BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
TRẦN THỊ THÙY TRANG
QUYỀN ĐƯỢC PHỤNG DƯỠNG CỦA CHA MẸ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
-------
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
QUYỀN ĐƯỢC PHỤNG DƯỠNG CỦA CHA MẸ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRẦN THỊ THÙY TRANG
Khóa: 44 - MSSV: 1953801012301
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. LÊ THỊ MẬN
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2023
LỜI CẢM ƠN
Thưa thầy cơ, khóa luận tốt nghiệp chun ngành Luật Dân sự với đề tài
“Quyền được phụng dưỡng của cha mẹ theo pháp luật Việt Nam” mà em trình bày
chính là kết quả của cả một q trình trau dồi và nỗ lực không ngừng của bản thân
em. Em rất may mắn khi luôn nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ tận tình từ q thầy cơ,
gia đình và bạn bè của mình.
Đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn các quý thầy, cô trường Đại học
Luật TP.HCM đã truyền dạy chúng em những nội dung vô cùng hay và ý nghĩa.
Bên cạnh đó, em cũng xin được cảm ơn ban lãnh đạo cùng toàn thể các thầy cô
khoa Luật Dân sự đã luôn giúp đỡ và ở bên cạnh chúng em trong suốt 4 năm đại học
vừa qua. Đặc biệt là cô Lê Thị Mận đã luôn tận tình hướng dẫn và chỉ dạy em
khơng chỉ ở trong khóa luận tốt nghiệp mà cịn trong suốt q trình học tập dưới
mái trường này. Em cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Trung tâm Thông tin –
Thư viện trường Đại học Luật TP.HCM đã luôn tạo điều kiện và hỗ trợ để em được
tiếp xúc và nghiên cứu nhiều nguồn tài liệu có giá trị và phù hợp với nội dung của
viết bài.
Qua đây, em xin kính chúc thầy cơ thật nhiều sức khỏe và ln thành cơng
trên con đường giảng dạy của mình.
Ngày 22 tháng 6 năm 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Lê Thị Mận, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS 2015
Bộ luật Dân sự năm 2015
BLHS 2015
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017
Luật HNGD 2014
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014
Luật NCN 2010
Luật Nuôi con nuôi năm 2010
Luật NCT 2009
Luật Người cao tuổi năm 2009
Luật PCBLGĐ 2022
Luật Phòng chống bạo lực gia đình
năm 2022
Luật THADS 2008
Luật Thi hành án dân sự năm 2008,
sửa đổi, bổ sung lần thứ tư bởi Luật
số 03/2022/QH 15
HNGD
Hơn nhân gia đình
NCT
Người cao tuổi
UBND
Ủy ban nhân dân
TAND
Tòa án nhân dân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................................... 3
3. Phạm vi và mục tiêu nghiên cứu .................................................................................... 9
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................................. 10
5. Kết cấu đề tài ................................................................................................................. 11
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
QUYỀN ĐƯỢC PHỤNG DƯỠNG CỦA CHA MẸ ....................................................... 12
1.1. Những vấn đề chung về quyền được phụng dưỡng của cha mẹ ............................. 12
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền được phụng dưỡng của cha mẹ ........................ 12
1.1.2. Ý nghĩa của quy định về quyền được phụng dưỡng của cha mẹ ......................... 18
1.1.3. Lược sử pháp luật Việt Nam về quyền được phụng dưỡng của cha mẹ .............. 19
1.2. Pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền được phụng dưỡng của cha mẹ............. 23
1.2.1. Quyền được quan tâm, chăm sóc của cha mẹ ....................................................... 23
1.2.2. Quyền được nuôi dưỡng của cha mẹ ..................................................................... 25
1.2.3. Quyền được cấp dưỡng của cha mẹ ...................................................................... 27
1.2.4. Trách nhiệm đối với hành vi vi phạm quyền được phụng dưỡng của cha mẹ .... 30
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC THI VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC BẤT CẬP
NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN ĐƯỢC PHỤNG DƯỠNG CỦA CHA MẸ ..................... 34
2.1. Thực trạng việc thực thi quyền được phụng dưỡng của cha mẹ ............................ 34
2.2. Bất cập và giải pháp khắc phục nhằm đảm bảo quyền được phụng dưỡng của cha
mẹ ........................................................................................................................................ 38
2.2.1. Góc độ pháp lý ........................................................................................................ 38
2.2.2. Góc độ tổ chức thực thi pháp luật.......................................................................... 45
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 52
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, hầu như ai cũng hiểu cái gốc của mỗi con người là ở gia
đình, ở mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ. Cũng như quan niệm cha mẹ đã hy
sinh cả cuộc đời để trông nom, nuôi dưỡng con cái và con có trách nhiệm hiếu kính,
phụng dưỡng bậc sinh thành đến khi họ nhắm mắt xuôi tay thì cả nghĩa lẫn tình mới
trọn vẹn dường như chưa bao giờ lỗi thời. Là ứng xử mang tính truyền thống văn
hóa của dân tộc, bổn phận phụng dưỡng cha mẹ đã in sâu trong tâm thức mỗi con
người Việt.
