ án hình sự của
TGĐ&NTCN có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động xét
xử vụ án hình sự của TGĐ&NCTN, khắc phục những hạn chế, thiếu sót cịn tồn


2

tại, góp phần trong hoạt động phịng chống tội phạm có liên quan đến người chưa
thành niên. Đó cũng là lý do tác giả chọn đề tài “Thủ tục xét xử vụ án hình sự của
Tịa Gia đình và người chưa thành niên” là khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về thủ tục xét xử vụ án hình sự đối với người chưa thành niên thì đã có

nhiều bài nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành như
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật. Ngoài ra, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên cũng được đề
cập trong các giáo trình, sách bình luận khoa học BLTTHS như:
- Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng
hình sự Việt Nam (Tái bản có sửa đổi, bổ sung), Nxb Hồng Đức, TP Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Ngọc Anh, Phan Trung Hồi (2018), “Bình luận khoa học Bộ luật
Tố tụng hình sự 2015”, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
- Lê Thị Mỹ Vân (2017), “Thủ tục tố tụng đối với bị cáo là người dưới 18
tuổi trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Phương Thảo (2018), “Thủ tục tố tụng hình sự đối với người bị
buộc tội dưới 18 tuổi: Nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thục Uyên (2022), “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với
người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
- Võ Thị Kim Oanh, Lê Thị Thùy Dương (2015), “Một số góp ý về thủ tục
tốt tụng đối với người chưa thành niên trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa
đổi)”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2015.
- Lê Huỳnh Tấn Duy (2015), “Mơ hình tư pháp người chưa thành niên theo
định hướng của Liên hợp quốc”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2015.


3

- Lê Huỳnh Tấn Duy (2016), “Quy định về thủ tục tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi trong Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Khoa học pháp lý
số 6/2016.
- Lê Huỳnh Tấn Duy (2015), “Quyền của người chưa thành niên có sự tham

gia của đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức trong quá trình tố tụng hình sự”, Tạp
chí Khoa học pháp lý số 1/2015.
- Vũ Thị Quyên, Nguyễn Thị Kiều Anh (2017), “Thủ tục tố tụng đối với bị
hại là người dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2017.
- Nguyễn Phương Thảo (2017), “Thủ tục xét xử vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi tại tịa án gia đình và người chưa thành niên của một số quốc gia trên
thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2017.
- Đinh Văn Đoàn (2017), “Thủ tục tố tụng đối với bị hại là người dưới 18
tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
6/2017.
- Phạm Thanh Tú (2017), “Một số ý kiến nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị hại dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật số 8 (305) – 2017.
- Trần Thị Lan Anh (2020), “Hoàn thiện các quy định về thủ tục tố tụng đối
với người dưới 18 tuổi”, Tạp chí Quản lý Nhà nước tháng 10/2020, số 297.
Về tổng quan thì các bài viết, cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến thủ
tục tố tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên cũng như những vấn đề liên
quan đến thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên dựa trên quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và năm 2015, phân tích được một số điểm
bất hợp lý và từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện. Đây là những tài liệu tham
khảo có giá trị cho tác giả trong việc hồn thiện luận văn của mình. Tuy vậy, những
cơng trình nghiên cứu trên nhưng chưa đi sâu vào thủ tục xét xử vụ án hình sự của
Tịa Gia đình và người chưa thành niên nói riêng mà chỉ nói về thủ tục tố tụng đặc
biệt đối với người dưới 18 tuổi nói chung.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu


4


Mục đích nghiên cứu:
Khóa luận được nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận, vấn đề pháp lý
và thực tiễn xét xử vụ án hình sự của Tịa Gia đình và người chưa thành niên từ đó
kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về xét xử vụ án
hình sự của Tịa Gia đình và người chưa thành niên.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về xét xử vụ án hình sự của Tịa Gia đình và
người chưa thành niên
- Làm rõ các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về xét xử vụ án hình
sự của Tịa Gia đình và người chưa thành niên
- Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về xét xử vụ án hình
sự của Tịa Gia đình và người chưa thành niên
- Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật
về xét xử vụ án hình sự của Tịa Gia đình và người chưa thành niên
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận bao gồm một số quy định của pháp
luật tố tụng hình sự Việt nam về thủ tục xét xử vụ án hình sự của Tịa Gia đình và
người chưa thành niên, một số vấn đề thực tiễn và các vướng mắc trên thực tế.
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Khóa luận nghiên cứu về thủ tục xét xử vụ án hình sự của Tịa
gia đình và người chưa thành niên theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam, cụ thể là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và một số văn bản hướng dẫn thi
hành.
Về khơng gian và thời gian: Khóa luận đánh giá thực tiễn xét xử vụ án hình
sự của Tịa gia đình và người chưa thành niên trong phạm vi tồn quốc trong
khoảng thời gian từ năm 2018 đến khi hoàn thành khóa luận.
5. Phương pháp nghiên cứu



