Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 168 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

PHẠM VĂN QUỐC DIỄN

THAY ĐỔI, BỔ SUNG YÊU CẦU KHỞI
KIỆN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 6 - NĂM 2023


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

PHẠM VĂN QUỐC DIỄN

THAY ĐỔI, BỔ SUNG YÊU CẦU KHỞI KIỆN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ

ThS. NGUYỄN THỊ HOÀI TRÂM

TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 6 - NĂM 2023


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Viết tắt


Viết đầy đủ

1

BLDS

Bộ luật Dân sự

2

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

3

HĐXX

Hội đồng xét xử

4

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

5

TAND


Tòa án nhân dân

6

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

7

VADS

Vụ án dân sự


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THAY ĐỔI, BỔ SUNG YÊU CẦU KHỞI
KIỆN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ........................................................................ 8
1.1. Khái niệm yêu cầu khởi kiện, thay đổi và bổ sung yêu cầu khởi kiện trong
tố tụng dân sự ............................................................................................................. 8
1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng
dân sự .........................................................................................................................12
1.3. Quy định của pháp luật hiện hành về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
trong tố tụng dân sự ................................................................................................. 13
1.3.1. Chủ thể thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân
sự ................................................................................................................................ 13
1.3.2. Thời điểm và điều kiện thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
trong tố tụng dân sự ................................................................................................... 16
Kết luận Chương 1 ................................................................................................... 32

CHƯƠNG 2. MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ THAY ĐỔI, BỔ SUNG YÊU CẦU KHỞI KIỆN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ ........................................................................................................ 33
2.1. Hình thức, thủ tục thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ......33
2.1.1. Hình thức thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên tòa ......... 33
2.1.2. Thủ tục thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong thời gian
chuẩn bị cho việc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm .........................................................36
2.1.3. Cách thức xử lý khi người khởi kiện thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện tại
phiên tòa sơ thẩm nhưng các đương sự khác vắng mặt ............................................ 37
2.2. Điều kiện để việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện được chấp nhận .....42
2.2.1. Về cách hiểu “Yêu cầu khởi kiện ban đầu” .................................................... 42
2.2.2. Về cách hiểu “Vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu” .......................44
2.2.3. Hệ quả pháp lý khi thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện vượt


quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu nhưng có lý do chính đáng ........................ 50
2.2.4. Về quy định số lần tối đa việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ............... 52
2.2.5. Thời hiệu khởi kiện khi nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ...... 54
Kết luận Chương 2 ................................................................................................... 57
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 58


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp “Thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
trong tố tụng dân sự” này là cơng trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Nguyễn Thị Hồi Trâm. Khóa luận
tốt nghiệp này đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú
thích. Nội dung lấy từ tài liệu khác mà không phải là quy định pháp luật đều được
chú thích nguồn trong Khóa luận. Tơi xin chịu trách nhiệm về Khóa luận tốt nghiệp
của mình.

Tác giả

Phạm Văn Quốc Diễn



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi nói đến hệ thống pháp luật nước ta thì khơng thể nào không kể đến Luật
Tố tụng dân sự, một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Mỗi ngành luật
sẽ giữ những nhiệm vụ nhất định, riêng đối với ngành Luật Tố tụng dân sự thì sẽ có
nhiệm vụ điều chỉnh trong lĩnh vực đặc thù của nó là mảng tố tụng dân sự. Đi song
song với nhiệm vụ đó là những nguyên tắc. Trong đó, một trong những nguyên tắc
cơ bản và quan trọng của Bộ luật Tố tụng dân sự mà chúng ta khơng thể bỏ qua, đó
chính là “Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự” được quy định cụ thể tại
Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Theo quy định của nguyên tắc này, Tòa
án chỉ thụ lý giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của đương sự và Tòa án
sẽ chỉ giải quyết trong phạm vi của đơn khởi kiện đó. Có thể thấy, khởi kiện là hành
vi biểu đạt quyền tự định đoạt của đương sự1.
Bên cạnh đó, thơng qua Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì quyền
quyết định và tự định đoạt của đương sự còn được thể hiện rõ nét khi xác định
đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình. Hơn nữa, Điều 70 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định việc đương sự được quyền giữ nguyên,
thay đổi, bổ sung yêu cầu theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nói
cách khác, chỉ đương sự chứ khơng phải ai khác có quyền tự định đoạt số phận pháp
lý của vụ việc dân sự2. Cùng với quy định pháp luật là thực tiễn áp dụng, trên thực
tế về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự có khơng ít các
trường hợp gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của Tòa án, làm lãng phí đi khá

nhiều thời gian, chi phí và cơng sức của các đương sự cũng như phía Tịa án vì làm
cho thời gian giải quyết vụ án bị gián đoạn, kéo dài. Điển hình là có nhiều trường
hợp trong quá trình giải quyết vụ án người khởi kiện có những thay đổi, bổ sung
yêu cầu khởi kiện, đặc biệt là khi việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện này
thuộc các trường hợp vượt ra khỏi giới hạn, phạm vi luật định. Cho nên có thể
những trường hợp khi tiếp tục xem xét, giải quyết yêu cầu khởi kiện thay đổi, bổ
sung này thì Tịa án phải quay lại giai đoạn xác minh, thu thập chứng cứ để làm rõ
yêu cầu của người khởi kiện trước khi đưa ra phán quyết.
Tuy pháp luật đã có quy định về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
nhưng trong thực tiễn áp dụng pháp luật cịn có những bất cập, những quan điểm
khác nhau về các việc như:
tòa.

Thứ nhất, hình thức thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên

Thứ hai, thủ tục thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong thời
gian chuẩn bị cho việc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm.
Nguyễn Văn Tiến, “Bàn về ủy quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự”, truy cập ngày 17/6/2023.
2
Trần Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2015, Nxb Tư pháp, trang 15.
1


2

Thứ ba, cách thức xử lý khi người khởi kiện thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi
kiện tại phiên tòa sơ thẩm nhưng các đương sự khác vắng mặt.
Thứ tư, về cách hiểu “Yêu cầu khởi kiện ban đầu”.
Thứ năm, về cách hiểu “Vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu”.

Thứ sáu, về quy định số lần tối đa việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện.
Thứ bảy, hệ quả pháp lý khi thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi
kiện vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu nhưng có lý do chính đáng.
kiện.

