Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Quyền khởi kiện vụ án dân sự tại tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.63 MB, 150 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐÀO TẤN ANH

QUYỀN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TỊA ÁN

KHĨA LUẬN CHUN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 – 2023


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐÀO TẤN ANH

QUYỀN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THẠC SĨ PHẠM THỊ THÚY

TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 – 2023


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Đào Tấn Anh – Sinh viên lớp 103-DS44A Nhóm 1, xin cam đoan
rằng Khóa luận tốt nghiệp là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học tận tình của Thạc sĩ Phạm Thị Thúy – Khoa Luật Dân
sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Việc nghiên cứu đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Những phân tích, so sánh, bình luận và kiến nghị trong cơng trình là kết quả của


q trình tiếp cận, học hỏi, đầu tư nghiên cứu một cách nghiêm túc của tác giả.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả Khóa luận

Đào Tấn Anh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

1

BLDS

Bộ luật Dân sự

2

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2019.

3

BLLĐ


Bộ luật Lao động năm 2019

4

VADS

Vụ án dân sự

5

HNGĐ

Hơn nhân và gia đình

6

TAND

Tịa án nhân dân

7

HĐTP TANDTC

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

8

TTDS


Tố tụng dân sự

9

TP. HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

10

Nxb

Nhà xuất bản

11

Nghị quyết số
Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017
04/2017/NQ-HĐTP của HĐTP TADTC hướng dẫn một số quy định tại
khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số
92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp
đơn khởi kiện lại vụ án


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ...........................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu đề tài ..................................................................................5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................6
6. Bố cục Khóa luận ..................................................................................................7
CHƯƠNG 1. CHỦ THỂ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN ..............8
1.1 Khái niệm chủ thể khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án ....................................8
1.2 Nội dung về chủ thể khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án ................................11
1.2.1 Chủ thể thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự nhằm mục đích tự bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình ....................................................................................12
1.2.2 Chủ thể thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự nhằm mục đích bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác; bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng.29
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................35
CHƯƠNG 2. ĐIỀU KIỆN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN .........36
2.1 Khái niệm điều kiện khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án ...............................36
2.2 Nội dung về điều kiện khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án.............................37
2.2.1 Điều kiện về chủ thể .........................................................................................39
2.2.2 Điều kiện về thẩm quyền của Tòa án ...............................................................43
2.2.3 Điều kiện “sự việc chưa được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tịa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền” .......................................................................................................................45
2.2.4 Điều kiện tiền tố tụng .......................................................................................54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................62
KẾT LUẬN ..............................................................................................................63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................64
PHỤ LỤC .................................................................................................................71


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án là quyền được xây dựng trên cơ
sở quyền con người, quyền công dân. Tại Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của
Liên Hợp Quốc ngày 10 tháng 12 năm 1948 đã ghi nhận, ai cũng có quyền u
cầu Tịa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi phạm
những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận (Điều 8). Xuất phát
từ nội dung của Tuyên ngơn này, quyền khởi kiện u cầu Tịa án bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, lợi ích cơng cộng, lợi ích của quốc
gia là một quyền cơ bản. Từ đó, đặt ra trách nhiệm cho Nhà nước trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật Tố tụng dân sự có liên quan đến quyền khởi kiện vụ án
dân sự tại Tòa án.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa
án là quyền được ghi nhận từ rất sớm từ năm 1945 cho đến nay. Việc thừa nhận
quyền này đã tạo nên hành lang pháp lý trong việc yêu cầu Tịa án bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể cho rằng “mình” bị xâm phạm quyền hoặc có
tranh chấp. Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ
pháp luật dân sự (theo nghĩa rộng). Trong lĩnh vực dân sự, tranh chấp dân sự xảy
ra trong đời sống là một yếu tố khách quan mang tính quy luật, do đó cần phải có
cơ chế để giải quyết các tranh chấp dân sự phát sinh trên thực tế1. Biết rằng quan
hệ dân sự được hình thành dựa trên quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của
cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do
ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm. Khi ghi nhận quyền khởi kiện vụ
án dân sự tại Tòa án đã và đang góp phần tạo nên sự ổn định trong về xã hội, đảm
bảo các quan hệ xã hội không bị xâm phạm, duy trì trật tự ổn định của các quan
hệ dân sự nói chung. Đồng thời, khi quan hệ dân sự được đảm bảo và duy trì, từ
đó các quan hệ dân sự ngày các phát triển đảm bảo sự phát triển kinh tế của xã
hội. Như tác giả Nguyễn Huy Đẩu từng khẳng định “một tố tụng thiết lập hồn bị
là một sự bảo chứng cho hịa bình xã hội”2.

Vũ Hoàng Anh (2017), Quyền của nguyên đơn trong Tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 14.

2
Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật Dân sự tố tụng Việt Nam, Xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư pháp, tr.
07.
1


2

Tuy nhiên, hiện nay các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
liên quan đến quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án bộc lộ một số hạn chế nhất
định. Đơn cử như vấn đề chủ thể khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án, Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 chưa định cụ thể một số vấn đề như “ủy quyền khởi kiện
vụ án dân sự của cá nhân”, “xu hướng khởi kiện tập thể vụ án dân sự tại Tòa án”,
hay vấn đề về điều kiện khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án, Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 phát sinh một số bất cập có liên quan đến “vấn đề về điều kiện về sự
việc tranh chấp chưa được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tịa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền”, “ vấn đề liên quan đến điều kiện về nội dung”,…
Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định pháp luật về quyền khởi kiện vụ
án dân sự tại Tòa án trong Tố tụng dân sự dưới cả góc độ pháp lý lẫn thực tiễn áp
dụng thông qua chủ thể khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án và điều kiện khởi kiện
vụ án dân sự tại Tòa án ln là vấn đề cần thiết. Từ đó, góp phần nêu ra những bất
cập còn tồn đọng, và đưa ra các kiến nghị pháp lý nhằm hoàn thiện, bảo đảm tốt
hơn quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án của các trong Tố tụng dân sự nói
riêng và trong hoạt động tư pháp nói chung.
Xuất phát từ những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài Khóa luận tốt nghiệp
“Quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án” để nghiên cứu làm rõ những vấn đề
về lý luận, những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định về quyền khởi
kiện vụ án dân sự tại Tịa án trong Tố tụng dân sự, từ đó đề xuất kiến nghị mang
tính hồn thiện cho q trình sửa đổi và bổ sung pháp luật hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu
Quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án trong Tố tụng dân sự đã được
nhắc đến trong một số cơng trình nghiên cứu dưới khía cạnh là một vấn đề của
cơng trình nghiên cứu đó hoặc có một số cơng trình lựa chọn một hoặc một số vấn
đề cấu thành nên nội hàm quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án làm đối tượng
nghiên cứu. Cụ thể:
Các giáo trình, sách chuyên khảo
Thứ nhất, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình
Luật Tố tụng dân sự; Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Luật Tố
tụng dân sự Việt Nam; Trường Đại học Luật – Đại học Huế (Đoàn Đức Lương chủ
biên) (2013), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam: Đây được xem là những
cơng trình nghiên cứu cung cấp những kiến thức cơ bản, nền tảng cho sinh viên,