Ở góc độ pháp lý, con cái thực hiện nghĩa vụ và quyền chăm sóc, phụng
dưỡng cha mẹ là điều kiện tiên quyết để quyền được phụng dưỡng của cha mẹ khả
thi. Pháp luật hơn nhân và gia đình minh định 1 con phải “có bổn phận u q, kính
trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt
đẹp của gia đình”. “Con có nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha
mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình
có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ”. Trong
quan hệ giữa cha mẹ - con phát sinh từ sự kiện nhận nuôi con nuôi hay sự kiện sống
chung giữa cha mẹ kế với con riêng, giữa cha mẹ vợ, cha mẹ chồng với con dâu,
con rể, pháp luật hiện hành cũng đã đặt ra nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng,
cấp dưỡng của con nhằm đảm bảo cho cha mẹ được thụ hưởng quyền được phụng
dưỡng trong khuôn khổ cần thiết.
Trong giới hạn phạm vi chủ thể được bảo vệ, Luật Người cao tuổi năm 2009
(Luật NCT 2009) đã xác định “người cao tuổi là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi
trở lên”2 và một trong những nhóm chủ thể có nghĩa vụ và quyền được phụng
dưỡng người cao tuổi là con theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Theo đó, con có nghĩa vụ và quyền được phụng dưỡng cha mẹ là người cao tuổi, tùy
theo hoàn cảnh cụ thể phải sắp xếp nơi ở phù hợp với điều kiện sức khỏe, tâm lý
của cha mẹ; chu cấp về kinh tế; thanh tốn chi phí điều trị và chăm sóc y tế, động
viên khi cha mẹ ốm đau. Cha mẹ cao tuổi có nhiều con thì các con có nghĩa vụ và
quyền cùng nhau hợp tác trong việc phụng dưỡng cha mẹ cao tuổi. Đồng thời, ngồi
hình thức pháp lý cụ thể tác động tới cách xử sự của con, để ngăn ngừa và xử lý
Khoản 2 Điều 70, khoản 2 Điều 71, khoản 1 Điều 78, khoản 2 Điều 79, Điều 80, khoản 1 Điều 103, khoản 1
Điều 107, Điều 111 Luật HNGĐ 2014; khoản 1 Điều 24 Luật NCN 2010.
2
Khoản 1 Điều 3, khoản 3 Điều 9 Luật NCT 2009.
1
2
hành vi trái pháp luật xâm hại quyền được phụng dưỡng chính đáng của cha mẹ,
pháp luật dân sự, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật hành chính
cũng đã dự liệu các chế tài về dân sự, hình sự và hành chính cho phép xác định
trách nhiệm pháp nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật tương thích.
Vấn đề là, pháp luật hiện hành đã phát huy hiệu quả điều chỉnh quan hệ xã
hội và cha mẹ đã thụ hưởng trọn vẹn quyền được phụng dưỡng thông qua việc thực
hiện nghĩa vụ và quyền của con ? Thực tế cho thấy, một bộ phận lớn bậc cha mẹ,
đặc biệt là cha mẹ cao tuổi hiện khơng có lương hưu, khơng có nguồn kinh tế ni
sống bản thân, thiếu chi phí đảm bảo việc chữa trị và chăm sóc khi ốm đau, già yếu
… trở nên cơ thế, tủi buồn ngay chính ngơi nhà của mình. Nghiên cứu của Viện Gia
đình và Giới tiến hành tại 6 xã, phường của 3 tỉnh Đắk Lắk, Phú Yên và Quảng Trị
với 600 phiếu khảo sát người từ 60 tuổi trở lên cho thấy, bạo lực của con cái đối với
NCT (trong đó có cha mẹ là người cao tuổi) là khá nghiêm trọng: 3% số người cao
tuổi được hỏi nói rằng họ có bị con cái đánh; 8,3% bị dọa nhốt trong nhà và 15% bị
con cái bỏ rơi, khơng được chăm sóc. Nhóm người già, ở cả ba nhóm 60-69 tuổi,
70-79 tuổi và 80 tuổi trở lên đều phải gánh chịu các hình thức bạo lực gia đình do
con cháu gây nên ở những mức độ khác nhau3.
Rõ ràng là, pháp luật hiện hành, dù đã có các quy định khá tồn diện cho việc
xác định nghĩa vụ và quyền, tạo được cơ chế kiểm soát, ngăn ngừa cũng như xử lý
hành vi xâm hại quyền được phụng dưỡng của cha mẹ; song hiệuquả điều chỉnh của
các cơ chế pháp lý này đang dừng ở mức độ nhất định. Trên thực tế, hậu quả từ
hành vi con cái ngược đãi, bạo hành, bỏ mặc khơng chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ
đã, đang xâm hại nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần của nhóm đối tượng được
pháp luật bảo vệ. Vấn nạn này vẫn đặt ra nhiều câu hỏi đáng lưu tâm: Làm thế nào
để con giữ tròn đạo hiếu với bậc sinh thành trong mọi hoàn cảnh? Giải pháp pháp
lý, giải pháp thực tế nào cho việc thực thi hiệu quả nghĩa vụ và quyền chăm sóc,
ni dưỡng, cấp dưỡng để đảm bảo quyền được phụng dưỡng của cha mẹ một cách
trọn vẹn? Thiết nghĩ việc nghiên cứu, tìm câu trả lời thỏa đáng mà thực tiễn đang
đặt ra là cấp thiết. Và đây cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài “Quyền được
phụng dưỡng của cha mẹ theo pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu. Đề tài khóa luận
Bạo lực gia đình đối với người cao tuổi: Vấn đề bức xúc, và Thực trạng bạo lực gia đình với người cao tuổi hiện nay,
truy cập ngày
04/6/2023;
3
3
tốt nghiệp được thực hiện với mong muốn tìm chọn và khuyến nghị giải pháp phù
hợp góp phần thúc đẩy, bảo đảm quyền được phụng dưỡng của cha mẹ trên thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
“Hiếu, kính” và quyền được phụng dưỡng của cha mẹ là chủ đề được nhiều
học giả quan tâm. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu trong nước cũng như ngồi
phạm vi quốc gia có nội dung liên quan đến vấn đề này.