Thứ tám, thời hiệu khởi kiện khi nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi

Việc phân tích và nghiên cứu đề tài “Thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
trong tố tụng dân sự” sẽ thật sự cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong q trình giải
quyết vụ án dân sự vì vấn đề này cịn tồn tại nhiều vướng mắc cần được giải quyết
triệt để, điển hình là những vướng mắc mà tác giả nêu trên. Đây sẽ là một cơng trình
nghiên cứu hữu ích cho việc hiểu và thực thi đúng quy định pháp luật về thay đổi,
bổ sung yêu cầu khởi kiện trong lĩnh vực tố tụng dân sự khi áp dụng vào thực tiễn;
giúp cho quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng, khơng bị gián đoạn, kéo dài;
có được sự khách quan, cơng bằng, đảm bảo được quyền và lợi ích của các bên
đương sự trong vụ án dân sự, làm giảm bớt áp lực cho các cơ quan Tòa án, tránh tồn
đọng án, tiết kiệm được thời gian, chi phí và cơng sức của các bên chủ thể cũng như
phía Tịa án.
Từ những lý do đó, để những vướng mắc mà tác giả nêu trên được giải quyết,
trở nên phù hợp và hoàn thiện quy định pháp luật về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi
kiện trong tố tụng dân sự thì có thể nói đây là những lý do chính để tác giả chọn đề
tài “Thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự” là Khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự khơng cịn q
xa lạ với chúng ta, tuy nhiên do xuất phát từ tầm quan trọng của chế định này thì để
bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự nói chung và nguyên
đơn nói riêng cũng như nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật ngày thêm phù hợp
với tình hình xã hội ngày nay, tránh việc hiểu và áp dụng quy định pháp luật về thay
đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện khác nhau thì có khá nhiều tác giả cũng đã nghiên

cứu, đánh giá và nhìn nhận về vấn đề này. Có thể kể đến là:
- Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam (2021) của Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh do tác giả Nguyễn Thị Hoài Phương chủ biên; Giáo trình
Luật Tố tụng dân sự Việt Nam (2019) của Trường Đại học Luật Hà Nội do tác giả
Nguyễn Công Bình chủ biên; Giáo trình Luật Tố tụng dân sự (2017) của Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh do tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung chủ biên;
Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam (2019) của Trường Đại học Kiểm sát Hà


3

Nội do tác giả Vũ Thị Hồng Vân chủ biên. Có thể nói qua tìm hiểu 04 quyển giáo
trình này ta nhận thấy rằng, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện chỉ được nêu
lên một cách khái quát nội dung cơ bản về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong
tố tụng dân sự do đó khẳng định nội dung các quyển giáo trình nêu trên chưa tiếp
cận sâu vào nghiên cứu, phân tích về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong
tố tụng dân sự, các quyển giáo trình trên chỉ dừng lại ở những nội dung cơ bản nhất.
- Sách tình huống Luật Tố tụng dân sự (Bình luận bản án) (2021) do tác giả
Nguyễn Văn Tiến chủ biên. Sách có 34 chủ đề, trong đó chủ đề thứ 26 có viết về
thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm, đây sẽ là
nguồn tài liệu hữu ích hỗ trợ cho bài viết. Tuy nhiên nội dung chủ đề thứ 26 của
sách mới chỉ dừng lại ở tại phiên tòa sơ thẩm, còn trước khi mở phiên tịa thì chủ đề
này của sách chưa đề cập.
- Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (2016) do tác giả
Đoàn Tấn Minh và tác giả Nguyễn Ngọc Diệp chủ biên. Nội dung sách đã có một
cái nhìn về thay đổi, bổ sung u cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự sẽ là tài liệu
hữu ích để hồn thành Khóa luận này. Tuy nhiên, sách chỉ nêu 04 trường hợp mà
tác giả của sách cho là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, bên cạnh đó cịn có
những bất cập khác về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự
nhưng nội dung sách chưa nói đến điển hình như hình thức thay đổi, bổ sung yêu

cầu khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc thủ tục thực hiện việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu khởi kiện trong thời gian chuẩn bị cho việc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm.
- Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2015 (2017) do tác giả Trần Anh Tuấn chủ biên. Nội dung
sách có đề cập đến việc thay đổi bổ sung, yêu cầu khởi kiện, tuy nhiên chỉ dừng lại
ở việc nêu lên bất cập là chưa giải thích, hướng dẫn cụ thể cụm từ “phạm vi yêu
cầu” là phạm vi quan hệ pháp luật tranh chấp hay phạm vi về giá trị yêu cầu và nêu
lên rằng tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng đối với những trường hợp mà
đương sự có yêu cầu tăng giá trị so với giá trị yêu cầu ban đầu nhưng không phải là
yêu cầu mới, không phải là quan hệ pháp luật tranh chấp khác thì khơng gọi là vượt
quá phạm vi yêu cầu ban đầu3.
- Luận văn của tác giả Đinh Kim Huệ (2013), “Quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam”. Trong nội dung luận văn có nêu lên
quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện tuy nhiên nó chỉ được tiếp cận là một
phần nhỏ trong đề tài này và luận văn đã đánh giá, phân tích dựa trên quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đã hết hiệu lực trên thực tế.
- Luận văn của tác giả Nguyễn Văn Bẩy (2020), “Yêu cầu, thay đổi yêu
cầu của đương sự trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân
huyện Trảng Định, tỉnh Lạng Sơn”4. Luận văn đi sâu vào nghiên cứu về yêu cầu và
Trần Anh Tuấn, tlđd (2), trang 578 - 579.
Nguyễn Văn Bẩy, “Yêu cầu, thay đổi yêu cầu của đương sự trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại
Tòa
án
nhân
dân
huyện
Trảng
Định,
tỉnh
Lạng

Sơn”,
/>4


4

thay đổi yêu cầu của đương sự và cả tình hình thực tiễn tại Tịa án nhân dân huyện
Trảng Định, tỉnh Lạng Sơn sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị đối với phần thay đổi
yêu cầu của đương sự trong đề tài thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng
dân sự. Tuy nhiên, qua tìm hiểu, tác giả của bài viết vẫn chưa nêu lên những quan
điểm khác nhau về vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu cũng như bên cạnh
thay đổi u cầu thì thì cịn có bổ sung u cầu là một quyền khá quan trọng cùng
với thay đổi yêu cầu cần được nói đến.
- Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Minh Trang (2015), “Quyền yêu cầu,
thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam”5.
Nội dung luận văn đã chỉ ra một số quan điểm khác nhau về “vượt quá phạm vi yêu
cầu khởi kiện ban đầu”, tuy nhiên bên cạnh đó cịn có những bất cập khác mà luận
văn chưa đề cập như trường hợp bị đơn vắng mặt tại phiên tịa thì có ảnh hưởng đến
việc quyết định chấp nhận thay đổi hay bổ sung yêu cầu khởi kiện của ngun đơn
hay khơng.
- Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Bùi Nguyễn Anh Thư (2019), “Thay đổi,
bổ sung và rút yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự”. Đối với phần thay đổi, bổ
sung yêu cầu khởi kiện, Khóa luận tập trung làm sáng tỏ hai phần trọng tâm: thứ
nhất là trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải; thứ hai là tại phiên họp và sau khi mở phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải. Cùng với đó, Khóa luận của tác
giả Bùi Nguyễn Anh Thư đã nêu ra được một số vướng mắc như tên gọi của việc
thay đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện, thế nào là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện
ban đầu,... Đây sẽ là một nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho đề tài Khóa luận
“Thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự” của tác giả. Tuy nhiên,

trên thực tế ngoài những vướng mắc mà Khóa luận này đã đề cập thì cịn có những
vướng mắc khác mà Khóa luận này chưa nhắc đến, chẳng hạn trường hợp quy định
số lần tối đa việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện.
- Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Chất và tác giả Phạm Thanh Phương
(2022), “Xác định việc bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố và yêu
cầu độc lập theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015”6. Nội dung bài viết có
một cái nhìn xoay quanh việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, bài viết có nêu
được hai quan điểm khác nhau về vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện. Tuy nhiên,
trên thực tế việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự cịn có
những vướng mắc khác mà bài viết này chưa đề cập đến, chẳng hạn như việc bị đơn
vắng mặt tại phiên tòa thì có ảnh hưởng đến việc quyết định chấp nhận thay đổi hay
VN, truy cập ngày 09/3/2023.
5
Nguyễn Thị Minh Trang, “Quyền yêu cầu, thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự trong tố tụng dân
sự
Việt
Nam”,
/>truy cập ngày 09/3/2023.
6
Nguyễn Văn Chất và Phạm Thanh Phương, “Xác định việc bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu
phản tố và yêu cầu độc lập theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015”, truy cập ngày 09/3/2023.