3

đồng thời giúp tác giả nhận diện những vấn đề cơ bản của Bộ luật Tố tụng dân sự,
mặc dù, các cơng trình kể trên khơng đề cập trực tiếp đến quyền khởi kiện vụ án
dân sự tại Tòa án.
Thứ hai, Nguyễn Thị Hồi Phương (Chủ biên) (2016), Bình luận những
điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Cuốn sách này đã đưa ta tổng
quan được điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 so với quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011. Từ đó, các tác giả
đã bình luận vai trị của những điểm mới kể trên, thể hiện được sự cần thiết khi
sửa đổi và ban hành bộ luật mới, thay thế. Đồng thời, sách này có một chuyên đề
với hàm lượng khoa học như một bài viết “tạp chí” đề cập trực tiếp đến quyền
khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án. Đây được xem là những tiền đề, giúp tác giả
nhận biết một số vấn đề cơ bản về quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án.
Thứ ba, Đặng Thanh Hoa (Chủ biên) (2020), Pháp luật Tố tụng dân sự
(Phần thủ tục giải quyết vụ án dân sự) - Tình huống và phân tích: Một vấn đề

được cơng trình nghiên cứu, đề cập đến chính là vấn đề cá nhân ủy quyền khởi
kiện cho cá nhân khác, các tác giả chỉ ra những quan điểm trái chiều xoay quanh
về vấn đề này.
Thứ tư, Nguyễn Văn Tiến (2021), Sách tình huống Luật Tố tụng dân sự
(Bình luận bản án): Cơng trình nghiên cứu khá tồn diện về các vấn đề pháp lý
của pháp luật Tố tụng dân sự hiện nay. Các tác giả đã chia thành các chủ đề và
bình luận quy định pháp luật Tố tụng dân sự dưới góc độ bình luận bản án của
Tịa án.
Thứ năm, Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật Dân sự tố tụng Việt Nam; Vũ Văn
Mẫu (1961), Dân luật Khái luận; Châu Tu Phát (1973), Luật Dân sự tố tụng lược
giải: Đây là những cơng trình nghiên cứu thời kỳ pháp luật Việt Nam Cộng hịa,
tuy nhiên những cơng trình này đã cung cấp được những cách hiểu và bản chất
của “tố quyền” – một thuật ngữ được các học giả đánh giá rằng nó bao hàm cả
thuật ngữ “quyền khởi kiện”.
Các Luận án, Luận văn
Thứ nhất, Nguyễn Thị Hương (2019), Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội: Luận án này được xem là công nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề khởi
kiện và thụ lý vụ án dân sự, chính vì thế tác giả khơng tập trung phân tích dưới
góc độ quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án.


4

Thứ hai, Vũ Hoàng Anh (2017), Quyền của nguyên đơn trong Tố tụng dân
sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội: Đây được
xem là cơng nghiên cứu có tính liên hệ với Khóa luận tốt nghiệp của tác giả. Luận
văn này tập trung nghiên cứu các quyền của nguyên đơn và một trong những
quyền được tác giả Vũ Hoàng Anh đề cập là quyền khởi kiện. Tương tự như vậy,
cơng trình đã tạo nền tảng, cách tiếp cận cơ bản làm tiền đề cho hoạt động nghiên
cứu của tác giả.

Thứ ba, Lê Thị Thu Thủy (2017), Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi
kiện vụ án dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội: Tác giả đã nếu được một số vấn đề có liên quan
đến quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án, đồng thời cách tiếp cận của tác giả
theo “chiều dọc” của vấn đề. Những kết quả nghiên cứu của tác giả cũng là tiền
đề giúp tác giả triển khai Khóa luận một cách đầy đủ hơn.
Thứ tư, Trần Thị Lượt (2014), Khởi kiện vụ án dân sự, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội: Cơng trình đề cập đến một số vấn đề liên
quan đến khởi kiện vụ án dân sự, từ đó đề cập đến điều kiện khởi kiện vụ án dân
sự. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004, sửa đổi bổ sung năm 2011.
Các bài viết, tạp chí chuyên ngành
Thứ nhất, Nguyễn Văn Tiến (2022), Bàn về ủy quyền khởi kiện trong Tố
tụng dân sự, Tạp chí Tịa án nhân dân (điện tử): Bài viết được tác giả đề cập và
phân tích quy định của pháp luật có liên quan đến vấn đề cá nhân ủy quyền khởi
kiện vụ án dân sự tại Tòa án cho cá nhân khác, từ đó đưa ra nhận định pháp lý liên
quan đến vấn đề này.
Thứ hai, Zhang Weiping, Phối hợp, liên thông giữa việc thi hành Bộ luật
Dân sự và Luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Luật Trung Quốc và nước ngoài (điện tử),
Trường Đại học Bắc Kinh; Vũ Hoàng Anh (2018), Mối liên hệ giữa pháp luật Tố
tụng dân sự và pháp luật dân sự về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Tạp chí
Khoa học kiểm sát, số 02 (22): Đây là những cơng trình chỉ ra mối quan hệ giữa
pháp luật Tố tụng dân sự và pháp luật dân sự, và là một trong những đặc điểm mà
tác giả khai thác trong Khóa luận tốt nghiệp.
Thứ ba, Suharyansyah - Subianta Mandala (2022), Law Enforcement
Against Perpetrators of Environmental Destruction Based on the Principle of
Direct Responsibility in Class Action Civil Lawsuits, Proceedings of the 2nd


5


International Conference on Law, Social Science, Economics, and Education,
ICLSSEE 2022; Phan Thị Thanh Thủy (2018), Kiện tập thể trong tranh chấp tiêu
dùng ở một số nước Asean và gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 01; Nguyễn Minh Thư và Nguyễn Nguyệt Linh (2021), Khởi kiện tập thể yêu
cầu doanh nghiệp bồi thường ô nhiễm môi trường theo pháp luật Pháp, Hoa Kỳ
và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 8; Đây được xem là những
cơng trình nghiên cứu tập trung về vấn đề khởi kiện tập thể, các tác giả đã chỉ ra
vai trò quan trọng của khởi kiện tập thể hiện nay.
Thứ tư, Nguyễn Thị Thu Hà - Vũ Hoàng Anh (2020), Nguyên tắc quyền
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 13; Vũ Hồng Anh (2021), Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
theo pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 01;…
đây là những cơng trình nghiên cứu quy định của pháp luật và kiến nghị hoàn
thiện một số khía cạnh có trong bài nghiên cứu Khóa luận của tác giả.
Như vậy, có thể nói, quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tịa án khơng phải
là một vấn đề mới, tuy nhiên, mỗi cơng trình nghiên cứu lựa chọn những khía
cạnh khác nhau, và tập trung vào một hoặc một số vấn đề của quyền khởi kiện vụ
án dân sự tại Tịa án.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Khóa luận tốt nghiệp “Quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án” của tác
giả được thực hiện với mục đích làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến quyền
khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án cũng như phân tích các vướng mắc, bất cập
trong thực tiễn áp dụng các quy định này. Thông qua việc phân tích, đánh giá các
vấn đề lý luận giúp tác giả phát hiện ra những mâu thuẫn giữa thực tiễn và quy
định pháp luật cũng như những điểm còn hạn chế, chưa hợp lý trong các quy định
của pháp luật Tố tụng dân sự về quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tịa án. Từ đó,
tạo cơ sở để tác giả đưa ra những đề xuất, kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật
về quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Về đối tượng nghiên cứu
Khi tiếp cận quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án hiện nay, có hai cách
tiếp cận khá phổ biến được các nhà nghiên cứu thể hiện3. Trong phạm vi bài khóa
3