Các nghiên cứu trong nước
Tiếp cận từ góc độ đạo hiếu trong gia đình VN, từ góc độ lý luận đến thực tiễn
với giới hạn phạm vi khác nhau, đã có nhiều tác giả, nhóm tác giả trong nước
nghiên cứu về quyền được phụng dưỡng của cha me (biểu hiện thơng qua việc quan
tâm, chăm sóc, ni dưỡng, cấp dưỡng). Có thể một nêu số cơng trình tiêu biểu sau:
Nhóm cơng trình nghiên cứu khoa học
- Dương Ngun Kim (2021), “Nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng giữa cha
mẹ và con”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP.HCM: Trong cơng trình
nghiên cứu, tác giả đã phân tích nghĩa vụ nuôi dưỡng - cấp dưỡng của con đối với
cha mẹ và ngược lại. Trong mối quan hệ nuôi dưỡng - cấp dưỡng của con đối với
cha mẹ thì các nội dung liên quan đến việc xác định mức độ thực hiện nghĩa vụ,
việc xác định nghĩa vụ của con trong trường hợp con là người sống cùng, trực tiếp
chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ hay dưới góc độ là người trợ cấp cho đời sống vật
chất cho cha mẹ được tác giả trình bày khá chi tiết. Trên cơ sở đối sánh giữa pháp
luật và các bản án thực tiễn, tác giả đưa ra một số kết luận có giá trị tham khảo về
mối liên hệ giữa nghĩa vụ cấp dưỡng của con (đối với cha mẹ) và quyền được
hưởng di sản thừa kế cũng như hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện.
- Huỳnh Ngọc Yến Linh (2015), “Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con
theo pháp luật hơn nhân và gia đình”, Luận văn cử nhân luật, Trường Đại học Luật
TP.HCM:Tác giả - qua công trình - đã cung cấp cho người đọc cơ sở lý luận, phân
tích đối sánh pháp luật của Vương quốc Thái Lan, Cộng hòa Pháp một cách tổng
quan về cấp dưỡng giữa cha mẹ và con. Qua nghiên cứu, tác giả đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như giải pháp thực tế nhằm đảm bảo
cho quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ - con được thực thi một cách hiệu quả nhất.
- Lê Ngô Quỳnh Hoa (2016), “Pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe
người cao tuổi Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP.HCM: Với việc
4
giới hạn nhóm đối tượng nghiên cứu cụ thể là NCT, đề tài được kết cấu hai
Chương. Trên cở sở làm rõ những vấn đề lý luận - pháp luật về quyền được chăm
sóc sức khỏe của NCT (thể hiện qua nội dung của Chương 1) để đối sánh với thực
tiễn áp dụng pháp luật (thể hiện qua nội dung của Chương 2), tác giả đã có kiến
nghị giải pháp thực tế nhằm hồn thiện các chính sách và pháp luật về quyền được
chăm sóc sức khỏe của NCT tại Việt Nam.
- Huỳnh Thị Nam Hải, Lê Trung Hiếu (2021) , “Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa
các thành viên trong gia đình theo quy định của Pháp và một vài kinh nghiệm cho
Việt Nam”, Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử, ngày 07/10/2021: Nghiên cứu thể
hiện góc nhìn của nhóm tác giả về các điểm tương đồng và khác biệt của pháp luật
Việt Nam và pháp Cộng hòa Pháp trong cơ chế cấp dưỡng giữa các thành viên trong
gia đình. Bài viết cung cấp các nội dung tổng quan về cấp dưỡng, xác định nghĩa vụ
cấp dưỡng của các thành viên trong gia đình tại Việt Nam và tại Cộng hịa Pháp
dưới góc độ pháp luật và thực tiễn áp dụng. Cơng trình nghiên cứu cho thấy có sự
khác biệt trong việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa con dâu, con rể với cha mẹ
vợ, cha mẹ chồng tại hai quốc gia và đề xuất tham khảo các quy định của pháp luật
Pháp để có hướng điều chỉnh pháp luật Việt Nam phù hợp.
- Nguyễn Minh Hằng (2019), “Nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp
luật hôn nhân gia đình”, Tạp chí Kiểm sát, (07). Bài viết trình bày các vấn đề cơ bản
về cấp dưỡng về góc độ pháp lý, làm rõ các trường hợp phát sinh nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa các chủ thể từ đó rút ra được các đặc điểm nổi bật của chế định về cấp
dưỡng theo Luật HNGĐ 2014. Đề tài tập trung làm rõ các quan hệ cấp dưỡng cụ thể
phát sinh giữa các thành viên trong gia đình, trong đó có nghĩa vụ cấp dưỡng của
con đối với cha mẹ, thông qua đó ghi nhận các điều kiện cụ thể trong trường hợp
con cấp dưỡng cho cha mẹ, bất cập trong thực thi và có những khuyến nghị hồn
thiện quy định của pháp luật.