5

Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê. Đối với phương pháp phân
tích, tổng hợp thì được sử dụng ở tất cả các chương, phương pháp thống kê được
sử dụng ở chương II (phần thực tiễn) và phương pháp tổng hợp sẽ đánh giá nội
dung tổng thể, từ đó đưa ra kết luận của khóa luận.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Khóa luận đóng góp những giá trị nhất định về phương diện lý luận, lập
pháp và thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam.
- Về lý luận, khóa luận góp phần hồn thiện về mặt lý luận việc xét xử vụ
án hình sự của TGĐ&NCTH.
- Về lập pháp, khóa luận nêu những bất cập, thiếu sót, vướng mắc của pháp
luật TTHS và đưa ra một số giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS hiện
hành.
-Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu giúp nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng
các quy định của pháp luật về xét xử vụ án hình sự của TGĐ&NCTN.
7. Kết cấu của Khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm có 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về xét xử vụ án hình sự của Tịa
Gia đình và người chưa thành niên.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về xét xử vụ
án hình sự của Tịa gia đình và người chưa thành niên, thực tiễn áp dụng pháp luật
và kiến nghị hoàn thiện.


6

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TỊA
GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Giới thiệu về Chương 1
Thơng qua chương 1 của khóa luận, tác giả xin được phép làm rõ khái niệm
thủ tục xét xử vụ án hình sự của TGĐ&NCTN bằng cách phân tích từng khái niệm
nhỏ hơn như khái niệm chung liên quan đến thủ tục xét xử vụ án hình sự của tố
tụng hình sự, đơi nét về TGĐ&NCTN cũng như sự cần thiết phải thành lập nhánh
tòa chuyên trách này và từ đó đưa ra khái niệm về xét xử vụ án hình sự của
TGĐ&NCTN. Sau đó là đi đến làm rõ đặc điểm của xét xử vụ án hình sự của
TGĐ&NCTN để xem thủ tục này có gì khác biệt so với thủ tục xét xử vụ án hình
sự thơng thường qua một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà chủ yếu là
BLTTHS
năm
2015

Thơng

số
02/2018/TT-TANDTC
ngày 21 tháng 09 năm 2018 của Tòa án nhân dân tối cao về Quy định chi tiết việc
xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm
quyền của Tịa gia đình và người chưa thành niên. Kế đến là phần cơ sở và ý nghĩa
cho việc quy định thủ tục xét xử vụ án hình sự của TGĐ&NCTN để có thể phần
nào giải thích được tại sao lại có những quy định đặc thù như vậy, việc quy định
như vậy có ý nghĩa gì trong việc xét xử những vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi.
1.1. Khái niệm về xét xử vụ án hình sự của Tịa Gia đình và người chưa
thành niên
1.1.1. Khái niệm xét xử vụ án hình sự
Để xác định được thế nào là xét xử vụ án hình sự của Tịa gia đình và người
chưa thành niên (TGĐ&NCTN) thì trước tiên cần phân tích về xét xử vụ án hình

sự nói chung. Khi một vụ án hình sự xảy ra thì đã có sự xâm phạm đến các quan
hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an
tồn xã hội. Vậy nên vụ án hình sự cần phải được giải quyết để khắc phục những
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, đảm bảo trật tự an tồn xã hội, đấu tranh
phịng chống tội phạm. Và để có thể giải quyết vụ án hình sự thì cần thơng qua thủ
tục tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là quy trình thực hiện những hoạt động của
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố


7

tụng và người tham gia tố tụng nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự theo quy
định của pháp luật1. Thủ tục TTHS là trình tự và cách thức thực hiện các hành vi
và hoạt động tố tụng hình sự (theo quy định của pháp luật TTHS) đòi hỏi các chủ
thể quan hệ pháp luật TTHS phải tuân thủ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Theo Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Theo
từ điển luật học, xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các tòa
án; các tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng
xét xử; mọi bản án do các tịa án tun đều phải qua xét xử; khơng một ai có thể
bị buộc tội mà khơng qua xét xử của các tòa án và kết quả xét xử phải được cơng
bố bằng bản án2. Trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tịa án tiến hành xét xử cơng
khai để giải quyết các vấn đề thuộc về bản chất của vụ án, bao gồm việc xác định
có tội phạm hay khơng, nếu có tội phạm thì tội gì và quyết định hình phạt đối với
người thực hiện hành vi phạm tội. Tham khảo thêm từ Giáo trình Luật tố tụng hình
sự Việt Nam3 thì xét xử vụ án hình sự là một phần, một giai đoạn của quá trình tố
tụng hình sự, là hoạt động do Tịa án thực hiện nhằm tiến hành các biện pháp do
pháp luật quy định để xét xử vụ án, xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, các
tài liệu của vụ án hình sự và trên cơ sở đó ra bản án, quyết định đối với người bị
Viện kiểm sát truy tố và Tòa án quyết định đưa ra xét xử xác định có hành vi phạm