5

bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hay khơng.
- Bài viết của tác giả Vũ Thị Bích Hải và tác giả Đinh Thu Thủy (2021),
“Bàn về việc thay đổi và bổ sung yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân
sự”7; Bài viết của tác giả Vũ Nam (2018), “Về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm”8; Bài viết “Về thay đổi, bổ sung yêu cầu

khởi kiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm” (2018)9. Các bài viết trên chỉ
dừng lại ở việc đi sâu vào một giai đoạn nhất định là tại phiên tòa và trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm nên có thể thấy các bài viết chưa làm rõ được hết các góc
cạnh của thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự.
- Bài viết của tác giả Dương Tấn Thanh (2019),“Bàn về phạm vi khởi kiện và
quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015”10. Bài viết đã nêu lên được một số bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật
như: đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu tại hoặc sau phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hịa giải lần thứ hai trở lên có được chấp nhận
không; tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa
giải, đương sự bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc
lập mặc dù vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập
ban đầu nhưng có lý do chính đáng thì có được chấp nhận khơng. Tuy nhiên, ngồi
những bất cập mà tác giả bài viết đã nêu thì trên thực tế cũng còn tồn tại những bất
cập khác về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện đơn cử như thời hiệu khởi kiện khi
nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện.
- Bài viết của tác giả Dương Tấn Thanh (2018), “Bà A đã vượt quá phạm vi
yêu cầu khởi kiện ban đầu”11. Bài viết phân tích, đánh giá dựa trên tình huống của
bà A trong khi bà A vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu nhưng tác giả
không nêu lên được các quan điểm thế nào là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện
ban đầu.
- Bài viết “Quyền tự định đoạt của đương sự - Một số khó khăn, bất cập và
hướng hoàn thiện” (2015)12. Bài viết nêu lên những quyền tự định đoạt của đương
sự, trong đó có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện. Tuy nhiên bài viết được
Vũ Thị Bích Hải và Đinh Thu Thủy, “Bàn về việc thay đổi và bổ sung yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án dân sự”, truy cập ngày 09/3/2023.
8
Vũ Nam, “Về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm”,
truy cập ngày 09/3/2023.
9

“Về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm”,
truy cập ngày
09/3/2023.
10
Dương Tấn Thanh,“Bàn về phạm vi khởi kiện và quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sư theo Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015”, truy cập ngày 09/3/2023.
11
Dương Tấn Thanh, “Bà A đã vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu”, truy cập ngày 28/3/2023.
12
“Quyền tự định đoạt của đương sự - Một số khó khăn, bất cập và hướng hoàn thiện”,
truy cập ngày 09/3/2023.
7


6

viết vào lúc Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật, đây sẽ chỉ
là một nguồn tài liệu tham khảo, bổ trợ cho bài viết về việc liên hệ đến quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005.
Cùng với đó cịn có một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến thay đổi, bổ
sung yêu cầu khởi kiện nhưng ở lĩnh vực tố tụng hành chính như: Khóa luận tốt
nghiệp “Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện trong vụ án hành
chính” của tác giả Trương Thị Minh Thùy; Khóa luận tốt nghiệp “Yêu cầu khởi kiện
và thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện trong tố tụng hành chính Việt Nam” của
tác giả Phan Thị Kim Quyên.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi thời gian: bài viết nghiên cứu về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi
kiện trong tố tụng dân sự kể từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực
pháp luật cho đến hiện nay.
- Phạm vi không gian: theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

và thực tiễn áp dụng quy định Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 trong phạm vi lãnh
thổ mà Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được áp dụng về thay đổi, bổ sung yêu cầu
khởi kiện trong tố tụng dân sự.
- Phạm vi nội dung: bài viết đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề trọng tâm về
thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện theo thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự.
4. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận của tác giả tập trung nghiên cứu những quy định về thay đổi, bổ
sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015.
Cùng với đó, Khóa luận của tác giả cũng sẽ tìm hiểu, nghiên cứu quy định
pháp luật của một số quốc gia trên thế giới như: Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên bang
Nga, Pháp, Nhật Bản, New South Wales về vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi
kiện trong tố tụng dân sự, so sánh và tiếp thu những tiến bộ, phù hợp cho pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên các thông tin và cơ sở dữ liệu sẵn có tại các văn bản, tài liệu để rút
ra kết luận khoa học cho vấn đề nghiên cứu là thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
trong tố tụng dân sự. Để tiến hành nghiên cứu đề tài thì một số phương pháp nghiên
cứu sau đây đã được tác giả sử dụng:
Đối với Chương 1, tác giả sử dụng các phương pháp như phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp đối chiếu và so sánh. Cụ thể, phương pháp phân tích
và tổng hợp được sử dụng để làm rõ lý luận về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
trong tố tụng dân sự Việt Nam. Cùng với đó là tổng hợp những quan điểm, các vấn
đề liên quan đến thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự ở chương
này. Phương pháp đối chiếu và so sánh được sử dụng để đối chiếu và so sánh pháp


7

luật Việt Nam với quy định pháp luật của một số quốc gia về thay đổi, bổ sung yêu

cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam.
Đối với Chương 2, tác giả sử dụng các phương pháp như phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp đối chiếu và so sánh nhưng chủ yếu nhất là phương
pháp đối chiếu và so sánh giữa quy định, quan điểm về những vướng mắc cũng như
việc thực hiện quy định của pháp luật trên thực tế, cùng với đó là đối chiếu với tình
hình thực tiễn hiện nay, đưa ra cái nhìn khách quan và một số kiến nghị để hoàn
thiện pháp luật về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự.
6. Bố cục của Khóa luận
Nội dung của Khóa luận được tác giả thể hiện qua hai chương, bao gồm:
Chương 1. Một số vấn đề về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố
tụng dân sự.
Chương 2. Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thay đổi, bổ
sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự.