- Nguyễn Thẩm Thu Hà (2022), “Quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia
đình người Hà Nhì ở vùng biên giới xã Ý Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”, Tạp chí
Dân tộc học, số 3: Bài viết tập trung phân tích thực trạng việc chăm sóc, ni
dưỡng, giáo dục, ứng xử, truyền dạy các giá trị văn hóa giữa các thành viên trong
gia đình người Hà Nhì, khu vực Bắc Việt Nam dưới góc độ xã hội học. Liên quan
quyền được cấp dưỡng của cha mẹ, bài viết làm sáng tỏ và luận bàn về chữ “hiếu”
và sự u thương, kính trọng, chăm sóc của con dành cho cha mẹ, thể hiện qua ứng
xử của người con trong gia đình. Bên cạnh đó, bài viết còn ghi nhận kết quả điều tra
5
về mức độ con cái thực hiện trách nhiệm chăm sóc cha mẹ sau khi con tách ra ở
riêng. Kết quả nghiên cứu từ cơng trình là cơ sở để tác giả đánh giá xu hướng phát
triển của mối quan hệ chăm sóc, trong đó, chủ thể thực hiện nghĩa vụ là con và chủ
thể thụ hưởng quyền là cha mẹ; từ đó có những kiến nghị giải thích hợp lý về mặt
pháp lý.
- Nguyễn Thị Lan (2017), “Quyền và lợi ích hợp pháp của NCT trong các
quan hệ hơn nhân và gia đình”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số định kỳ 05 (302):
Trong cơng trình, tác giả phân tích luận bàn và khẳng định hành vi “phụng dưỡng”
của con đối với cha mẹ cần được xác định với các biểu cụ thể tùy hoàn cảnh như
thăm hỏi, quan tâm, chăm lo đến đời sống tinh thần và vật chất của cha mẹ mà
không nhất thiết là các bên sống chung hay sống riêng. Tác giả bài viết cũng bàn về
vấn đề liên quan đến trách nhiệm phụng dưỡng của con ruột, con nuôi, con dâu, con
rể trong mối quan hệ với cha mẹ là NCT theo quy định của Luật Người cao tuổi
năm 2009 (Luật NCT 2009) từ đó đưa ra một số khuyến nghị khắc phục vướng mắc
trong cơ chế pháp lý.
- Phan Thị Luyện (2020), “Thực hiện nghĩa vụ của con đối với cha mẹ”,
Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 3:Bài viết là kết quả nghiên cứu trên 500
người trên địa bàn một phường tại Hà Nội để đánh giá thực tiễn việc thực nghĩa vụ
chăm sóc và trợ giúp cha mẹ già của con cái. Thông qua số liệu được thu thập, tác
giả khẳng định có sự biến đổi trong nhiều mặt của gia đình hiện đại và vai trị của
con cái trong việc phụng dưỡng cha mẹ già vẫn cần được xem trọng. Bài nghiên
cứu cũng cho thấy sự khác biệt trong nhận thức, lối sống và các nguyên nhân khác
dẫn đến mâu thuẫn giữa cha mẹ và con từ đó, đề ra một số khuyến nghị nhằm đảm
bảo việc chăm sóc sức khỏe, đời sống của NCT cũng như thúc đẩy nghĩa vụ phụng
dưỡng cha mẹ.
- Cao Thị Hải Bắc (2018), “Biến đổi nhận thức về đạo hiếu: nghiên cứu so
sánh giữa Việt Nam và Hàn Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Trường Đại
học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, tập 34 (3): Bài viết bàn về sự biến đổi
nhận thức về đạo hiếu trong bối cảnh tồn cầu hóa tại Việt Nam và Hàn Quốc - hai
quốc gia Châu Á có nhiều nét tương đồng về văn hóa và lịch sử trong suốt chiều dài
phát triển. Từ quan điểm, sự biến đổi nhận thức của các thành viên gia đình trong
thời đại mới cũng có thể tác động đến việc thực thi quyền được phụng dưỡng theo
hướng tiêu cực hoặc tích cực, tác giả bài viết, trên cơ sở những số liệu cụ thể đã
6
minh chứng cho quan điểm này từ đó, có những so sánh, đánh giá sự tương đồng và
khác biệt tại hai quốc gia với giá trị tham khảo cao.
- Bùi Nghĩa (2016), “Nghiên cứu ứng xử của gia đình đối với NCT: Kinh
nghiệm quốc tế và cơ sở thực tiễn tại Việt Nam”, Tạp chí khoa học trường Đại học
Mở TP.HCM, Số 11 (1)2016: Cơng trình nghiên cứu về ứng xử gia đình với người
cao tuổi từ thực tiễn các quốc gia trên thế giới. Thông qua các số liệu thống kê, tác
giả khẳng định, ở các mức độ khác nhau, NCT đã, đang phụ thuộc vào sự chăm sóc,
hỗ trợ về vật chất từ con cháu và mong muốn nhận được sự quan tâm về mặt tinh
thần, tình cảm từ các thành viên gia đình. Bài biết khơi gợi những giải pháp có thể
thiết lập để gìn giữ và phát huy giá trị truyền thống về lòng hiếu thảo của con cái
đối với cha mẹ tại các quốc gia phát triển. Giá trị thực tiễn cũng như định hướng về
mặt lý thể hiện qua cơng trình là cơ sở để tác giả triển khai nghiên cứu sâu đề tài
của mình đặt trong bối cảnh tại Việt Nam.