tội hay khơng, người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng đối với
người đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan
trong vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử thì các chứng cứ, tài liệu, đồ vật được
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập, củng cố ở giai đoạn giải quyết nguồn tin
về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố được kiểm tra cơng khai tại phiên tịa. Hoạt
động khởi tố, điều tra, truy tố nhằm thu thập, củng cố chứng cứ để làm sáng tỏ
những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án, còn hoạt động xét xử chủ yếu
nhằm kiểm tra, đánh giá lại các chứng cứ đã được thu thập nhằm đảm bảo việc ra
bản án của Tịa án là có căn cứ và hợp pháp. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Nxb Hồng Đức, TP Hồ
Chí Minh, trang 19.
2
Nguyễn Hữu Quỳnh, Nguyễn Hữu Đắc, Lê Đức Tiết, Ngô Văn Thâu, Nguyễn Kim Quế, Nguyễn Hữu
Viện (1999), Từ điển luật học, Nhà xuất bản từ điển bách khoa, trang 576.
3
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Nxb Hồng Đức, TP Hồ
Chí Minh, trang 499.
1


8

coi là giai đoạn trọng tâm của quá trình tố tụng vì “Khơng ai bị coi là có tội và
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”
4
và hoạt động xét xử sẽ đưa ra kết luận một người có tội hay khơng có tội, hành
vi phạm tội là gì và quyết định trách nhiệm pháp lý nặng nề nhất là trách nhiệm
hình sự. Khi xét xử, các Tịa án phải tuân theo nguyên tắc: khi xét xử thẩm phán
và hội thẩm độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp luật, Tịa án xét xử cơng khai,

trừ trường hợp do luật định, Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa
số.
Như vậy, thủ tục xét xử vụ án hình sự là trình tự và cách thức thực hiện
hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tịa án, trong đó quy định các bước mà Tòa
án cần thực hiện để đưa người bị buộc tội ra xét xử về tội danh bị truy tố, xem xét,
đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự và trên cơ sở đó
ra bản án, quyết định xác định có hành vi phạm tội hay không, người thực hiện
hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi phạm
tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong vụ án hình sự.
1.1.2. Khái qt chung về Tịa Gia đình và người chưa thành niên
Đầu tiên là về thuật ngữ “người chưa thành niên”, thuật ngữ này có nhiều
cách hiểu khác nhau trong các văn bản pháp lý khác nhau. Với Điều 2.2 (a) của
Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của liên hợp quốc về hoạt động tư pháp đối với
người chưa thành niên được thông qua ngày 29/11/1985 (Quy tắc Bắc Kinh) định
nghĩa thì: “Người chưa thành niên là trẻ em hay thanh thiếu niên mà tùy theo từng
hệ thống pháp luật có thể bị xử lý khi phạm tội, theo một phương thức khác với
người lớn.” Hoặc là với Điều 11 (a) trong Các quy tắc của Liên hợp quốc về việc
bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do 1990 (Quy tắc Havana) thì định
nghĩa: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”. Bên cạnh đó thì Điều 1
Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989 (Công ước về quyền trẻ
em) quy định: “Trong phạm vi Cơng ước này, trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định
tuổi thành niên sớm hơn.” Quay về pháp luật Việt Nam, trong Bộ luật dân sự năm
2015 thì tại khoản 1 điều 21 có quy định rằng người chưa thành niên là người chưa
đủ 18 tuổi, trong Bộ luật hình sự năm 2015 (BLHS) và BLTTHS năm 2015 thì
4

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2019) tlđd (3), trang 499.