Có thể tham khảo một số bài nghiên cứu:


6

luận này, tác giả tiếp cận quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án theo nghĩa
hẹp4. Bởi lẽ, xuất phát từ dung lượng bài Khóa luận và sau khi tìm hiểu quyền này
theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp có thể nhận thấy, các quan điểm hiện nay khơng đối
lập với nhau về nội dung mà chỉ khác nhau ở góc độ tiếp cận về chủ thể, các
phương thức thực hiện quyền nhằm đảm bảo quyền bình đẳng giữa các chủ thể
tham gia vào quá trình Tố tụng dân sự. Đồng thời, theo quan điểm của tác giả,
việc thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án là tiền đề để các chủ thể
có liên quan thực hiện các quyền cịn lại. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của Khóa
luận là quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tịa án được giới hạn ở góc độ người
khởi kiện, thực hiện quyền của mình thơng qua hành vi “khởi kiện”.
Về phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi Khóa luận của mình, tác giả tập trung nghiên cứu đối tượng
quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án thông qua chủ thể khởi kiện vụ án dân sự
và điều kiện khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án theo các quy định pháp luật Việt
Nam hiện hành, cụ thể là Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản pháp
luật liên quan. Bên cạnh đó, tác giả cịn phân tích, so sánh đối chiếu với các quy
định pháp luật Tố tụng dân sự của một số quốc gia khác như Hàn Quốc, Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa, Liên Bang Nga để làm rõ đối tượng nghiên cứu của đề tài
và đưa ra các kiến nghị dựa trên sự tham khảo có chọn lọc.
5. Phương pháp nghiên cứu

Vì tác giả tiếp cận đề tài Khóa luận theo từng vấn đề, nên ở mỗi chương
tác giả đều sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử dụng xuyên
suốt quá trình nghiên cứu ở các chương. Phân tích hướng đến chia nhỏ, xem xét
đối tượng cần nghiên cứu dưới các góc độ văn bản, quan điểm tác giả, kinh nghiệm
(1) Lê Thị Thu Thủy (2017), Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện vụ án dân sự theo Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
(2) Trần Đức Thành (2011), Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong Tố tụng dân sự Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
4

Quyền khởi kiện VADS tại Tòa án được tiếp cận theo nghĩa hẹp được hiểu là quyền của người khởi kiện.

Trong khi đó, quyền khởi kiện VADS tại Tòa án được tiếp cận theo nghĩa rộng, ngồi quyền của người
khởi kiện cịn bao gồm: quyền yêu cầu phản tố (đối với nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập) và quyền yêu cầu độc lập (đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) của
bị đơn và quyền đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.


7

nước ngồi. Sau khi phân tích các tài liệu thơng tin, tác giả đưa ra quan điểm của
mình, kiến nghị và đề xuất hồn thiện pháp luật có liên quan ở mỗi chương của
Khóa luận.
Phương pháp bình luận được áp dụng chủ yếu để nghiên cứu các vấn đề
thực tiễn đặc biệt là các quyết định của Tòa án khi áp dụng các quy định pháp luật
liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
Ngoài ra, phương pháp so sánh, cụ thể là tác giả sử dụng phương pháp so
sánh các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngồi từ đó rút ra
những điểm mới, tiến bộ, là cơ sở để Việt Nam học tập, tiếp thu, hoàn thiện pháp

luật.
6. Bố cục Khóa luận
Ngồi Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục thì
nội dung nghiên cứu Khóa luận chia làm hai chương:
Chương 1. Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án.
Chương 2. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án.


8

CHƯƠNG 1
CHỦ THỂ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN
1.1 Khái niệm chủ thể khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án
Hiện nay, khi đề cập đến quyền khởi kiện VADS tại Tịa án, thì khơng thể
khơng đề cập đến chủ thể khởi kiện VADS tại Tòa án. Đầu tiên cần khái quát sơ
lược về cách hiểu quyền khởi kiện VADS tại Tòa án. Trong cổ luật Việt Nam,
quyền khởi kiện được xem là “tố quyền5” nhưng hiện nay dưới góc độ nghiên cứu
thì hầu hết các học giả đều sử dụng đến thuật ngữ “quyền khởi kiện”. Tuy nhiên,
xét về bản chất thì thuật ngữ “quyền khởi kiện” dường như không đủ rộng để lột
tả được bản chất của tố quyền vì về thực chất thì “khởi kiện” chỉ là bắt đầu việc
kiện để bảo vệ quyền lợi mà thơi6.
Trong phạm vi Khóa luận, quyền khởi kiện VADS tại Tòa án được hiểu là
khả năng mà ở đó cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi là chủ thể) thực hiện
thông qua phương thức khởi kiện, yêu cầu giải quyết các tranh chấp về dân sự,
HNGĐ, kinh doanh thương mại, lao động (quan hệ pháp luật dân sự nói chung)
được Tịa án nhân dân có thẩm quyền thụ lý, giải quyết theo quy định của pháp
luật TTDS nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp7.
5

“Tố quyền có thể được định nghĩa như một phương cách luật định cho phép mỗi người cầu viện đến công


lý xin xác nhận hay che chở quyền lợi của mình” (Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật Dân sự tố tụng Việt Nam,
Xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư pháp, tr. 36). Người ta coi “tố quyền như một quyền lợi được diễn dịch
ra trước công lý, người có quyền gửi một đơn khởi kiện đến thẳng Tịa án để yêu cầu công nhận và bảo vệ
quyền lợi cho mình, trong đó người đứng đầu đơn là ngun đơn và người đối lập là bị đơn” (Vũ Văn Mẫu
(1961), Dân luật Khái luận, Bộ Giáo dục quốc gia xuất bản, tr. 368), hoặc có thể định nghĩa “tố quyền là
một phương cách, một đường lối luật định mà một người phải áp dụng, phải theo để yêu cầu Tịa án nhìn
nhận và nếu cần để bảo vệ một quyền lợi cho mình” (Châu Tu Phát (1973), Luật Dân sự tố tụng lược giải,
Nxb. Khai Trí, tr. 17). Đồng thời, “tố quyền” ở đây được hiểu là quyền kiện hoặc quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết tranh chấp (Nguyễn Thị Hương (2020), Khởi kiện và Thụ lý vụ án dân sự - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 28.). Trước đây, cổ luật Việt Nam
gọi là “tố quyền” thì hiện nay khái niệm này khơng cịn thơng dụng mà thay vào đó chính là khái niệm
“quyền khởi kiện VADS tại Tòa án”.
6
Trần Anh Tuấn (2019), Tố quyền hay quyền khởi kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự - Khoa
pháp Luật Dân sự (2019), Hội thảo Thủ tục sơ thẩm vụ án dân sự theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội, tr. 01.
7
Khái niệm này được tác giả phân tích như sau:
Để đưa ra được khái niệm “quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tịa án” hồn chỉnh nhất, cần phân
tách thành các thuật ngữ “quyền khởi kiện”, “VADS” và “Tòa án”.