Các nghiên cứu nước ngoài
Nghiên cứu pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật của một số quốc gia về
quyền được chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, cơ sở
giúp chúng ta đúc rút những bài học kinh nghiệm trong xây dựng, hoàn thiện pháp
luật về vấn đề này. Đã có nhiều tác giả, nhóm tác giả nghiên cứu quyền được phụng
dưỡng của cha mẹ từ thực tiễn các quốc gia với nhiều góc độ trong đó, đáng lưu ý là
một số cơng trình liên có quan như:
- Moira J. Moore (2016), “Identical Origins, Divergent Paths: Filial
Responsibility Laws in Canada and the United States”, Master's Thesis in Law,
Queen's University Canada: Dưới hình thức là một luận án, cơng trình của tác giả là
sự xem xét các mặt của Filial Support Laws (Luật Trách nhiệm hiếu thảo) ở Canada
và các bang của Hoa Kỳ từ đó chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng.
Công trình cung cấp những thơng tin liên quan đến bối cảnh xã hội tại hai quốc gia
và nhận xét về sự biến động dân số, kinh tế hay tư tưởng của thế hệ tác động đến lập
pháp và việc thực thi trách nhiệm hiếu thảo. Qua nghiên cứu, tác giả khẳng định
Luật Trách nhiệm hiếu thảo tồn tại chưa thực sự phù hợp bối cảnh thực tiễn và đưa
ra những đề xuất liên quan đến mức hỗ trợ, thủ tục giải quyết, điều chỉnh quy định
pháp luật …nhằm hài hòa giữa các quan điểm ủng hộ hay phản đối sự tồn tại của
Luật Trách nhiệm hiếu thảo và đảm bảo được ý nghĩa của việc phụng dưỡng cha mẹ
trong pháp luật Canada và Hoa Kỳ.
7
- Chin-Chun Yi, Ju-Ping Lin (2008), “Types of Relations between Adult
Children and Elderly Parents in Taiwan: Mechanism Accounting for Various
Relational Types”, Journal of Comperative Family Studies, 305-324: Qua bài viết,
nhóm tác giả đã đưa ra những con số cho thấy tỷ lệ già hóa dân số tại Đài Loan
tăng, kéo theo sự thay đổi các chính sách chăm sóc NCT. Nghiên cứu khẳng định
tiếp cận từ mối quan hệ trực tiếp giữa các thành viên trong gia đình, một cơ chế nổi
bật xuất hiện là “nhu cầu thực tế của cha mẹ”, tình đồn kết giữa các thành viên
trong gia đình giúp cha mẹ được nhận sự hỗ trợ lớn hơn từ các con đã trưởng thành.
Từ các kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đã chứng minh rằng cả nhu cầu thực tế của
cha mẹ và năng lực cá nhân đều ảnh hưởng đến quan hệ của các thế hệ, việc xây
dựng mối quan hệ gắn bó sẽ tạo được sự hỗ trợ tình cảm của cả hai phía, từ đó xác
định các trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ hay hỗ trợ con cái có thể được thực hiện
một cách dễ dàng hơn.
- Heleana Theixos (2013), “Adult Children and Eldercare: The Moral
Considerations
of
Filial
Obligations”,
Marriage
&
Family
Review
Journal, 17(1):65-73: Bài viết bàn về các yêu cầu đặt ra đối với con cái trưởng
thành trong việc chăm sóc cha mẹ là NCT hoặc khuyết tật. Tiếp cận nghiên cứu từ
góc độ đạo đức xã hội, tác giả cho rằng con cái trưởng thành - về mặt đạo đức có
bổn phận chăm sóc cha mẹ và phải chịu những chỉ trích từ dư luận xã hội khi khơng
thực hiện bổn phận của mình. Từ việc kết hợp giữa quy phạm pháp luật và ý niệm
hiếu thảo, tác giả đã có những đánh giá mang tính thực tế về áp lực đối với những
người con trưởng thành khi thực hiện trách nhiệm hiếu thảo, trong bối cảnh dân số
già hóa. Từ nhận thức rằng, việc tìm chọn những giải pháp, phương pháp thực hành
tốt nhất trong việc chăm sóc NCT, khuyết tập, đảm bảo sức khỏe của cha mẹ là
nhiệm vụ quan trọng, tác giả đã đặt ra kỳ vọng về những giải pháp thích hợp sẽ
được thiết lập bởi giới chuyên môn (về đạo đức sinh học, thực hành chăm sóc sức
khỏe...) và nhà lập pháp.