9

không sử dụng thuật ngữ người chưa thành niên mà đánh dấu mốc bằng độ tuổi,
cụ thể là người dưới 18 tuổi (ví dụ như đối với BLHS có quy định một chương XII
Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, hoặc đối với BLTTHS thì
có một chương XXVIII Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi). Như vậy, ta
có thể hiểu “người chưa thành niên” nói chung và trong tư pháp hình sự nói riêng
là người dưới 18 tuổi (hoặc người chưa đủ 18 tuổi).
Theo Điều 2.3 Quy tắc Bắc Kinh, trong mỗi hệ thống pháp luật quốc gia thì
mỗi quốc gia cần phải cố gắng xây dựng một hệ thống các văn bản pháp luật,
những quy tắc, quy định áp dụng riêng đối với người chưa thành niên phạm tội, và
phải hình thành các tổ chức, các cơ quan được giao phó chức năng áp dụng tư pháp
đối với người chưa thành niên. Điều 40.3 Công ước về quyền trẻ em yêu cầu các
quốc gia thành viên phải tìm cách thúc đẩy việc thiết lập những đạo luật, thu tục,
các cơ quan và thể chế áp dụng riêng cho những trẻ em bị tình nghi, bị cáo buộc
hay bị xác nhận là đã vi phạm luật hình sự. Như vậy, có thể hiểu là theo yêu cầu
từ các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì mỗi quốc Việt Nam cần
hình thành khung pháp lý riêng và hệ thống cơ quan, tổ chức riêng để áp dụng đối
với người chưa thành niên, và ở đây chính là Tịa Gia đình và người chưa thành
niên.
Người chưa thành niên có đặc điểm là chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về
thể lực, trí tuệ, tinh thần; là người đang ở giai đoạn phát triển và hình thành nhân
cách nên chưa thể có suy nghĩ chín chắn khi quyết định hành vi của mình. Do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà người chưa thành niên có thể tham gia q trình tố
tụng với tư cách bị cáo, bị hại, người làm chứng, … Ví dụ như với tâm lý không
ổn định mà người chưa thành niên có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình
sự, từ đó dẫn đến tham gia tố tụng với tư cách bị cáo, hoặc là người chưa thành
niên do chưa đủ khả năng tự bảo vệ bản thân mà bị chủ thể khác xâm hại (trong
BLHS có một số tội phạm mà đối tượng là người dưới 18 tuổi, ví dụ như tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi tại điều 142 BLHS, tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi

quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi tại điều 145 BLHS, tội
sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm tại điều 147 BLHS, …). Vì
vậy mà BLTTHS đã có những quy định về thủ tục đặc biệt, trong đó có thủ tục tố
tụng đối với người chưa thành niên. Tuy nhiên, thủ tục đặc biệt này vẫn còn mang
tính chung chung, dẫn chiếu đến việc áp dụng những quy định chung về thủ tục tố


10

tụng nên những quy định này không được cụ thể, từ đó cho thấy sự cần thiết về
việc thành lập một nhánh Tòa chuyên trách chuyên xử lý những vụ án hình sự liên
quan đến người chưa thành niên cũng như thủ tục tố tụng đặc biệt cùng với đội
ngũ chun mơn tương ứng.
Bên cạnh đó, Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên
thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em ngay từ ngày
20/02/1990. Công ước về quyền trẻ em đòi hỏi các quốc gia thành viên phải có luật
pháp, thủ tục, các cơ quan và cơ sở đặc biệt để giải quyết vấn đề người chưa thành
niên vi phạm pháp luật. Việc thành lập nhánh tòa chuyên trách chuyên xử lý vụ án
hình sự liên quan đến người chưa thành niên là cần thiết và phù hợp với các công
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, thực hiện nguyên tắc tận tâm thực hiện
những gì đã cam kết khi tham gia quan hệ quốc tế.
Vậy nên, có thể thấy dù BLTTHS đã có những quy định về thủ tục tố tụng
đặc biệt đối với người chưa thành niên nhưng việc thành lập Tòa chuyên trách
chuyên xử lý những vụ án hình sự liên quan đến người chưa thành niên là cần thiết
để có thể đảm bảo tốt nhất quyền lợi của người chưa thành niên khi tham gia tố
tụng, và đặc biệt hơn là không phân biệt giữa người chưa thành niên là bị cáo hay
bị hại, người làm chứng.
Theo điểm b khoản 1 điều 30, điểm b khoản 1 điều 38, khoản 1 điều 45 Luật
tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Tịa Gia đình và người chưa thành niên
(TGĐ&NCTN) thuộc cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao, TAND

cấp tỉnh và TAND cấp huyện. Việc tổ chức Tịa gia đình và người chưa thành niên
ở TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện sẽ căn cứ vào yêu cầu cơng việc và thực tế
xét xử của mỗi tịa án; đồng thời tùy thuộc vào biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên,
Thư ký của từng tòa án và do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết
định5 như vậy là không phải TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện ở địa phương
nào cũng thành lập TGĐ&NCTN. Theo ghi nhận thì ngồi 3 TAND cấp cao, hiện
đã có 38 tỉnh thành triển khai thành lập TGĐ&NTCN.