8

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THAY ĐỔI, BỔ SUNG YÊU CẦU KHỞI
KIỆN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm yêu cầu khởi kiện, thay đổi và bổ sung yêu cầu khởi kiện trong
tố tụng dân sự
Khi cho rằng lợi ích của mình bị xâm phạm thì để địi lại cơng bằng, lẽ phải
thì việc khởi kiện thơng thường sẽ là hành vi đầu tiên mà cá nhân, cơ quan, tổ chức
chọn để thực hiện, các chủ thể này sẽ là người khởi xướng cho quá trình tố tụng, họ
sẽ thể hiện ý chí của họ vào đơn khởi kiện và khởi kiện cũng là cơ sở pháp lý làm
phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Thừa nhận và bảo đảm quyền khởi kiện
cho tất cả các chủ thể là cơ chế pháp lý quan trọng để mọi chủ thể đều có quyền tiếp
cận cơng lý và được pháp luật bảo vệ quyền lợi và ích hợp pháp bằng quyền lực nhà
nước. Qua đó nói lên mối liên hệ gắn kết trong quan hệ trách nhiệm giữa nhà nước
với công dân của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa13. Một khi khơng có

hoạt động khởi kiện thì sẽ khơng có q trình tố tụng dân sự cho các giai đoạn tiếp
theo để giải quyết vụ án, Tòa án chỉ thụ lý và giải quyết vụ án dân sự khi có đơn
khởi kiện của các chủ thể14. Có thể nói, khởi kiện là điểm đầu của q trình, là khởi
nguồn của dịng chảy cho một tiến trình tố tụng giải quyết vụ án.
Quyền khởi kiện vụ án dân sự là một trong những quyền cơ bản của con
người, được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế, theo tinh thần
của pháp luật thì các chủ thể được quyền nộp đơn khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu
Tòa án nhân dân với tư cách là cơ quan tài phán, nhân danh nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong lĩnh vực dân sự, hơn
nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động trong trường hợp mà chủ thể nào
đó cho rằng mình bị xâm phạm hoặc có tranh chấp. Quyền khởi kiện là cơ sở để tiếp
cận công lý. Tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng về quyền khởi
kiện.15 Trong đơn khởi kiện, nguyên đơn phải nêu các yêu cầu cụ thể mà nguyên
đơn mong muốn và có nguyện vọng u cầu Tịa án làm sáng tỏ. Đây là một trong
những nội dung rất quan trọng, là điểm mấu chốt của đơn khởi kiện. Nếu đơn khởi
kiện nêu lên một cách rõ ràng, cụ thể yêu cầu của nguyên đơn là bao nhiêu, sẽ là
tiền đề quan trọng, tạo thuận lợi cho tiến trình giải quyết vụ kiện16. Tuy nhiên, yêu
cầu khởi kiện đã được người khởi kiện giao nộp đơi khi sẽ có những thiếu sót, chưa
đầy đủ và nguyên đơn họ nhận thấy nếu như để mặc khơng thay đổi hay bổ sung thì
sẽ khơng bảo vệ được quyền lợi của mình nên họ quyết định thay đổi, bổ sung yêu
cầu khởi kiện để nhằm mục đích đưa ra hết các nguyện vọng của mình.
Khi muốn đi sâu vào nghiên cứu quy định của pháp luật về thay đổi, bổ sung
Lê Thị Minh Ngọc (2019), Quyền khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Khóa
luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trang 1.
14
Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nguyễn Cơng Bình, Nxb
Cơng an Nhân dân, trang 241.
15
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nguyễn
Thị Hoài Phương, Nxb Hồng Đức, trang 349.

16
Tưởng Duy Lượng (2016), Bình luận Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Trọng tài thương mại và thực tiễn xét xử,
Nxb Tư pháp, trang 392.
13


9

yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự và để có được kết quả nghiên cứu được tốt
nhất thì trước tiên cần phải hiểu được nội dung của các từ ngữ về đề tài này như:
yêu cầu khởi kiện, thay đổi và bổ sung yêu cầu khởi kiện. Vì một khi ta khơng hiểu
được những gì cơ bản nhất, chưa có được một nền móng tốt thì kết quả của tồn bộ
q trình sẽ có thể khơng như ta mong muốn. Vậy yêu cầu khởi kiện là gì? Thay đổi
yêu cầu khởi kiện và bổ sung yêu cầu khởi kiện là gì? Các khái niệm này lần lượt sẽ
được kể đến như sau:
Thứ nhất, yêu cầu khởi kiện
Từ điển tiếng Việt của một tác giả có nêu “yêu cầu” có nghĩa là: “Nêu ra
điều gì với người nào đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng đó là việc thuộc nhiệm
vụ, trách nhiệm hoặc quyền, khả năng của người ấy”17.
Cùng với đó, sách Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học
Luật Hà Nội có định nghĩa về yêu cầu của đương sự, cụ thể được hiểu là: “Những
điều mà đương sự đưa ra, mong muốn tịa án xem xét, giải quyết”18. Có tác giả cho
rằng “yêu cầu” ở đây được hiểu là: “Quan hệ pháp luật nội dung tranh chấp giữa
các bên mà Tòa án có nhiệm vụ xem xét, được đưa ra trong đơn khởi kiện, đơn
phản tố, đơn yêu cầu độc lập và được phản ánh trong các biên bản lấy lời khai, hòa
giải tại Tòa án”19.
Đối với “khởi kiện”, “khởi” là: “Bắt đầu, mở đầu cơng việc gì”20, “kiện” là
việc: “Đưa ra tòa cho rõ lẽ phải trái”21. Như vậy, khởi kiện có thể được hiểu bước
đầu, bắt đầu cho việc u cầu Tịa án làm rõ vấn đề nào đó ra phải trái.
Một tác giả của một Khóa luận tốt nghiệp có cách hiểu về “yêu cầu khởi

kiện” như sau: “Yêu cầu khởi kiện là yêu cầu để Tòa án giải quyết các vụ án về
tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”22.
Theo tác giả, xuất phát từ mục đích chính của người khởi kiện là khi họ bắt
đầu viết đơn khởi kiện và nộp đơn khởi kiện đến cho Tịa án vì cho rằng quyền và
lợi ích hợp pháp của họ hoặc quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích cơng
cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm thì bản thân họ đã mong muốn, đặt niềm
tin vào Tòa án, tin rằng quyền và lợi ích hợp pháp này sẽ được bảo vệ.
Nên theo quan điểm cá nhân, tác giả hiểu rằng: “Yêu cầu khởi kiện là yêu
cầu mà người khởi kiện nộp đến Tòa án với mong muốn Tịa án giải quyết để bảo vệ
Hồng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, trang 1169.
Nguyễn Ngọc Hòa, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: Luật Dân sự; Luật Hơn nhân và gia đình; Luật
Tố tụng dân sự/ Trường Đại học Luật Hà Nội; Phạm Đức Bảo ... [et al.],
/>truy cập ngày 27/02/2023.
19
Trần Phương Thảo (2022), “Quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự tại Tịa án cấp sơ thẩm”,
Tạp chí Nghề Luật, số 7, trang 31.
20
Phan Thị Kim Quyên (2021), Yêu cầu khởi kiện và thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện trong tố tụng
hành chính Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trang 8.
21
Phan Thị Kim Quyên, tlđd (20), trang 8.
22
Bùi Nguyễn Anh Thư (2019), Thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự, Khóa luận
tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trang 12.
17
18