- Katherine C. Pearson (2013), “Filial support laws in the modern era:
Domestic and international comparison of enforcement practices for laws requiring
adult children to support indigent parents”, The Elder Law Journal, Vol. 20(2): Bài
viết là kết quả nghiên cứu và đánh giá Luật Hỗ trợ hiếu thảo (Filial Support Laws)
của Hoa Kỳ - Văn bản được xây dựng từ chính sách: các thành viên trong gia đình
phải hỗ trợ lẫn nhau thay vì dựa vào các nguồn lực cơng cộng. Theo đó, pháp luật
8
một số bang Hoa Kỳ xác định trách nhiệm của con trong việc hỗ trợ tài chính cho
cha mẹ chỉ khi cha mẹ khó khăn hoặc thiếu thốn. Thơng qua sự đối sánh pháp luật
giữa Hoa Kỳ và Ukraine thời hậu Xô viết và các phán quyết cụ thể của Tòa án, tác
giả bài viết đã làm sáng rõ việc hỗ trợ kinh tế của con cái dành cho cha mẹ dần trở
thành nguồn thu chính của các viện dưỡng lão trong bối cảnh hiện đại.
- Katie Wise (2002), “Caring for our parents in an aging world: Sharing
public and private responsibility for the elderly”, Journal of Legislation and Public
policy, Vol. 5, pp. 563-598: Việc già hóa dân số đặt ra nhiều vấn đề cho xã hội,
trong đó có vấn đề chăm sóc sức khỏe, đời sống cho NCT, cũng đồng nghĩa đặt ra
trách nhiệm với những người con có cha mẹ là NCT. Thơng qua việc phân tích các
quy định của pháp luật trong Luật Trách nhiệm hiếu thảo (Filial Support Laws),
Luật Chăm sóc cá nhân (Private Care Law), Luật chăm sóc cộng đồng (Public Care
Law),…tác giả đã làm sáng tỏ được các trách nhiệm chăm sóc cha mẹ là NCT và
qua đó, đề ra những biện pháp thi hành nhằm đảm bảo thực hiện việc chăm sóc cha
mẹ khả thi.
- Rickles-Jordan, A (2007), “Filial responsibility: A survey across time and
oceans”, MarquetteElder’s Advisor, 9, 183: Đề tài được tác giả triển khai trên cơ sở
phân tích quy định những giải pháp pháp lý được xác định nhằm hỗ trợ nhu cầu tài
chính và chăm sóc sức khỏe NCT tại Hoa Kỳ. Trong đó nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ
của con trưởng thành được xác định theo Luật Trách nhiệm hiếu thảo của một số
bang. Tác giả cơng trình cịn cho thấy cơ chế pháp lý về trách nhiệm hiếu thảo, cũng
như chương trình thực tiễn được áp dụng để thúc đẩy trách nhiệm hiếu thảo tại một
số quốc gia như: Singapore – với đạo luật Đạo luật Bảo dưỡng cha mẹ; Ba Lan –
với Bộ luật Phúc lợi và Gia đình; … Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề ra một số
giải pháp để Nhà nước, thơng qua đó thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ và chăm
sóc NCT, giảm bớt gánh nặng lên thế hệ là con hiện nay.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu đã ghi nhận một các khái quát về
pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền được phụng dưỡng của
cha mẹ tại Việt Nam và nước ngoài. Trong các cơng trình nghiên cứu đã cho thấy:
Có cơng trình mang tính vĩ mơ, định hướng về quyền con người đặt trong bối cảnh
xây dựng nhà nước pháp quyền - trong đó hoạt động thực hiện quyền được phụng
dưỡng của cha mẹ là một nội dung thể hiện bảo vệ quyền con người, là tiền đề
mang tính định hướng hồn thiện pháp luật về bảo vệ lợi ích của cha mẹ; Một số
cơng trình giới hạn khai thác các vấn đề liên quan quyền được phụng dưỡng của cha
9
mẹ (như bạo lực gia đình, cấp dưỡng giữa cha mẹ và con, chăm sóc người cao tuổi);
Có cơng trình nghiên cứu cơ chế pháp lý cũng như thực tiễn nước ngoài về trách
nhiệm của của con trong việc quan tâm, chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ; hoặc nghiên
cứu các bản án thực tế nhằm làm rõ cơ chế ra phán quyết trong hoạt động tư pháp
tại các quốc gia. Dù tiếp cận từ góc độ khác biệt nhất định về điều kiện kinh tế - xã
hội và môi trường pháp lý song khơng thể phủ nhận, những cơng trình nghiên cứu
về quyền được phụng dưỡng của cha mẹ là nguồn tài liệu giá trị giúp tác giả có
thêm những định hướng, từ đó rút ra kinh nghiệm phục vụ cho việc hoàn thiện đề
tài trong bối cảnh tại Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, tác giả nhận thấy chưa có một cơng trình nghiên cứu ghi nhận các
nội dung về quyền được phụng dưỡng của cha mẹ. Bên cạnh đó, các cơng trình
nghiên cứu, các bài viết chỉ hướng đến một số khía cạnh có liên quan quyền phụng
dưỡng của bậc sinh thành như được quan tâm, chăm sóc, ni dưỡng hoặc cấp
dưỡng. Các nội dung về cơ chế đảm bảo thi hành các quy định này vẫn chưa nhận
được sự quan tâm sâu sắc, mặc dù đây là một nội dung quan trọng có tính quyết
định trong việc đảm bảo quyền được phụng dưỡng của cha mẹ. Xuất phát từ yêu
cầu của thực tiễn, nội dung, mục tiêu và định hướng này sẽ được tác giả nghiên cứu
thông qua đề tài “Quyền được phụng dưỡng của cha mẹ theo pháp luật Việt Nam”.