Khoản 1 Điều 38 và khoản 1 điều 45 Luật tổ chức Tịa án nhân dân 2014, điều 2 Thơng tư số 01/2016/TTCA của Tòa án nhân dân tối cao về việc quy định việc tổ chức các tòa chuyên trách tại tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
5


11

Về thẩm quyền chung, theo khoản 6 điều 3 Thông tư số 01/2016/TT-CA
ngày 21 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao về Quy định việc tổ chức
các Tòa chuyên trách tại Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (Thơng
tư số 01/2016/TT-CA), Tịa gia đình và người chưa thành niên giải quyết các vụ
việc như sau:
+Các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình sự
mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới 18 tuổi
bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học
tập do khơng có mơi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi
khác.
+ Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án
nhân dân đối với người chưa thành niên.
+ Các vụ việc hơn nhân gia đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với vụ án hình sự, theo quy định tại điều 3 Thông tư số 02/2018/TTTANDTC ngày 21 tháng 09 năm 2018 của Tòa án nhân dân tối cao về Quy định

chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi
thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên (Thơng tư số
02/2018/TT-TANDTC), TGĐ&NCTN có Tịa gia đình và người chưa thành niên
có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự sau đây:
+Vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi.
+Vụ án hình sự có người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm
trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do khơng có mơi
trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác.
Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử (theo
khoản 1 điều 61 BLTTHS năm 2015), nghĩa là dù đã có hồ sơ vụ án cùng bản cáo
trạng truy tố được gửi cho Tòa án nhưng nếu chưa có quyết định của Tịa án đưa
ra xét xử thì bị can chưa được gọi là bị cáo. Theo điều 12 BLHS năm 2015 thì độ
tuổi thấp nhất để chịu trách nhiệm hình sự là 14 tuổi. Như vậy, kết hợp các quy
định thì bị cáo là người dưới 18 tuổi là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi đã bị Tòa
án quyết định đưa ra xét xử.


12

Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là
cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây
ra (theo khoản 1 điều 62 BLTTHS năm 2015). Như vậy, bị hại là người dưới 18
tuổi là người dưới 18 tuổi bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây
ra hoặc đe dọa gây ra. Riêng đối với bị hại là người dưới 18 trong vụ án hình sự
thuộc thẩm quyền xét xử của TGĐ&NCTN thì còn được quy định thêm là “bị tổn
thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do
khơng có mơi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác”.
Giải thích thêm thì người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng
về tâm lý là người luôn ở trong trạng thái hoảng loạn, sợ hãi, suy nhược về tinh
thần và thể chất, rối loạn tâm thần và hành vi do tác động bởi hành vi phạm tội gây

ra (theo khoản 1 điều 2 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC). Cịn người cần có sự
hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do khơng có mơi trường gia đình lành mạnh như
những người dưới 18 tuổi khác là người có hồn cảnh khơng bình thường (như:
mồ cơi, cha mẹ ly hơn, hay bị bạo hành, có cha mẹ nghiện rượu, ma túy, vi phạm
pháp luật...) dẫn đến bị thiếu thốn về vật chất, tinh thần, khơng có nơi ở, bỏ học
hoặc không được đi học như những người dưới 18 tuổi khác (theo khoản 2 điều 2
Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC). Từ đây, có thể hiểu là khơng phải bất cứ bị
hại dưới 18 tuổi nào cũng thuộc phạm vi xét xử của TGĐ&NCTN.
Như vậy, có thể thấy Tịa Gia đình và người chưa thành niên là một nhánh
tòa chuyên trách thuộc hệ thống tòa án nhân dân chuyên xử lý các vụ án hình sự
có bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc vụ án hình sự có người bị hại là người dưới
18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống,
học tập do khơng có mơi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi
khác (gọi chung là người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi).
Từ những phân tích trên, thủ tục xét xử vụ án hình sự của Tịa gia đình và
người chưa thành niên là trình tự thủ tục tố tụng hình sự do TGĐ&NCTN tiến
hành thực hiện hoạt động xét xử vụ án hình sự nhằm giải quyết các vụ án hình sự
có người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi.


13

1.2. Đặc điểm của thủ tục xét xử vụ án hình sự của Tịa gia đình và
người chưa thành niên
Thứ nhất, thủ tục xét xử vụ án hình sự của TGĐ&NCTN hướng đến các vụ
án hình sự có bị cáo hoặc bị hại là người chưa thành niên.
Căn cứ vào quy định tại điều 3 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC, các vụ
án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của TGĐ&NCTN bao gồm vụ án hình sự có
bị cáo là người dưới 18 tuổi và vụ án hình sự có người bị hại là người dưới 18 tuổi
bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học