10


quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác; lợi ích cơng cộng, lợi ích của
Nhà nước khi cho rằng có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm”. Nội dung khái
niệm “Yêu cầu khởi kiện” hiểu theo cách hiểu này cho thấy được tại sao người khởi
kiện lại có u cầu khởi kiện cũng như là mục đích của việc có yêu cầu khởi kiện.
Thứ hai, thay đổi yêu cầu khởi kiện
“Thay đổi” có nghĩa là: “Đổi khác đi, trở nên khác trước”23 hoặc “Thay cái
này bằng cái khác”24. Trong tố tụng dân sự, khi người khởi kiện đã gửi u cầu
khởi kiện của mình đến cho Tịa án thì khi người khởi kiện muốn thay đổi và việc
thay đổi này phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành thì họ có thể thay đổi
u cầu khởi kiện ban đầu mà họ đã đưa ra để phù hợp, thỏa mãn với nguyện vọng
của họ. Bên cạnh đó, theo sách Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường
Đại học luật Hà Nội thì thay đổi yêu cầu là: “(Người khởi kiện) thay yêu cầu đã đưa
ra khi khởi kiện bằng yêu cầu khác”25.
Có tác giả của một Khóa luận tốt nghiệp trước đó cho rằng: “Thay đổi yêu
cầu khởi kiện là việc nguyên đơn thay một hoặc nhiều yêu cầu được thể hiện trong
đơn khởi kiện bằng một hoặc nhiều yêu cầu khác”26.
Về cách hiểu thế nào là thay đổi yêu cầu thì tác giả Dương Tấn Thanh cũng
có bình luận rằng: “Theo tác giả đương sự thay đổi yêu cầu là việc đương sự đưa ra
một yêu cầu khác với yêu cầu ban đầu của họ để Tòa án xem xét giải quyết trong
cùng vụ án. Việc thay đổi này không làm phát sinh thêm quan hệ pháp luật tranh
chấp mà chỉ là thay đổi quan hệ pháp luật tranh chấp này sang quan hệ pháp luật
tranh chấp khác”27. Ví dụ: theo đơn khởi kiện ban đầu thì người khởi kiện yêu cầu
bị đơn trả lại tài sản đã thuê do hết hạn hợp đồng nhưng vì tài sản cho th này
khơng may khơng còn nữa nên người khởi kiện thay đổi yêu cầu khởi kiện là yêu
cầu bị đơn trả lại giá trị của tài sản mà nguyên đơn cho bị đơn thuê.
Riêng tác giả, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng: “Thay đổi yêu cầu
khởi kiện là việc nguyên đơn thay một hoặc nhiều yêu cầu được thể hiện trong đơn
khởi kiện bằng một hoặc nhiều yêu cầu khác”28. Theo tác giả, cách hiểu này là phù
hợp, vì nguyên đơn có thể thay khơng chỉ một mà có thể là nhiều yêu cầu bằng một
hoặc nhiều yêu cầu khác nhưng yêu cầu được thay đổi phải là yêu cầu được thể hiện

trong đơn khởi kiện.
Thứ ba, bổ sung yêu cầu khởi kiện
Hoàng Phê, tlđd (17), trang 918.
“Tra cứu từ điển tiếng Việt”, truy cập ngày 21/2/2023.
25
Nguyễn Ngọc Hòa, “Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: Luật Dân sự; Luật Hơn nhân và gia đình; Luật
Tố tụng dân sự/ Trường Đại học Luật Hà Nội; Phạm Đức Bảo ... [et al.]”,
/>truy cập ngày 27/02/2023.
26
Bùi Nguyễn Anh Thư, tlđd (22), trang 12.
27
Dương Tấn Thanh, “Bàn về phạm vi khởi kiện và quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự theo
BLTTDS năm 2015”, truy cập ngày 14/3/2023.
28
Bùi Nguyễn Anh Thư, tlđd (22), trang 12.
23
24


11

Ta có thể hiểu “bổ sung” nghĩa là “thêm vào cho đầy đủ”29, trong đơn yêu
cầu khởi kiện thì chủ thể đã trình bày những nội dung cần thiết trước khi gửi đến
cho Tịa án nhưng đơi khi trên thực tế đơn khởi kiện đó có những thiếu sót nên
nguyên đơn cần được bổ sung, việc bổ sung sẽ giúp cho đơn khởi kiện được hồn
thiện, phù hợp hơn.
Có tác giả cho rằng: “Còn đương sự bổ sung yêu cầu là việc đương sự bổ
sung thêm yêu cầu ngoài yêu cầu ban đầu của họ và việc bổ sung yêu cầu này làm
phát sinh thêm quan hệ pháp luật tranh chấp hoặc làm tăng giá trị yêu cầu hoặc
vừa tăng thêm quan hệ pháp luật tranh chấp vừa tăng thêm giá trị yêu cầu”30. Ví dụ:

ban đầu nguyên đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng cho thuê nhà sau đó nguyên đơn
bổ sung thêm yêu cầu buộc bị đơn trả tiền vay cịn nợ. Ví dụ này thuộc trường hợp
ngun đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện nhưng việc bổ sung này làm phát sinh thêm
quan hệ pháp luật tranh chấp mới là tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.
Bên cạnh đó, tác giả của một Khóa luận tốt nghiệp trước đó cho rằng: “Bổ
sung yêu cầu khởi kiện là việc nguyên đơn thêm một hoặc một số yêu cầu khác vào
đơn khởi kiện mà nguyên đơn cho rằng có như vậy mới thể hiện đầy đủ nguyện
vọng và mong muốn của mình khi khởi kiện vụ án dân sự”31.
Quan điểm cá nhân tác giả: “Bổ sung yêu cầu khởi kiện là việc người khởi
kiện vẫn giữ lại yêu cầu khởi kiện ban đầu nhưng có sự thêm vào một hoặc nhiều
yêu cầu khởi kiện khác bằng hình thức luật định để làm cho yêu cầu khởi kiện ban
đầu được đúng với mong muốn, nguyện vọng của người khởi kiện”.
Tác giả dùng cụm từ “thêm vào một hoặc nhiều yêu cầu khác” sẽ giúp cho
việc hiểu được rõ ràng hơn thay vì là “một hoặc một số yêu cầu khác vào đơn khởi
kiện”, vì khi người khởi kiện có thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong trường
hợp nhất định thì họ phải làm một đơn khác nhưng hiện tại chưa có tên gọi thống
nhất cho đơn (văn bản) đó. Việc hiểu theo cách “là việc nguyên đơn thêm một hoặc
một số yêu cầu khác vào đơn khởi kiện” dễ gây nhầm lẫn là nguyên đơn nhận lại
đơn khởi kiện và thêm trực tiếp yêu cầu khác lên đơn khởi kiện đó.
Cùng với những khái niệm trên, để giúp các chủ thể phân biệt được dễ dàng
hơn thì cần phân biệt giữa thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện. Vậy thay đổi yêu
cầu khởi kiện và bổ sung yêu cầu khởi kiện giống và khác nhau như thế nào?
Trước tiên về điểm giống nhau:
Một là, thay đổi yêu cầu khởi kiện và bổ sung yêu cầu khởi kiện đều thuộc
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
Hai là, thay đổi yêu cầu khởi kiện và bổ sung yêu cầu khởi kiện đều xuất
hiện sau khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện đến Tịa án.
Hồng Phê, tlđd (17), trang 78.
Dương Tấn Thanh, “Bàn về phạm vi khởi kiện và quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự theo
BLTTDS năm 2015”, truy cập ngày 14/3/2023.