3. Phạm vi và mục tiêu nghiên cứu
Cơng trình tập trung nghiên cứu quyền được phụng dưỡng của cha mẹ trong
pháp luật và thực tiễn xã hội Việt Nam. Đi từ việc nhận diện những vấn đề chung;
phân tích các nhóm quyền cụ thể biểu thị trong quyền được phụng dưỡng; nghiên
cứu các cơ chế đảm bảo thực thi quyền đến việc làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật
từ đó, chỉ ra những bất cập tồn trên cả khía cạnh quy định của pháp luật lẫn cơ chế
thực thi pháp luật.
Phù hợp với phạm vi nghiên cứu, đề tài hướng đến hoàn thành các mục tiêu
sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền được phụng dưỡng của cha mẹ
theo pháp luật Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá khách quan, tồn diện nội dung điều chỉnh pháp luật và
hiệu quả áp dụng pháp luật việc thực hiện quyền được phụng dưỡng của cha mẹ;
10
- Nghiên cứu và đối sánh pháp luật ở một số nước trên thế giới và Việt Nam
về việc thực hiện quyền được phụng dưỡng của cha mẹ, thông qua đó rút ra kinh
nghiệm cho Việt Nam trong lập pháp và hành pháp;
- Làm rõ thực tiễn thực thi quyền được phụng dưỡng của cha mẹ, chỉ ra
những bất cập, vướng mắc của pháp luật, của cơ chế thi hành pháp luật, từ đó đề
xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật và điều kiện áp dụng nhằm thúc đẩy việc
thực hiện quyền được phụng dưỡng của cha mẹ tại Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với quan điểm, chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật HNGĐ, NCT.
Phù hợp với một đề tài nghiên cứu khoa học pháp lý, tác giả sử dụng các
phương pháp sau đây để triển khai, nghiên cứu: phương pháp lịch sử, phân tích,
đánh giá, so sánh, chứng minh, tổng hợp, phỏng vấn.
- Phương pháp lịch sử được áp dụng khi tìm hiểu các quy định của pháp luật
hơn nhân và gia đình và các pháp luật liên quan khác về quyền được phụng dưỡng
của cha mẹ qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử của Việt Nam.
- Phương pháp phân tích, đánh giá được sử dụng để phân tích, làm sáng tỏ
các vấn đề về mặt lý luận, quy định pháp luật, thực tiễn áp dụng và cơ chế đảm bảo
thực thi hiện hành liên quan đến quyền được phụng dưỡng của cha mẹ.
- Phương pháp so sánh, chứng minh được tác giả áp dụng xuyên suốt đề tài
nhằm làm rõ sự khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số quốc
gia, từ đó, tìm ra những điểm tiến bộ và hạn chế giữa pháp luật các nước để đưa ra
các giải pháp phù hợp với pháp luật và thực tiễn quyền được phụng dưỡng của cha
mẹ theo pháp luật Việt Nam.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng như là một sự khái quát các nội dung
đã được nghiên cứu, thơng qua đó, liên kết các vấn đề thành một chỉnh thể thống
nhất, đảm bảo tính hệ thống, tính tồn diện cho cả đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn được thực hiện thơng qua hình thức bảng câu hỏi
được tác giả thiết lập và trực tiếp thực hiện để thu thập quan điểm, ý kiến của những
chủ thể có liên quan (chuyên gia pháp luật, luật sư và các chủ thể hiện đang là cha
mẹ, đang là con); từ đó, có cái nhìn cụ thể và trực quan nhất về quy định pháp luật
và thực tiễn xã hội, và đưa ra những kiến giải hợp lý.
11
5. Kết cấu đề tài
Cơng trình nghiên cứu gồm 02 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung và pháp luật hiện hành về quyền được phụng
dưỡng của cha mẹ. Nội dung của chương này được triển khai qua các khi cạnh như:
Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc thực hiện quyền được phụng dưỡng của cha
mẹ; và các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh vấn đề phụng dưỡng cha mẹ
qua từng nội dung cụ thể về quyền được quan tâm, chăm sóc, ni dưỡng và cấp
dưỡng. Làm rõ cơ sở lý luận cho việc giải quyết các nội dung tại Chương 2 của đề
tài.
Chương 2. Thực trạng thực thi và giải pháp khắc phục bất cập nhằm đảm
bảo quyền được phụng dưỡng của cha mẹ. Trong chương này những nội dung sẽ
được triển khai bao gồm: Thực trạng thực thi quyền được phụng dưỡng của cha mẹ
thông qua góc độ pháp lý và góc độ thực tiễn; Tìm ra nguyên nhân và đề xuất các
giải pháp trong việc đảm bảo thực thi các quy định về quyền được phụng dưỡng của
cha mẹ tại Việt Nam.
12
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH VỀ QUYỀN ĐƯỢC PHỤNG DƯỠNG CỦA CHA MẸ
1.1. Những vấn đề chung về quyền được phụng dưỡng của cha mẹ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền được phụng dưỡng của cha mẹ
- Khái niệm quyền được phụng dưỡng của cha mẹ
+ Khái niệm phụng dưỡng
o Theo nghĩa thông thường: “Phụng dưỡng” là cụm từ thường được sử dụng
khi đề cập đến trách nhiệm, nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ, đặc biệt trong
hoàn cảnh cha mẹ là NCT. Tuy nhiên, hiểu chính xác “thế nào là phụng dưỡng cha
mẹ”, và “phụng dưỡng thể hiện qua những hành vi nào” thì hiện nay tại Việt Nam
vẫn chưa có một văn bản hay một khái niệm chính thức, trên thực tế nội dung
“phụng dưỡng cha mẹ” thường được tìm hiểu thông qua các nhận thức, đánh giá
chủ quan của con người trong mối quan hệ gia đình.