tập do khơng có mơi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi
khác (gọi chung là người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi). Như vậy, thủ tục xét xử
vụ án hình sự của TGĐ&NCTN hướng đến áp dụng cho người tham gia tố tụng
dưới 18 tuổi (mà đối với bị cáo thì là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi).
Thứ hai, thủ tục xét xử vụ án hình sự của TGĐ&NCTN là thủ tục tố tụng
đặc biệt.
Theo quy định về vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của TGĐ&NCTN,
vụ án hình sự của TGĐ&NCTN có sự tham gia của người chưa thành niên (với tư
cách là bị cáo hoặc bị hại).
Theo Điều 413 BLTTHS năm 2015, thủ tục tố tụng đối với người bị buộc
tội (trong đó có bị cáo theo giải thích từ ngữ tại điểm đ khoản 1 điều 4 BLTTHS
năm 2015), bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi được áp dụng theo quy
định của Chương XXVIII – Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi thuộc phần
Thủ tục đặc biệt, theo đó thủ tục tố tụng đặc biệt này sẽ có một số quy định riêng
khác với một số quy định trong thủ tục tố tụng thơng thường nhằm mục đích phù
hợp hơn với người dưới 18 tuổi khi tham gia tố tụng cũng như đảm bảo quyền lợi
tốt nhất cho họ. Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi có sự khác biệt so với
thủ tục tố tụng chung như: nguyên tắc tiến hành tố tụng riêng bên cạnh các nguyên
tắc chung; tiêu chí riêng cho người tiến hành tố tụng; xác định tuổi của người bị
buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi; sự tham gia của người đại diện, nhà
trường, tổ chức; hoạt động lấy lời khai, hỏi cung; hoạt động xét xử; … Như vậy,
thủ tục xét xử vụ án hình sự của TGĐ&NCTN là thủ tục tố tụng đặc biệt.


14

Thứ ba, thủ tục xét xử vụ án hình sự của TGĐ&NCTN thực chất vẫn là thủ
tục tố tụng hình sự và có mối liên hệ chặt chẽ với thủ tục tố tụng chung.
Thủ tục tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi tuy được quy định là thủ
tục tố tụng đặc biệt với một chương riêng biệt, nhưng thủ tục này vẫn có mối liên

hệ chặt chẽ gắn bó và khơng tách rời với thủ tục chung, và thủ tục xét xử vụ án
hình sự của TGĐ&NCTN cũng vậy, vẫn là thủ tục tố tụng hình sự, là trình tự, cách
thức thực hiện các hành vi, hoạt động tố tụng hình sự (theo quy định của pháp luật
TTHS, như chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, mở phiên tòa, tranh tụng tại phiên tòa,
nghị án và tuyên án, xét xử phúc thẩm, …). Cụ thể là tại Điều 413 BLTTHS năm
2015 thì ngồi các quy định riêng của thủ tục tố tụng đặc biệt, thủ tục tố tụng đối
với người dưới 18 tuổi vẫn được áp dụng theo quy định của thủ tục tố tụng thông
thường nếu không trái với quy định của thủ tục đặc biệt.
Như vậy, thủ tục xét xử vụ án hình sự của TGĐ&NCTN vẫn là thủ tục tố
tụng hình sự theo một “khung sườn” chung nhưng với một số điểm khác biệt so
với thủ tục thông thường.
Thứ tư, thủ tục xét xử của TGĐ&NCTN mang tính thân thiện với người
chưa thành niên.
Người chưa thành niên khi tham gia tố tụng thường có tâm lý sợ hãi do phải
chịu áp lực từ thủ tục tố tụng, không dám khai báo hoặc khai báo không trung thực
dẫn đến gây ảnh hưởng đến quá trình tố tụng. Vậy nên một trong những nguyên
tắc khi người chưa thành niên tham gia tố tụng đó là bảo đảm thủ tục tố tụng thân
thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của
người dưới 18 tuổi6. Để thực hiện tố tụng thân thiện với người chưa thành niên thì
biểu hiện rõ nhất chính là phịng xét xử thân thiện đặc trưng của TGĐ&NCTN.
Phòng xét xử thân thiện là Phòng xử án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền
của Tịa gia đình và người chưa thành niên quy định tại Điều 6 của Thông tư số
01/2017/TT-TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao về
Quy định về phịng xử án (Thơng tư số 01/2017/TT-TANDTC). Dù không phải vụ
án nào thuộc thẩm quyền xét xử của TGĐ&NCTN đều được giải quyết tại phòng