31
Bùi Nguyễn Anh Thư, tlđd (22), trang 12.
29
30


12

Ba là, thay đổi yêu cầu khởi kiện và bổ sung yêu cầu khởi kiện đều góp phần
bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.
Bốn là, thay đổi yêu cầu khởi kiện và bổ sung yêu cầu khởi kiện đều được
luật quy định một phạm vi, giới hạn nhất định, chứ không đương nhiên được chấp
nhận khi có thay đổi hay bổ sung yêu cầu khởi kiện.
Năm là, thay đổi yêu cầu khởi kiện và bổ sung yêu cầu khởi kiện đều được
bảo đảm xem xét, giải quyết bởi Tòa án.
Về điểm khác nhau:
Đối với thay đổi u cầu khởi kiện thì có nghĩa là yêu cầu khởi kiện ban đầu
được đổi khác, đổi sang một u cầu khởi kiện mới, khơng cịn như u cầu khởi
kiện ban đầu. Còn bổ sung yêu cầu khởi kiện thì nguyên đơn vẫn giữ lại yêu cầu
khởi kiện ban đầu nhưng nguyên đơn có sự thêm vào yêu cầu khởi kiện mới để làm
cho yêu cầu khởi kiện ban đầu được đúng với mong muốn, nguyện vọng của
nguyên đơn.
1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng
dân sự
*Đặc điểm:
Qua tìm hiểu thì ta có thể rút ra một số đặc điểm của việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu khởi kiện:
Thứ nhất, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện là quyền quan trọng nằm
trong quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự.
Thứ hai, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện có giới hạn, phạm vi nhất

định, không phải mọi thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đều được
chấp nhận.
Thứ ba, góp phần làm cho quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn được
bảo đảm một cách tốt nhất.
Thứ tư, việc thay đổi và bổ sung yêu cầu khởi kiện được bảo đảm thực hiện
bởi Toà án.
Thứ năm, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện chỉ có ở nguyên đơn, các
tư cách đương sự khác được thay đổi, bổ sung yêu cầu nhưng không phải là yêu cầu
khởi kiện.
*Ý nghĩa:
Là một chế định thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự, đảm bảo thực
hiện đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức, cho phép nguyên đơn được thay đổi, bổ sung
yêu cầu khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Tạo được sự linh hoạt, thuận lợi cho nguyên đơn khi có nguyện vọng muốn
thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện.


13

Bảo đảm được kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, tránh
trường hợp nguyên đơn phải khởi kiện thêm một vụ án khác, tạo sự nhanh chóng,
kịp thời.
Quyền được thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện tạo người dân có một cách
nhìn tích cực đối với Tòa án và cả các cơ quan tư pháp khác, lòng tin của người dân
dành cho Tòa án được nâng cao.
Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng dân sự thể hiện cao
tính dân chủ, đề cao nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền công dân.
1.3. Quy định của pháp luật hiện hành về thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
trong tố tụng dân sự
1.3.1. Chủ thể thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong

tố tụng dân sự
Theo quy định của BLTTDS năm 2015, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu là
quyền chung của các đương sự, được thể hiện một cách minh thị qua khoản 4 Điều
70 BLTTDS năm 2015, cụ thể đương sự có quyền “Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung
hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật này”. Theo đó, các chủ này được pháp
luật cho phép giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc cũng có thể rút u cầu của mình
theo quy định của BLTTDS năm 2015, thể hiện được sự bình đẳng của pháp luật
dành cho các đương sự.
Các đương sự đều sẽ có được cơ hội ngang nhau ở việc tiếp cận Tịa án, đưa
ra u cầu của mình đối với Tịa án, có cơ hội như nhau trong việc bảo vệ quyền, lợi
ích của mình trước Tịa án, đều phải chịu trách nhiệm pháp lý về yêu cầu của mình,
về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Vì có quyền và nghĩa vụ tố tụng ngang
nhau nên các đương sự có vị thế ngang nhau trước Tịa án32.
Trước tiên, để hiểu về chủ thể của yêu cầu khởi kiện, ta sẽ điểm qua quy định
của một số điều khoản sau:
Trước tiên là khoản 1 Điều 4 BLTTDS năm 2015 quy định: “Cơ quan, tổ
chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, u cầu
giải quyết việc dân sự tại Tịa án có thẩm quyền để u cầu Tịa án bảo vệ cơng lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”.
Và Điều 186 BLTTDS năm 2015 có quy định về quyền khởi kiện vụ án dân
sự như sau: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại
diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tịa án có
thẩm quyền để u cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Từ đó có thể thấy, chủ thể của yêu cầu khởi kiện chính là người khởi kiện
Trần Phương Thảo, “Bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự: Đề tài nghiên cứu khoa
học
cấp
trường”,
truy cập ngày 28/5/2023.

32


14

(nguyên đơn), điều đầu tiên người khởi kiện cần biết đó là khi nhận thấy quyền, lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể tự mình
thực hiện việc khởi kiện hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khởi kiện vụ án.
Xét về mặt ngun tắc thì chỉ có cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm
phạm mới có được quyền khởi kiện đến Tịa án để u cầu Tịa án bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình. Nhưng có trường hợp ngoại lệ đó là, để bảo vệ quyền hay
lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà
nước, chẳng hạn trường hợp tại khoản 1 Điều 187 BLTTDS năm 2015 thì cơ quan
quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình sẽ được quyền khởi
kiện vụ án về hơn nhân và gia đình theo quy định của Luật hơn nhân và gia đình.
Việc BLTTDS năm 2015 quy định việc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác được
quyền khởi kiện khởi kiện là hoàn tồn khơng vi phạm ngun tắc tự định đoạt của
đương sự. Bởi những đối tượng được khởi kiện để bảo vệ quyền ở đây là thuộc
nhóm yếu thế trong xã hội, đó là: trẻ em, phụ nữ, người lao động... Họ có thể bị
xâm hại quyền, lợi ích mà khơng biết việc quyền lợi của mình bị xâm hại hoặc
khơng biết khởi kiện để tự bảo vệ quyền lợi của mình. Khi đó, các cơ quan, tổ chức
sẽ đứng ra khởi kiện thay cho họ và mục đích cuối cùng là để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của những chủ thể này. Cùng với đó, để bảo đảm quyền tự định đoạt của
các chủ thể này, pháp luật cho phép họ có quyền u cầu Tịa án đình chỉ việc giải
quyết vụ án dân sự nếu như xét thấy không cần thiết phải tiếp tục giải quyết, theo
quy định tại khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.33
Về phía bị đơn, ngay từ khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm 2013 đã có quy
định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Cho nên, để tạo ra sự công bằng
cho các bên chủ thể khi tham gia tố tụng về quyền và nghĩa vụ. Khi chủ thể cho