9

Từ khái niệm trên, chúng ta nhận thấy được một số đặc điểm của quyền
này bao gồm: (i) Quyền khởi kiện VADS tại Tòa án là quyền được xây dựng trên
cơ sở quyền con người; (ii) Quyền khởi kiện VADS tại Tòa án thể hiện mối quan
hệ giữa pháp luật hình thức và pháp luật nội dung; (iii) Quyền khởi kiện VADS
tại Tòa án hiện nay là quyền được tiếp cận theo nội hàm rộng và nội hàm hẹp; (iv)

Quyền khởi kiện VADS tại Tòa án là quyền được thực hiện theo thủ tục TTDS và

Dưới góc độ pháp luật thực định, cho đến hiện nay vẫn chưa có một khái niệm hồn chỉnh về
VADS. Dưới góc độ nghiên cứu giáo trình trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh định nghĩa “VADS
phát sinh tại Tòa án nhân dân trong trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu giải quyết các
tranh chấp về dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động” - Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, tr. 18 – 19.
Trong các thuật ngữ trên, thuật ngữ “quyền khởi kiện” là thuật ngữ quan trọng cần làm sáng tỏ
trong phạm vi Khóa luận này. Khi tiếp cận dưới góc độ ngữ nghĩa, có thể thấy thuật ngữ “quyền khởi kiện”
cũng đã được đề cập ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Dưới góc độ ngơn ngữ học, quyền được hiểu đơn giản là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận
cho được hưởng, được làm, được địi hỏi (Thành Yến (2021), Từ điển tiếng Việt thơng dụng, Nxb. Dân trí).
Dưới góc độ khoa học pháp lý, quyền là điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân,
tổ chức để theo đó cá nhân, tổ chức được hưởng, được làm, được địi hỏi mà khơng ai ngăn cản, hạn chế
(Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, tr. 648.). Như vậy, từ
những cách tiếp cận trên có thể khái quát: Quyền là khả năng mà pháp luật ghi nhận và đảm bảo cho các
chủ thể thực hiện khi đáp ứng các điều kiện nhất định.
Tiếp theo, thuật ngữ “khởi kiện” cũng được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ ngôn
ngữ học, “khởi” là bắt đầu, mở đầu một cơng việc nào đó (Thành Yến (2021), Từ điển tiếng Việt thơng
dụng, Nxb. Dân trí, tr. 311.), “kiện” là kiện cáo (Thành Yến (2021), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb.
Dân trí, tr. 318.). Vậy, ở góc độ này, khởi kiện được hiểu là bắt đầu, mở đầu cho việc kiện cáo. Trong khi
đó, dưới góc độ nghiên cứu, thuật ngữ này được định nghĩa khá đầy đủ, cụ thể: Khởi kiện là hành vi biểu
đạt quyền tự định đoạt của đương sự, u cầu Tịa án buộc người có hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi
vi phạm và thực hiện nghĩa vụ dân sự (Nguyễn Văn Tiến (2022), Bàn về ủy quyền khởi kiện trong Tố tụng
dân

sự,

/>
su7980.html, 04/3/2023).

Giáo trình Luật TTDS của Học viện Tư pháp định nghĩa rằng “Quyền khởi kiện VADS là quyền
tố tụng của cá nhân, pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật
TTDS yêu cầu Tịa án bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, tập thể hay của người
khác đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm” (Học viện Tư pháp (2007), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự,
Nxb. Công an nhân dân, tr. 305). Tương tự như vậy, giáo trình Luật TTDS của trường Đại học Luật Hà
Nội cũng định nghĩa rằng “Quyền khởi kiện VADS là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể...Việc thực
hiện quyền này của các chủ thể được gọi là khởi kiện VADS” (Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo
trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr. 242). Cách tiếp cận khái niệm quyền
khởi kiện VADS của hai cơ sở này khá giống nhau, khi biểu đạt quyền này thông qua phương thức
khởi kiện tại Tòa án và là quyền TTDS của các chủ thể.


10

là một trong những quyền thuộc nhóm quyền quyết định và tự định đoạt của
nguyên đơn sau khi Tòa án có thẩm quyền thụ lý; (v) Chủ thể của quyền khởi kiện
VADS tại Tòa án bao gồm: cơ quan, tổ chức, cá nhân; và (vi) Nội dung của quyền
khởi kiện VADS tại Tòa án là quyền và nghĩa vụ của người khởi kiện VADS tại
Tịa án.
Vậy, có thể thấy rằng một trong những đặc điểm của quyền khởi kiện
VADS tại Tịa án chính là chủ thể khởi kiện. Như đã đề cập, chủ thể của quyền
khởi kiện VADS tại Tòa án bao gồm: cơ quan, tổ chức, cá nhân. Với những chủ
thể này, họ sẽ thực hiện quyền khởi kiện VADS tại Tòa án khi nào.
Để xem xét khi nào những chủ thể trên thực hiện quyền khởi kiện VADS
tại Tòa án, cần xét đến mối quan hệ giữa pháp luật nội dung (pháp luật dân sự) và
pháp luật hình thức (pháp luật TTDS). Hiện nay, BLDS năm 2015 tại Điều 14 quy
định về bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền, trong đó có đề
cập “Tịa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền
dân sự của cá nhân, pháp nhân. Trường hợp quyền dân sự bị xâm phạm hoặc có
tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án

hoặc trọng tài.”. Tiếp đến, nhằm tạo ra cơ chế bảo đảm quyền, nghĩa vụ đồng thời
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật
dân sự, BLTTDS năm 2015 ghi nhận quyền khởi kiện VADS tại Tịa án có thẩm
quyền nhằm tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, hoặc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, hoặc bảo vệ lợi ích cơng cơng, lợi ích của Nhà
nước8.
Cùng với đó, quan hệ pháp luật dân sự được hình thành từ các chủ thể bao
gồm9: cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác là tổ chức không có tư cách pháp nhân
và trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập
về tài sản và tự chịu trách nhiệm (Điều 1 BLDS năm 2015). Khi đó, các chủ thể
có quyền khởi kiện khi họ “cho rằng” quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc

8
9

Điều 186 và Điều 187 BLTTDS năm 2015.
Cần phải lưu ý rằng, Điều 1 BLDS 2015 quy định “…quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá

nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở…”, nhưng khơng thể hiểu răng chỉ có hai
chủ thể trên là chủ thể trong quan hệ dân sự. Bởi, tại Điều 101 năm BLDS 2015 có quy định về chủ thể
trong quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp
nhân. Có thể tham khảo thêm: Tưởng Duy Lượng (2018), Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự trong Bộ luật
Dân sự năm 2015 – [ 14/5/2023.