6

Khoản 1 Điều 414 BLTTHS năm 2015



15

xử án thân thiện nhưng đây là đặc trưng của TGĐ&NCTN khi xét xử vụ án hình
sự.
Theo quy định tại điều 6 Thơng tư số 01/2017/TT-TANDTC, ngồi những
điều kiện hình thức chung và trang thiết bị của phòng xử án, phòng xử án thân
thiện cần phải đáp ứng các điều kiện sau:
 Vị trí của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng,
người tham dự phiên tòa, phiên họp trong phịng xử án được bố trí trên
cùng một mặt phẳng, sắp xếp theo hình thức bàn trịn; tường trong phịng
xử án có màu xanh.
 Người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng tại phiên tòa được ngồi cạnh
người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
 Bàn, ghế trong phịng xử án được thiết kế theo kiểu dáng bàn, ghế
văn phịng.
Việc quy định màu sắc phịng xử án, vị trí chỗ ngồi như trên là nhằm tạo
điều kiện cho người chưa thành niên tham gia tố tụng cảm thấy an tâm hơn, tránh
áp lực từ quá trình xét xử, tạo cho họ khơng khí thoải mái, giảm bớt sự căng thẳng
kích động và đưa ra những định hướng giáp dục giúp họ nhận ra sai lầm của mình
mà sữa chữa. Điều này xuất phát từ nguyên tắc “việc xử lý đối với người chưa
thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội”7.
Thứ năm, người tiến hành tố tụng có tính chun biệt.
Theo quy định tại Điều 415 BLTTHS năm 2015 thì người tiến hành tố tụng
đối với vụ án có người dưới 18 tuổ i phải là người đã được đào tạo hoặc có kinh
nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổ i, có hiểu
biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổ i. Tại điều
6 Thơng tư số 02/2018/TT-TANDTC có quy định rằng khi giải quyết vụ án hình

sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi, Chánh án Tòa án phân công
Thẩm phán, Hội thẩm phải bảo đảm các điều kiện sau đây:

7

Khoản 1 Điều 91 BLHS năm 2015


16

 Thẩm phán là người có kinh nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến
người dưới 18 tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ
năng giải quyết các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người
dưới 18 tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học,
khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi.
 Có 01 Hội thẩm là giáo viên, cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18
tuổi.
Việc quy định thành phần hội đồng xét xử với yêu cầu trên là cần thiết vì
họ là chủ thể thực hiện hoạt động xét xử và đưa ra phán quyết ảnh hưởng đến quyền
lợi của người dưới 18 tuổi (đối với bị cáo là việc chịu trách nhiệm hình sự, đối với
bị hại là địi được cơng bằng), việc hiểu biết tâm sinh lý người chưa thành niên sẽ
giúp cho người tiến hành tố tụng có cái nhìn khách quan và tồn diện hơn về vụ
án, có thể đặt ra câu hỏi phù hợp với tâm lý, lứa tuổi của người chưa thành niên để
họ có thể khai báo dễ hơn, giúp cho việc xét xử được diễn ra thuận lợi và hiệu quả
hơn.
Thứ sáu, việc xét xử mang xu hướng xét xử kín.
Theo quy định tại khoản 2 điều 423 BLTTHS năm 2015, trong trường hợp
đặc biệt cần bảo vệ bị cáo, bị hại là người dưới 18 t̉ i thì Tịa án có thể quyết định
xét xử kín. Theo điểm d khoản 1 điều 7 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC, đối

với những vụ án có người bị hại là người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo
hành hoặc bị mua bán thì Tịa án phải xét xử kín; đối với những vụ án khác có yêu
cầu của người dưới 18 tuổi, người đại diện của họ hoặc để giữ bí mật đời tư, bảo
vệ người dưới 18 tuổi thì Tịa án cũng có thể xét xử kín nhưng phải tun án cơng
khai.
Như vậy, dù khơng phải vụ án hình sự nào TGĐ&NCTN cũng đều xét xử
kín, nhưng có thể thấy quy định này nghiêng về việc cho TGĐ&NCTN xét xử kín
nhiều hơn. Do đặc điểm của người chưa thành niên là rất nhạy cảm, dễ bị tổn
thương, việc họ tham gia quá trình tố tụng hình sự, dù là với tư cách nào thì họ vẫn
có khả năng bị dư luận xã hội đem ra bàn tán (nặng nề hơn là bị cáo bị xã hội lên
án dẫn đến gây áp lực cho phía Tịa án khi đưa ra phán quyết), từ đó họ cảm thấy
mặc cảm, tự ti mà ảnh hưởng đến tâm lý và sự phát triển sau này của họ. Việc quy