rằng quyền và nghĩa vụ của mình bị xâm phạm thì có quyền khởi kiện chủ thể đã
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình (ngun đơn), phía bị đơn nếu nhận
thấy yêu cầu của nguyên đơn là sai sự thật thì bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản
tố để bảo vệ mình.
Theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì chủ thể của yêu cầu phản tố là bị
đơn trong vụ án dân sự cụ thể được quy định tại khoản 4 Điều 72 BLTTDS năm
2015: “Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu
của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của ngun đơn”.
Về phía người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ngoài yêu cầu khởi kiện với
chủ thể là nguyên đơn, yêu cầu phản tố với chủ thể là bị đơn thì người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan cũng có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu và đó là yêu cầu độc
lập, cụ thể được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 73 BLTTDS năm 2015 như sau:
“Có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên
Nguyễn Thị Tuyết, “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực
hiện
tại
các
Toà
án
tại
tỉnh
Bắc
Ninh”,
truy cập ngày 28/5/2023.
33


15

bị đơn”.

Tóm lại, theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì chủ thể của u cầu khởi
kiện chính là ngun đơn, một khi nguyên đơn gửi yêu cầu khởi kiện đến Tịa án thì
ngun đơn vẫn có thể thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện này và việc thay đổi, bổ
sung yêu cầu khởi kiện này được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Để tìm hiểu sâu hơn ta có thể liên hệ đến pháp luật của quốc gia khác, chẳng
hạn như tại khoản 1 Điều 39 BLTTDS Nga năm 2003 có quy định: “Nguyên đơn có
quyền thay đổi căn cứ, đối tượng yêu cầu, tăng hoặc giảm số tiền khởi kiện hoặc từ
chối yêu cầu khởi kiện, bị đơn có quyền ghi nhận yêu cầu bồi thường, và các bên có
thể kết thúc vụ việc bằng hịa giải”34.
Tiếp đó, tại quy định 19.1 Quy tắc thủ tục tố tụng dân sự đồng nhất năm
2005 của New South Wales quy định rằng: “Nguyên đơn có thể... sửa đổi đơn kiện
một lần trong vòng 28 ngày kể từ ngày đơn kiện được nộp, nhưng trừ khi tòa án ra
lệnh khác, không được sửa đổi đơn kiện sau ngày xét xử đã được ấn định”35.
Khoản 1 Điều 143 BLTTDS Nhật Bản năm 1996 cũng có quy định: “Miễn là
khơng làm thay đổi cơ bản yêu cầu, nguyên đơn có thể sửa đổi yêu cầu hoặc tuyên
bố của các yêu cầu cho đến khi các tranh luận bằng lời nói đã đi đến kết luận; tuy
nhiên, với điều kiện là điều này khơng áp dụng nếu làm như vậy sẽ trì hỗn đáng kể
q trình tố tụng”36.
Theo đó, BLTTDS Nga năm 2003, Quy tắc thủ tục tố tụng dân sự đồng nhất
năm 2005 của New South Wales, BLTTDS Nhật Bản năm 1996 cũng xác định chủ
thể của việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện là nguyên đơn.
Có thể nói, BLTTDS năm 2015 của nước ta khá tương đồng ở quy định này
với quy định của các quốc gia kể trên, đều xác định chủ thể của việc thay đổi, bổ
sung yêu cầu khởi kiện là nguyên đơn. Theo tác giả, đây là một quy định phù hợp,
bởi lẽ nguyên đơn là người khởi nguồn cho quá trình tố tụng bằng cách nộp đơn
Khoản 1 và khoản 3 Điều 39 BLTTDS Nga năm 2003 (Bản tiếng Anh, nguồn:
“1. The plaintiff has the right to
change the grounds or the object of the claim, to increase or reduce the amount of the lawsuit or to refuse the
claim, the defendant has the right to acknowledge the claim, and the parties may end the case by amicable
settlement.

...
3. If the ground or object of the claim is changed, and if the amount of the lawsuit is increased, the course
of the time term for the consideration of the case stipulated in the present Code shall be started as from the
day of performing the corresponding procedural action.”.
35
Tại quy định 19.1 Quy tắc thủ tục tố tụng dân sự đồng nhất năm 2005 của New South Wales (Bản tiếng
Anh, nguồn: “A plaintiff may...
amend a statement of claim once within 28 days after the date on which it was filed, but, unless the court
otherwise orders, may not amend it after a date has been fixed for trial”.
36
Khoản 1, 2, 3 và 4 BLTTDS Nhật Bản năm 1996 (Bản tiếng Anh, nguồn:
/>“(1) As long as it does not fundamentally change the claim, the plaintiff may amend the claim or the
statement of the claims until such time as oral arguments have reached a conclusion; provided, however, that
this does not apply if doing so would substantially delay the litigation proceedings.”
34


16

khởi kiện đến Tịa án, khơng có việc nộp đơn này sẽ khơng có các giai đoạn tiếp
theo. Và chính vì nguyên đơn là người nộp đơn khởi kiện nên chủ thể của việc thay
đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện khơng ai có thể phù hợp hơn là ngun đơn.
1.3.2. Thời điểm và điều kiện thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu
khởi kiện trong tố tụng dân sự
Trước tiên ta thấy, pháp luật cho phép nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu
khởi kiện nhưng liệu rằng có phải bất kỳ thời điểm nào việc thay đổi, bổ sung yêu
cầu khởi kiện cũng có thể diễn ra?
Theo như quy định của BLTTDS năm 2015 thì ngay tại khoản 2 Điều 5
BLTTDS năm 2015 đã quy định trong q trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự
có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách

tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Có quan
điểm cho rằng: “Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự chỉ có thể diễn ra ở
thủ tục sở thẩm, bắt đầu từ (i) khởi kiện và thụ lý vụ án, tiếp đến (ii) hòa giải và
chuẩn bị xét xử sơ thẩm, và (iii) phiên tòa sơ thẩm. Quan điểm này dường như hợp
lý bởi lẽ nếu việc thay đổi yêu cầu được thực hiện ở giai đoạn phúc thẩm hoặc giám
đốc thẩm cho dù việc thay đổi do không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban
đầu thì sẽ tước đi quyền kháng cáo của đương sự và như vậy không bảo đảm
nguyên tắc hai cấp xét xử. Ngoài ra, quan điểm này cũng được ủng hộ bởi việc chỉ
có duy nhất quy định tại khoản 1 Điều 244 về điều kiện thay đổi, bổ sung yêu cầu
của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm”37. Tác giả đồng tình với quan điểm này cũng
như qua nghiên cứu quy định của pháp luật và các Bản án về thay đổi, bổ sung yêu
cầu khởi kiện tác giả nhận thấy quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện hầu như
cũng chỉ diễn ra ở thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Chẳng hạn như trường hợp ở
các Bản án sau:
Bản án số 21/2021/DS - PT của TAND tỉnh Hậu Giang ngày 24/02/2021 về
“V/v tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” có đoạn: “Tại phiên tịa sơ
thẩm, ơng N thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu công ty H có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho ơng”.
Bản án số 16/2021/DS - PT của TAND tỉnh Lào Cai ngày 23/6/2021 về “V/v
tranh chấp quyền sử dụng đất” có đoạn: “Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện
về diện tích đất tranh chấp của anh V, chị D thực hiện tại phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng và hịa giải, việc thay đổi này khơng vượt quá
phạm vi khởi kiện ban đầu”.
Bản án số 02/2020/KDTM - ST của TAND thị xã Ngã Năm tỉnh Sóc Trăng
ngày 02/6/2020 về “V/v tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” có đoạn: “Tại phiên
tịa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thay đổi và rút lại một phần nội dung
đơn yêu cầu khởi kiện”.
Lưu Tiến Dũng và Đặng Thanh Hoa (2020), Lý giải một số vấn đề của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 từ
thực tiễn xét xử, Nxb Hồng Đức, trang 36.
37