11

của người khác hoăc lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm đến.
Tương ứng với chủ thể ở quan hệ pháp luật dân sự, thì pháp luật TTDS cũng khẳng
định, cơ quan, tổ chức, cá nhân, theo trình tự do luật định, u cầu Tịa án có thẩm

quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác; lợi ích cơng
cộng, lợi ích của Nhà nước khi cho rằng có quyền, lợi ích đó bị xâm phạm (khoản
2 Điều 68, Điều 186 và Điều 187 BLTTDS năm 2015). Vậy, pháp luật nội dung
sẽ là tiền đề để các chủ thể xác có quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của
người khác hoăc lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm hoặc có
tranh chấp, sau đó sẽ căn cứ vào pháp luật hình thức để thực hiện quyền khởi kiện
VADS tại Tòa án.
Như vậy, chủ thể khởi kiện VADS tại Tòa án là cơ quan, tổ chức, cá nhân
đáp ứng được các điều kiện pháp luật quy định, “cho rằng” quyền và lợi ích hợp
pháp của mình hoặc của người khác hoăc lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước
bị xâm phạm và được pháp luật quy định có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác hoặc lợi ích công cộng, lợi ích
của Nhà nước.
1.2 Nội dung về chủ thể khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án
Về chủ thể có quyền khởi kiện, có nhiều tác giả đã nghiên cứu về vấn đề
này và đưa ra các cách tiếp cận khác nhau. Tiêu biểu là tác giả Trần Anh Tuấn đã
dựa vào học lý về “tố quyền” để đưa ra cách tiếp cận về chủ thể tố quyền. Theo
tác giả10: “Cần phải dựa trên tính chất của vụ kiện hay quan hệ pháp luật có tranh
chấp để xác định chủ thể có quyền kiện và chủ thể có thể bị kiện. Trong các quan
hệ pháp luật có tranh chấp, cần phải xác định rõ các chủ thể có quyền lợi, có
nghĩa vụ để xác định chính xác tư cách đương sự trong các vụ kiện.”. Từ đó, tác
giả phân thành các nhóm chủ thể của tố quyền bao gồm: (i) Tố quyền hay quyền
kiện của các chủ thể trong quan hệ pháp luật có tranh chấp; (ii) Tố quyền hay
quyền kiện của người không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật có tranh chấp
gồm quyền kiện của chủ thể thế quyền, quyền kiện của các chủ thể kế quyền, và
quyền kiện của chủ thể mang quyền đối với người thứ ba.
Trong khi đó, BLTTDS năm 2015 tại Điều 186 quy định chủ thể thực hiện
quyền khởi kiện VADS tại Tòa án, cụ thể “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền
tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi
10


Trần Anh Tuấn (2017), Tlđd (6), tr. 02.


12

chung là người khởi kiện) tại Tịa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình”. Nhận thấy, quy định mang tính nền tảng chung, đề
cập hai vấn đề chính là cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền khởi kiện VADS
tại Tịa án hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
thực hiện quyền khởi kiện VADS tại Tòa án. Tiếp đến, nhằm cụ thể hóa quy định
tại khoản 1 Điều 4 BLTTDS năm 2015 với nội dung “Cơ quan, tổ chức, cá nhân
do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện VADS, yêu cầu giải quyết việc dân sự
tại Tịa án có thẩm quyền để u cầu Tịa án bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của mình hoặc của người khác”, BLTTDS năm 2015 quy định quyền khởi kiện
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác, lợi ích cơng cộng và lợi ích của Nhà nước tại Điều 187. Tương tự như quy
định của BLTTDS năm 2015, Luật TTDS Trung Quốc khẳng định ba chủ thể có
quyền khởi kiện VADS tại Tịa án và tham gia tố tụng, bao gồm “Công dân, pháp
nhân, tổ chức khác có quyền tham gia tố tụng dân sự. Pháp nhân do người đại
diện theo pháp luật của mình tiến hành tố tụng. Các tổ chức khác được kiện tụng
bởi người đứng đầu của họ.”11 (Điều 48).
Trong phạm vi bài khóa luận này, tác giả đề cập chủ thể có quyền khởi kiện
VADS tại Tòa án với cách tiếp cận dựa trên hành vi khởi kiện là một phương thức
để bảo vệ quyền lợi khi có tranh chấp của các chủ thể nhằm (i) tự bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình; (ii) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể
khác; hoặc (iii) bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước.
1.2.1 Chủ thể thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự nhằm mục đích
tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

Chủ thể thực hiện quyền khởi kiện VADS tại Tịa án nhằm mục đích bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình có thể hiểu là cơ quan, tổ chức, cá nhân
nhằm bảo vệ quyền lợi của chính chủ thể đó khi phát sinh tranh chấp hoặc bị xam
phạm trong các quan hệ về pháp luật dân sự, HNGĐ, kinh doanh thương mại, hoặc
lao động đã thực hiện quyền khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 4 và Điều

11

Nguyên văn: 第四十八条

公民、法人和其他组织可以作为民事诉讼的当事人。 法人由其法定

代表人进行诉讼。其他组织由其主要负责人进行诉讼。- Tạm dịch: Công dân, pháp nhân, tổ chức
khác có quyền tham gia TTDS. Pháp nhân do người đại diện theo pháp luật của mình tiến hành tố tụng.
Các
tổ
chức
khác
được
kiện
tụng
bởi
người
đứng
đầu
của
họ.
[ 15/5/2023.



13

186 BLTTDS năm 2015. Khi thực hiện quyền khởi kiện VADS tại Tòa án và được
Tòa án thụ lý giải quyết thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được xác định là nguyên
đơn trong VADS theo quy định tại khoản 2 Điều 68 BLTTDS năm 2015, bởi lẽ
nguyên đơn trong VADS là người khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết VADS
khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm hoặc có tranh
chấp. Trong trường hợp này, chủ thể thực hiện quyền khởi kiện VADS nhằm mục
đích tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thể hiện được mối quan hệ với
các đương sự khác (bị đơn theo khoản 3 Điều 68 hoặc người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan theo khoản 4 Điều 68 BLTTDS năm 2015) trong một quan hệ pháp
luật nhất định. Đây cũng là trường hợp được tác giả Trần Anh Tuấn gọi tên là tố
quyền hay quyền kiện của các chủ thể trong quan hệ pháp luật có tranh chấp như
đề cập ở trên.
Mối quan “chặt chẽ” hệ giữa pháp luật nội dung (pháp luật dân sự) và pháp
luật hình thức (pháp luật TTDS) đã được khẳng định và lý giải ở phần trên. Chính
từ mối quan hệ “chặt chẽ” này, đã hình thành nên tư cách chủ thể khi thực hiện
quyền khởi kiện VADS tại Tòa án. Như tác giả Zhang Weiping đã đề cập “các
quyền và nghĩa vụ cụ thể được quy định trong ‘BLDS’ xác định chủ thể của vụ
kiện, cũng như khách thể của vụ kiện”12.
Liên quan đến chủ thể khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, hiện nay có một số bất cập như vấn đề về cá nhân ủy quyền khởi kiện VADS
tại Tòa án cho cá nhân khác và xu hướng khởi kiện tập thể VADS tại Tòa án.
Vấn đề thứ nhất: Cá nhân ủy quyền khởi kiện VADS tại Tòa án cho cá
nhân khác.
Xuất phát từ Điều 186 BLTTDS năm 2015 quy định “Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án
(sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tịa án có thẩm quyền để u cầu bảo

12


Ngun văn: 《民法典》中所规定的具体的实体权利义务决定了诉的主体,也决定了诉的客体。

因此,很有必要就《民法典》的实施对诉的主体和诉的客体两个维度的影响进行研究,以便民事
诉讼法在诉的制度上进行调整和对接。- Tạm dịch: các quyền và nghĩa vụ cụ thể được quy định trong
‘BLDS’ xác định chủ thể của vụ kiện, cũng như khách thể của vụ kiện. - Zhang Weiping, 民法典的实施
与民事诉讼法的协调和对接, 中外法学 – Tạm dịch: Zhang Weiping, Phối hợp, liên thông giữa việc thi
hành Bộ luật Dân sự và Luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Luật Trung Quốc và nước ngoài, Trường Đại học
Bắc Kinh – [ 16/5/2023.