17

định như vậy là nhằm bảo đảm bí mật thơng tin cá nhân cho người chưa thành niên,
bảo vệ quyền lợi cho người chưa thành niên và đảm bảo họ có thể phát triển bình
thường mà khơng bị mọi người xung quanh kỳ thị.
1.3. Ý nghĩa việc quy định xét xử vụ án hình sự của Tịa gia đình và
người chưa thành niên
Người chưa thành niên là một trong những chủ thể được nhà nước quan tâm
và bảo vệ hàng đầu vì họ chính là thế hệ tiếp nối, là tương lai của quốc gia, dân
tộc. Họ là những đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần nên cần
địi hỏi pháp luật phải có những biện pháp xử lý và thủ tục riêng biệt khi họ phạm
tội hoặc bị xâm hại. Từ những lẽ đó nên việc thành lập TGĐ&NCTN mang ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong hệ thống tư pháp Việt Nam và trong công cuộc bảo vệ
quyền lợi của người chưa thành niên.
Trước hết thì TGĐ&NCTN mang nhiệm vụ của hệ thống Tịa án nói chung.
Theo quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Tòa án là cơ quan xét xử của

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ
bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân8. Vì thuộc hệ thống Tịa án nhân dân nên TGĐ&NCTN có đầy đủ các chức
năng, nhiệm vụ nói trên, là đảm bảo cho q trình xét xử nói chung được tiến hành
một cách khách quan, phù hợp, toàn diện và đúng pháp luật. Bên cạnh đó, xuất
phát từ sự đặc biệt của đối tượng người chưa thành niên nên hoạt động xét xử nên
Tòa này còn mang một số ý nghĩa riêng biệt khác.
Thứ nhất, việc quy định xét xử vụ án hình sự của Tịa gia đình và người
chưa thành niên là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên
khi tham gia tố tụng, cụ thể ở đây là hoạt động xét xử. Do người chưa thành niên
là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm thần nên cần địi hỏi pháp
luật phải có những biện pháp xử lý và thủ tục riêng biệt khi họ phạm tội hoặc bị
xâm hại. Bên cạnh đó thì tình hình trẻ em bị xâm hại và vi phạm pháp luật ngày
càng gia tăng và diễn biến phức tạp nên cần phải có biện pháp pháp lý hỗ trợ, bảo
vệ từ Tòa án. Việc quy định thủ tục xét xử VAHS của TGĐ&NCTN nhằm triển
8

Điều 102 Hiến pháp năm 2013.


18

trai các chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ, phát triển gia
đình; bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung và xử lý người chưa thành niên
vi phạm pháp luật nói riêng. Khơng kém phần quan trọng là người chưa thành niên
là bị hại trong vụ án hình sự, qua thủ tục tố tụng phù hợp thì sẽ giúp họ địi lại cơng
bằng, góp phần khắc phục những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và đặc biệt
là giúp họ vượt qua những chấn thương tâm lý để có thể phát triển bình thường sau
này (vì người chưa thành niên là bị hại có thể là đối tượng của một số tội phạm

như hiếp dâm, mua bán người, hoặc bị bạo hành, cố ý gây thương tích gây tổn
thương tâm lý). Vậy nên, việc quy định thủ tục xét xử của TGĐ&NCTN chuyên
xử lý những vụ án hình sự liên quan đến người chưa thành niên là cần thiết để có
thể bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người chưa thành niên khi tham gia tố
tụng.
Thứ hai, việc quy định xét xử vụ án hình sự của TGĐ&NCTN nhằm thể
chế hóa chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với người chưa thành
niên khi tham gia tố tụng. Pháp luật ngồi mang tính trừng trị, răn đe người phạm
tội thì cịn mang tính chất giáo dục, phòng ngừa chung cho cộng đồng. Đối với bị
cáo là người chưa thành niên thì pháp luật có sự ưu ái hơn khi mà ưu tiên giáo dục,
sửa sai họ hơn là trừng trị, việc xử lý hình sự người chưa thành niên phạm tội chủ
yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh
để trở thành cơng dân có ích cho xã hội (Điều 91 BLHS năm 2015).
Thứ ba, thủ tục xét xử vụ án hình sự của TGĐ&NCTN là cần thiết và phù
hợp với xu hướng quốc tế. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên phê
chuẩn Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em. Công ước về quyền trẻ em
đòi hỏi các quốc gia thành viên phải có luật pháp, thủ tục, các cơ quan và cơ sở
đặc biệt để giải quyết vấn đề NCTN vi phạm pháp luật. Vậy nên việc thành lập
nhánh tòa chuyên trách chuyên xử lý vụ án hình sự liên quan đến người chưa thành
niên cũng như thủ tục tố tụng riêng tương ứng là cần thiết và phù hợp với xu hướng
quốc tế, cho thấy Việt Nam tôn trọng và tận tâm thực hiện những gì đã cam kết khi
tham gia quan hệ quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo vệ
quyền của trẻ em, người chưa thành niên đã được ghi nhận trong các văn kiện quốc
tế mà Việt Nam là thành viên cũng như phù hợp với thông lệ của nhiều nước trên
thế giới.


×