17

Nên có thể nói, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của đương sự chỉ có
thể diễn ra ở thủ tục sở thẩm, bắt đầu từ khởi kiện và thụ lý vụ án, tiếp đến là hòa
giải và chuẩn bị xét xử sơ thẩm, và cuối cùng là tại phiên tòa sơ thẩm.
Khi đi vào nghiên cứu quy định của pháp luật về thay đổi bổ sung yêu cầu
khởi kiện trong tố tụng dân sự trong phạm vi giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ
thẩm giải quyết vụ án dân sự thì tác giả chia ra hai giai đoạn để phân tích và nghiên
cứu, đó là: trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai
chứng cứ và hịa giải; tại và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng
khai chứng cứ và hịa giải.
Sở dĩ tác giả chia thành hai giai đoạn như trên là vì xuất phát từ tầm quan
trọng của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa
giải cho quá trình giải giải quyết vụ án vì phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận
và công khai chứng cứ sẽ là nơi để các bên trong vụ án trao đổi, bổ sung tài liệu,
chứng cứ phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án được thuận lợi, khách quan và
cơng bằng; cùng với đó, các bên cịn được trao đổi ý kiến và xác nhận những vấn đề
đã thống nhất từ trước, những vấn đề chưa thống nhất để u cầu Tịa án giải quyết;
trình bày ý kiến về những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu tịa án giải quyết; trình
bày ý kiến về những vấn đề cần thiết khác38. Và cũng như việc dựa trên Văn bản
giải đáp số 01/2017/GĐ - TANDTC của TANDTC ngày 07/4/2017 về một số vấn
đề nghiệp vụ trong đó có nội dung về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong
tố tụng dân sự.
Giai đoạn đầu: thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
Trước tiên ta thấy quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong tố tụng
dân sự là một quyền quan trọng mà BLTTDS năm 2015 đã quy định, cùng với đó
quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện là quyền nằm trong quyền quyết định và

tự định đoạt của đương sự, cụ thể khoản 2 Điều 5 BLTTDS năm 2015 có quy định
trong q trình vụ việc dân sự được Tịa án giải quyết thì đương sự có quyền chấm
dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc là thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện,
không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Theo đó, Điều 5
BLTTDS năm 2015 đã khẳng định và ghi nhận một điều rằng đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi u cầu của mình đã đưa ra lúc ban đầu trong q trình Tịa án
giải quyết vụ việc dân sự. Bên cạnh đó, quay trở lại khoản 2 Điều 5 BLTTDS năm
2004 trước đó cũng đã ghi nhận là trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các
đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với
nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Qua đó có thể
thấy, đây là một quy định phù hợp, khi BLTTDS năm 2015 ra đời, quy định này vẫn
được giữ lại, có sửa đổi cho phù hợp và vẫn mang giá trị trong thực tiễn áp dụng
trên thực tế.
Nguyễn Hữu Lâm (2018), Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ trong tố tụng
dân sự, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trang 40.
38


18

Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2015 do tác giả Trần Anh Tuấn chủ biên, có viết: “Nguyên
đơn là một đương sự trong vụ án dân sự nên trước hết nguyên đơn phải có đầy đủ
các quyền, nghĩa vụ chung đó, ngun đơn cịn có quyền, nghĩa vụ riêng mà các tư
cách đương sự khác không có như quyền thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện”39.
Khoản 4 Điều 70 BLTTDS năm 2015 quy định đương sự có quyền: “Giữ
nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật này”.
Cùng với đó, khoản 2 Điều 71 BLTTDS năm 2015 đã quy định cụ thể về
quyền của nguyên đơn, trong số các quyền này có quyền “Thay đổi nội dung yêu
cầu khởi kiện”. Đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khơng có

quyền này, theo BLTTDS năm 2015 thì bị đơn chỉ có các quyền, nghĩa vụ sau: đầu
tiên là các quyền, nghĩa vụ chung của đương sự quy định tại Điều 70 của Bộ luật
này. Tiếp đó là các quyền như: được Tịa án thơng báo về việc bị khởi kiện; chấp
nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc tồn bộ u cầu của ngun đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên
đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa
vụ của nguyên đơn. Đối với u cầu phản tố thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của
nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này; đưa ra yêu cầu độc lập đối với
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc
giải quyết vụ án. Đối với yêu cầu độc lập thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên
đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này; trường hợp yêu cầu phản tố hoặc u cầu
độc lập khơng được Tịa án chấp nhận để giải quyết trong cùng vụ án thì bị đơn có
quyền khởi kiện vụ án khác.
Cịn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng dân sự thì
được BLTTDS năm 2015 quy định có các quyền, nghĩa vụ sau: đầu tiên cũng là các
quyền, nghĩa vụ chung quy định tại Điều 70 của BLTTDS năm 2015; kế đó, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với
bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn. Nếu trong trường hợp người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc
giải quyết vụ án thì có quyền, nghĩa vụ của ngun đơn quy định tại Điều 71 của
BLTTDS năm 2015. Trường hợp yêu cầu độc lập khơng được Tịa án chấp nhận để
giải quyết trong cùng vụ án thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền
khởi kiện vụ án khác; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng
với bên nguyên đơn hoặc chỉ có quyền lợi thì có quyền, nghĩa vụ của ngun đơn
quy định tại Điều 71 của BLTTDS năm 2015; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan nếu tham gia tố tụng với bên bị đơn hoặc chỉ có nghĩa vụ thì có quyền, nghĩa
vụ của bị đơn quy định tại Điều 72 của BLTTDS năm 2015.
Ở phần quy định của BLTTDS năm 2015 về các quyền và nghĩa vụ chung
của đương sự ta cũng có thể liên hệ đến pháp luật của nước Nga, cụ thể qua
BLTTDS Nga năm 2003, BLTTDS này không quy định việc nguyên đơn thay đổi,

39

Trần Anh Tuấn, tlđd (2), trang 187.


×