14

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”. Với quy định này, hiện nay khi áp dụng
trên thực tiễn, có hai quan điểm trái ngược nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Khơng có ai có thể thay thế ngun đơn
thực hiện quyền khởi kiện khi họ có đầy đủ năng lực và điều kiện khởi kiện. Việc
ủy quyền khởi kiện khơng thể đặt ra.”13. Ngồi những cơ sở pháp lý mà các tác
giả đã viện dẫn trong bài viết của mình, một trong những lý do ủng hộ quan điểm
này chính là “dù việc ủy quyền thuận lợi cho nguyên đơn trong một số trường hợp
nhưng không phản ánh tồn bộ ý chí của người có quyền lợi bị xâm phạm và hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng. Việc khởi kiện phải bảo đảm quy định của
BLDS năm 2015, BLTTDS năm 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan.”14
Quan điểm thứ hai cho rằng: “cá nhân được ủy quyền cho người khác khởi
kiện”15. Một trong những lý do được đưa ra như là: Theo quy định tại khoản 2
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thì quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị
hạn chế theo quy định của luật, như vậy luật không cấm thì cá nhân – cơng dân
được thực hiện và phải được thừa nhận và bảo vệ. Trong khi đó, BLTTDS năm
2015 tại khoản 4 Điều 85 chỉ cấm ủy quyền trong trường hợp “đối với việc ly hôn,

đương sự khơng được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng”.
Như vậy, cá nhân có thể ủy quyền cho người khác khởi kiện thay mình16.
Thực tiễn, Tịa án khi xét xử VADS cũng có những quan điểm khác nhau
về ủy quyền khởi kiện VADS của cá nhân (dù đa phần các Tịa án đều khơng chấp
nhận việc cá nhân ủy quyền cho cá nhân khác khởi kiện17). TAND Thành phố H
khẳng định “xét yêu cầu của bị đơn cho rằng người đại diện theo pháp luật trong
vụ án này là ơng Ngơ Chí D, nhưng người ký đơn khởi kiện lại là ông Phạm Tuấn
A, như vậy là khơng phù hợp, đề nghị Tịa án hủy sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ
13

Có thể tham khảo một số bài viết:
Nguyễn Văn Tiến (2022), Bàn về ủy quyền khởi kiện trong Tố tụng dân sự,
[ , 04/3/3023.
Kim Loan (2018), Ủy quyền khởi kiện vụ án dân sự, [ 25/5/2023.
14
Nguyễn Văn Tiến (2023), Tlđd (13).
15
Đặng Thanh Hoa (Chủ biên) (2020), Pháp luật Tố tụng dân sự (Phần thủ tục giải quyết vụ án dân sự) Tình huống và phân tích, Nxb. Hồng Đức, tr. 27.
Đồng quan điểm trên: Nguyễn Thị Hồng (2022), Một vài suy nghĩ về ủy quyền khởi kiện trong Tố tụng
dân sự, Tạp chí Cơng Thương, số 12, tr. 08 -13.
16
Xem thêm tại: Đặng Thanh Hoa (Chủ biên) (2020), Tlđd (21), tr. 27 – 32.
17
Đặng Thanh Hoa (Chủ biên) (2020), Tlđd (15), tr. 19.


15

án. Theo quy định của pháp luật, người đại diện theo pháp luật có quyền ủy quyền
cho người nhận ủy quyền khởi kiện. Do vậy trong vụ án này ông D có quyền ủy

quyền cho ơng A ký đơn khởi kiện, và ơng A có quyền ủy quyền lại. Như vậy,
nguyên đơn có đủ tư cách khởi kiện”18. Tương tự với quan điểm của TAND Thành
phố H, TAND Thành phố H khẳng định: “Tháng 12/2016, ơng Trịnh Hồi P (đang
sống ở Canada) làm giấy ủy quyền cho ông Trịnh Phương Đ được quyền khiếu
kiện đòi lại 08 sào đất ruộng mà theo ơng P thì ơng N đang quản lý, sử dụng. Giấy
ủy quyền được chứng nhận tại Canada trước khi gửi về Việt Nam. Căn cứ giấy ủy
quyền này, ông Đ ký và nộp đơn khiếu kiện việc tranh chấp quyền sử dụng đất tại
Ủy ban nhân dân phường. Sau đó, do hịa giải khơng thành nên Ủy ban nhân dân
phường hướng dẫn các bên khởi kiện ra Tòa. Ngày 21/6/2017, ông Đ ký đơn khởi
kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất gửi cho Tòa án nhân dân
thành phố NT, tỉnh K và đã được TAND Thành phố NT thụ lý giải quyết.”19
Một vấn đề pháp lý khi xuất hiện nhiều quan điểm trái ngược nhau thì
nguyên nhân tất yếu xuất phát từ sự chưa hồn thiện của quy định pháp luật có
liên quan. Đối với cá nhân ủy quyền khởi kiện VADS tại Tòa án cho cá nhân khác
cũng không ngoại lệ. Đơn cử, như quan điểm thứ nhất, các tác giả đề cập đến
khoản 2 Điều 68 BLTTDS năm 2015 quy định nguyên đơn trong VADS phải là
người trực tiếp khởi kiện để u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm, trừ trường hợp được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khởi kiện
theo quy định. Ngoài ra, khoản 1 Điều 189 BLTTDS năm 2015 cũng quy định
người khởi kiện phải tự mình ký tên hoặc điểm chỉ. Đối với cá nhân là người
không biết chữ, người khuyết tật nhìn, người khơng thể tự mình làm đơn khởi
kiện, người khơng thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người khác làm
hộ đơn khởi kiện và phải có người có đủ năng lực TTDS làm chứng. Người làm
chứng phải ký xác nhận vào đơn khởi kiện…
Trong khi đó, quan điểm đối lập sử dụng kết hợp các nguyên tắc hiến định
và quy định của BLTTDS năm 2015, cụ thể, quyền con người, quyền cơng dân
chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật, như vậy luật khơng cấm thì cá nhân
– công dân được thực hiện và phải được thừa nhận và bảo vệ (khoản 1 Điều 14

Bản án số 149/2019/DS-PT ngày 18-6-2019 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng của TAND Thành

phố H – Phụ lục 2 - Đặng Thanh Hoa (Chủ biên) (2020), Tlđd (15), tr. 40 - 49.
19
Phương Linh (2016), Thay mặt người ở Canada khởi kiện được không? – [ 25/5/2023.
18


16

Hiến pháp năm 2013). Đồng thời, BLTTDS năm 2015 tại Điều 186 quy định “Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp
khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tịa án có thẩm quyền
để u cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” và tại khoản 4 Điều 85
chỉ cấm ủy quyền trong trường hợp “đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy
quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng.”.
Như vậy, hiện nay, dưới góc độ nghiên cứu lẫn thực tiễn áp dụng pháp luật
đều có những quan điểm trái ngược về vấn đề cá nhân ủy quyền khởi kiện VADS
tại Tịa án cho cá nhân khác, vì thế vấn đề được đặt ra chính là việc xác định nội
hàm của thuật ngữ “ủy quyền khởi kiện”, từ đó đưa ra quan điểm hợp lý. Góc độ
mà tác giả tiếp cận chính là bản chất của thuật ngữ “ủy quyền” trong pháp luật
Việt Nam hiện nay. Theo tác giả, việc tiếp cận dưới góc độ này sẽ nắm rõ được
bản chất của “ủy quyền”, từ đó xác định “cá nhân ủy quyền khởi kiện VADS cho
cá nhân khác” có khả năng được chấp nhận hay khơng.
Thứ nhất, có thể thấy quan điểm của nhà lập pháp và được các nhà nghiên
cứu hiện nay thừa nhận rộng rãi rằng đại diện theo ủy quyền hiện nay xuất phát
từ ý chí của cá chủ thể và nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định pháp luật,
không thuộc trường hợp cấm thì được thực hiện.
Cụ thể, theo quy định tại BLTTDS năm 2015 xác định “người đại diện
trong TTDS bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy
quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của
BLDS.” (khoản 1 Điều 85), đồng thời, “người đại diện theo ủy quyền theo quy

định của BLDS là người đại diện theo ủy quyền trong TTDS” (khoản 4 Điều 85).
Vậy, theo ý chí của các nhà lập pháp về vấn đề ủy quyền khởi kiện trong TTDS
được xác định thông qua quy định của BLDS hiện hành.
Đối với vấn đề đại diện theo ủy quyền, BLDS năm 2015 quy định “cá nhân,
pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự.” (khoản 1 Điều 138), trong đó, “cá nhân khơng được để người khác
đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao
dịch đó.” (khoản 2 Điều 134). Quy định của BLDS hiện hành tương tự với quy
định của BLDS năm 2005 về vấn đề này. Có thể hiểu việc cá nhân (sau đây gọi là
người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân (sau đây gọi chung là người
được đại diện) thông qua việc xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và
người đại diện, từ đó người đại diện nhân danh và vì lợi ích của người được đại


17

diện nhằm xác lập, thực hiện giao dịch dân sự được gọi là đại diện theo ủy quyền.
BLDS năm 2015 khi quy định về giao dịch ủy quyền không đề cập đến hình thức
của giao dịch ủy quyền, tức trong giao dịch dân sự, các hình thức ủy quyền kể trên
đều có thể là căn cứ phát sinh giao dịch ủy quyền. Trong TTDS, tuy khơng có điều
luật nào quy định minh thị về hình thức đại diện theo ủy quyền giữa đương sự nói
chung và người đại diện nhưng dựa theo quy định tại khoản 2 Điều 86 BLTTDS
năm 2015 quy định “Người đại diện theo ủy quyền trong TTDS thực hiện quyền,
nghĩa vụ TTDS của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền”. Vậy, Tịa án chỉ
cơng nhận quyền đại diện của người đại diện theo ủy quyền khi có văn bản ủy
quyền, tức việc ủy quyền này phải lập thành văn bản.
Tóm lại, khi đề cập đến vấn đề cá nhân ủy quyền khởi kiện VADS tại Tịa
án cho cá nhân khác có thể hiểu là cá nhân có quyền khởi kiện thơng qua văn bản
ủy quyền nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cá nhân có quyền khởi kiện
nhằm thực hiện mục đích nhân danh và vì lợi ích chính chủ thể có quyền khởi

kiện để thực hiện hành khởi kiện thay cho chủ thể đó.
Thứ hai, nên cơng nhận vấn đề cá nhân có quyền khởi kiện VADS tại Tịa
án thực hiện ủy quyền khởi kiện cho một cá nhân khác khi đáp ứng các điều kiện
theo quy định của pháp luật hiện hành. Bởi lẽ, ủy quyền khởi kiện VADS cho cá
nhân khác không vi phạm nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương
sự theo quy định của pháp luật TTDS.
Hiện nay ý chí của nhà lập pháp xác định, đối với cá nhân phải là người
trực tiếp khởi kiện ký hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện (Điều 189 BLTTDS năm
201520). Thông qua đơn khởi kiện thể hiện được quyền quyết định và tự định đoạt
của chủ thể này (Điều 5 BLTTDS năm 2015).
Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, việc cá nhân ủy quyền khởi kiện
VADS tại Tòa án cho cá nhân khác mà đáp ứng các điều kiện theo quy định của
pháp luật hiện hành vẫn thể hiện được quyền quyết định tự và định đoạt của chủ
thể này tại khoản 1 Điều 5 BLTTDS năm 2015 và phù hợp với một trong những
học thuyết pháp lý về xây dựng chế định người đại diện trong TTDS ở Việt Nam21.
20

Điều 189 BLTTDS năm 2015 quy định “1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện phải làm đơn khởi kiện”.

Một trong những học thuyết pháp lý về xây dựng chế định người đại diện trong TTDS ở Việt Nam chính
là học thuyết về tự do ý chí. Về mặt triết học, học thuyết tự do ý chí dựa trên nền tảng của tự do cá nhân,
21

có nghĩa là khơng ai bị ép buộc làm hay khơng làm một cơng việc gì đó mà trái với ý muốn của họ, Về mặt
đạo đức, học thuyết tự do ý chí dựa trên quan niệm rằng khơng ai bị ép buộc làm hay không làm một công


18

Hành vi ủy quyền khởi kiện VADS tại Tòa án của chủ thể có quyền khởi kiện vẫn

được xem là thực hiện “quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự” bằng
phương thức “gián tiếp”. Chúng ta đều biết rằng “quyền quyết định và tự định
đoạt của đương sự được hiểu là đương sự có quyền tự mình lựa chọn và quyết
định các hành vi được pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình trong quá trình tham gia giải quyết vụ việc dân sự tại Tịa án”22, khi đó,
cá nhân có quyền khởi kiện VADS tại Tịa án vẫn tự mình lựa chọn và quyết định
hành vi được pháp luật quy định chính là việc ủy quyền thực hiện hành vi khởi
kiện VADS tại Tòa án cho một chủ thể khác thực hiện thay mình, nhân danh và vì
lợi ích của chính chủ thể có quyền khởi kiện VADS tại Tịa án. Thực ra, khi thừa
nhận vấn đề “ủy quyền khởi kiện” của cá nhân, không làm mất hoặc hạn chế quyền
tự quyết định và tự định đoạt của chủ thể này. Cùng với đó, khi việc đại diện được
xác lập phù hợp với các quy định của pháp luật và người đại diện thực hiện theo
khuôn khổ thẩm quyền đại diện của mình, thì khi đó chính người được đại diện23
được coi là người xác lập và chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ từ việc xác lập
đó24.
Thực tiễn vẫn có Tòa án chấp nhận ủy quyền khởi kiện VADS của cá nhân
tại Tịa án. Có thể xem xét đến một số VADS sau đây:
VADS thứ nhất25: Bản án 193/2019/DS-PT ngày 26/8/2019 về việc tranh
chấp hợp đồng vay tài sản của TAND tỉnh Bình Dương khẳng định “Ngày
22/4/2016 TAND tỉnh Bình Dương nhận được đơn khởi kiện nộp trực tiếp đề
ngày 22/4/2016 (BL 16) thể hiện người khởi kiện là bà Trần Thụy Thiên H,
người đại diện theo ủy quyền của bà H là ông Trần Thanh T (giấy ủy quyền
ngày 22/02/2016 được Đại sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại
việc mà không xuất phát từ lợi ích của họ. Về mặt kinh tế, học thuyết tự do ý chí dựa trên nhận định rằng,
lợi ích cá nhân là động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế. Do đó, tự do ý chí phải được đề cao để con người
vì lợi ích của mình trong xã hội tự do cạnh tranh mang lại lợi ích chung. – Xem thêm tại: Bùi Thị Hà (2021),
Bàn về các học thuyết pháp lý định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về người đại diện của
đương sự trong Tố tụng dân sự Việt Nam, Tạp chí Nghề Luật, số 12, tr. 30.
22
Lê Thị Thìn (2017), Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2015, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn, số 4, tr. 73
23
Trong trường hợp ủy quyền khởi kiện VADS tại Tịa án thì cá nhân có quyền khởi kiện, người được đại
diện chính là cá nhân có quyền khởi kiện.
24
Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật Dân sự - Tập 1, Nxb. Đại học
quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tr. 194.
25
Phụ lục 01: Bản án 193/2019/DS-PT ngày 26 tháng 8 năm 2019 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản
của TAND tỉnh Bình Dương.


19

Hoa Kỳ chứng nhận/hợp pháp hóa lãnh sự vào ngày 03/3/2016 (BL 25- 31)), cuối
đơn khởi kiện ông T ký tên. Ngày 26/4/2016, TAND tỉnh Bình Dương ban hành
Thơng báo số 05/TB-TA về việc chuyển đơn khởi kiện của bà H đến Tòa án thị xã
Tân Uyên để giải quyết theo thẩm quyền (BL14). Ngày 24/5/2016, TAND thị xã
Tân Uyên ban hành Thông báo số 148/TB-TA về việc yêu cầu sửa chữa, bổ sung
đơn khởi kiện cho bà Trần Thụy Thiên H. Ngày 15/6/2016, TAND thị xã Tân Uyên
nhận được Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 04/6/2016 do bà H ký, kèm theo Giấy
cam kết đề ngày 15/6/2016 có nội dung đơn do bà H ký và gửi bưu phẩm từ Mỹ
về (BL 5, 6, 7). Ngày 28/7/2016 TAND thị xã Tân Uyên ra thông báo về việc thụ
lý vụ án. Ngày 23/8/2016, TAND thị xã Tân Uyên ra thông báo về việc thụ lý vụ
án (bổ sung) (BL44).”
VADS thứ hai26: Ngày 02/05/2016, ông Phấy ủy quyền cho con trai là anh
Trương Thiên Sìn khởi kiện ơng Tráng Chấn Ly, anh Trương Thiên Chức, ông
Trương Thiên Duyên, anh Trương Sin Thìn, anh Trương Thiên Diện u cầu
địi bồi thường thiệt hại về sức khỏe và tài sản cho ông Phấy.
Tại Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 06/2016/QĐST-DS ngày

13/12/2016, TAND huyện D.V, tỉnh H.G quyết định: Đình chỉ giải quyết VADS
về “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng” giữa ngun đơn là anh
Trương Thiên Sìn với bị đơn là anh Trương Thiên Chức. Theo nhận định của Viện
kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội khẳng định TAND cấp sơ thẩm thụ lý vụ án
về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” là đúng nhưng lại xác
định anh Trương Thiên Sìn là ngun đơn là khơng đúng vì anh Sìn chỉ là người
đại diện theo ủy quyền của ông Phấy và không đưa ông Phấy vào tham gia tố tụng
là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Do Tòa án cấp sơ thẩm xác định không
đúng tư cách của người tham gia tố tụng nên đã có sai lầm trong việc áp dụng
pháp luật dẫn đến việc ra quyết định không đúng.
Vậy, trong các VADS này, cả TAND huyện D.V, tỉnh H.G và Viện Kiểm
sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đều xác định vấn đề “cá nhân ủy quyền khởi kiện
VADS tại Tòa án cho cá nhân khác” là đúng, nhưng tư cách đương sự của các bên
trong quan hệ ủy quyền này phải xác định chủ thể ủy quyền là nguyên đơn và chủ
thể được ủy quyền không là nguyên đơn.

26

Xem phụ lục 02: Thông báo số 20/TB-VC1-DS ngày 15/6/2018 thông báo rút kinh nghiệm về tranh
chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.


20

Thứ ba, có thể tham khảo một số quy định của pháp luật của một số quốc
gia trên thế giới, vấn đề cá nhân ủy quyền khởi kiện VADS tại Tòa án cho cá nhân
khác vẫn được cho phép. Khoản 1 Điều 54 BLTTDS Liên Bang Nga quy định về
quyền hạn của người đại diện, theo đó “Người đại diện có quyền thực hiện mọi
hoạt động tố tụng nhân danh người được đại diện. Tuy nhiên, quyền của người
đại diện trong việc ký tuyên bố yêu cầu, đệ trình lên Tòa án, đưa tranh chấp ra

trọng tài, nộp đơn yêu cầu phản tố, từ bỏ hoàn toàn hoặc một phần u cầu, giảm
kích thước, cơng nhận u cầu, thay đổi chủ đề hoặc căn cứ đối với việc yêu cầu
bồi thường, thỏa thuận hòa giải, chuyển giao quyền hạn cho người khác (chuyển
nhượng), kháng cáo quyết định của tòa án, xuất trình lệnh truy thu, nhận tài sản,
tiền được trao phải được quy định cụ thể trong giấy ủy quyền của người được đại
diện người.”27. Như vậy, theo quy định của BLTTDS Liên Bang Nga, vấn đề ủy
quyền khởi kiện VADS tại Tòa án vẫn được chấp nhận nhưng kèm thêm điều kiện,
nội dung ủy quyền khởi kiện phải được thể hiện rõ trong giấy ủy quyền.
Từ những quy định pháp luật hiện hành, dẫn đến nhiều cách hiểu chưa được
thống nhất như trên, tác giả kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn
đề cá nhân ủy quyền khởi kiện VADS tại Tòa án cho cá nhân khác theo hướng cho
phép người đại diện theo ủy quyền được quyền làm đơn khởi kiện và ký tên, điểm
chỉ vào đơn khởi kiện thay cho người khởi kiện là cá nhân – chủ thể có quyền
khởi kiện đã thực hiện ủy quyền theo quy định của pháp luật. Vấn đề tiếp theo là
sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan nhằm tạo nên sự thống nhất khi áp
dụng trên thực tế. Có thể thấy, hiện nay chưa có dự án sửa đổi BLTTDS năm 2015,
vì thế tác giả đề xuất hai phương án đối với vấn đề này:
Thứ nhất, về lâu dài, cần bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 189 BLTTDS
năm 2015 quy định về hình thức, nội dung đơn khởi kiện của cá nhân:
Nguyên văn: Статья 54. Полномочия представителя
1. Представитель вправе совершать от имени представляемого все процессуальные действия.
Однако право представителя на подписание искового заявления, предъявление его в суд, передачу
спора на рассмотрение третейского суда, предъявление встречного иска, полный или частичный
отказ от исковых требований, уменьшение их размера, признание иска, изменение предмета или
основания иска, заключение мирового соглашения, передачу полномочий другому лицу
(передоверие), обжалование судебного постановления, предъявление исполнительного документа
к взысканию, получение присужденного имущества или денег должно быть специально оговорено
в доверенности, выданной представляемым лицом. – Tạm dịch: Người đại diện có quyền thực hiện
mọi hoạt động tố tụng nhân danh người được đại diện. Tuy nhiên, quyền của người đại diện trong việc ký
tuyên bố yêu cầu, đệ trình lên Tịa án, …. Tịa án, xuất trình lệnh truy thu, nhận tài sản, tiền được trao phải

được quy định cụ thể trong giấy ủy quyền của người được đại diện người.
[ 25/5/2023.
27


×