Xét dưới góc độ thông thường, động từ “phụng dưỡng” thể hiện việc một
người có hành vi quan tâm,chăm sóc, ni dưỡng người khác bằng việc trực tiếp
thực hiện chăm lo cuộc sống hay chu cấp bằng tiền hoặc tài sản khác để đảm bảo
cuộc sống cho người được phụng dưỡng. Từ đó, suy luận rằng, “phụng dưỡng cha
mẹ” là việc người con thực hiện việc chăm lo đời sống cho đối tượng là cha mẹ.
Đây là cách hiểu phổ biến hiện nay.
o Theo nghĩa pháp lý
Nhìn nhận vấn đề dưới góc độ pháp lý, “phụng dưỡng” được nghiên cứu với
các phạm vi khác nhau. Theo nghĩa rộng, “phụng dưỡng” bao gồm hành vi “quan
tâm, chăm sóc”, “ni dưỡng” và “cấp dưỡng” của người có nghĩa vụ đối với người
có quyền. Trong mỗi hoạt động thì phạm vi trách nhiệm của người có nghĩa vụ
được thể hiện thông qua các phương diện khác nhau. Xét về hoạt động “quan tâm,
chăm sóc” trong việc thực hiện nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ của con, “quan tâm”
là việc con thực hiện việc con lưu tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cha
mẹ; qua đó thể hiện tình cảm, sự u thương tơn trọng của con dành cho cha mẹ. Đi
cùng sự “quan tâm”, có sự hỗ trợ phù hợp nhằm đảm bảo cuộc sống của cha mẹ
được đầy đủ thông qua việc thực hiện sự “chăm sóc”. Cịn “chăm sóc” cha mẹ được
thể hiện thông qua nhiều hành động cụ thể như chăm lo cho sức khỏe của cha mẹ,
đảm bảo cho cha mẹ được tham gia các hoạt động giải trí,... Hoạt động “quan tâm,
13
chăm sóc” giữa các chủ thể khơng phụ thuộc vào việc con có sống cùng cha mẹ hay
khơng sống cùng cha mẹ.
Cùng với “quan tâm, chăm sóc” thì việc “ni dưỡng” thể hiện thêm một
khía cạnh của quyền được phụng dưỡng của cha mẹ. Hành vi “nuôi dưỡng” biểu
hiện thông qua việc người con sống cùng cha mẹ có sự chăm lo đời sống vật chất,
sức khỏe, tinh thần của cha mẹ. Do có mối quan hệ gắn bó giữa nội dung “chăm
sóc” và “ni dưỡng”, mà những biểu hiện của hành vi “ni dưỡng” mang tính
tương đồng với nội dung thực hiện việc “chăm sóc” cha mẹ đã được trình bày. Bên
cạnh việc thực hiện nghĩa vụ của những người con sống cùng cha mẹ thì những
người con sống riêng cũng có thể thực hiện quyền ni dưỡng cha mẹ thơng qua
việc hỗ trợ vật chất cho chính cha mẹ hoặc người đang trực tiếp nuôi dưỡng cha mẹ.
Và đây cũng thuộc nội hàm trong quyền được phụng dưỡng của cha mẹ: quyền
được cấp dưỡng. Trong ba nội dung của phụng dưỡng thì khái niệm “cấp dưỡng”,
đã được minh định bằng pháp luật. Cụ thể, khoản 24 Điều 3 Luật HNGĐ 2014 quy
định: “Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ
hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa
thành niên, người đã thành niên mà khơng có khả năng lao động và khơng có tài
sản để tự ni mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật
này”. Từ khái niệm này, có thể hiểu “cấp dưỡng cha mẹ” là việc con đóng góp tiền
hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cha mẹ không sống chung hoặc
trong trường hợp sống chung mà con không thực hiện nuôi dưỡng cha mẹ (thơng
qua phán quyết có hiệu lực của Tịa án).4
Hiện nay, việc nghiên cứu nội dung liên quan đến phụng dưỡng cha mẹ chỉ
được thể hiện qua việc tìm hiểu và phân tích, đánh giá từng hoạt động riêng lẻ là
“quan tâm, chăm sóc”, “ni dưỡng”, “cấp dưỡng” của con dành cho cha mẹ. Pháp
luật chưa có một khái niệm nào mang tính riêng biệt và khái quát vấn đề “phụng
dưỡng cha mẹ”. Thơng qua q trình tìm hiểu và nghiên cứu, tác giả nhận thấy có
một khái niệm mang tính tương đồng và có thể viện dẫn tham khảo để nghiên cứu
về “phụng dưỡng cha mẹ” là khái niệm về “Phụng dưỡng người cao tuổi” 5 được ghi
nhận trong Luật NCT năm 2009. Căn cứ khoản 1 Điều 10 Luật NCT 2009 ghi nhận
“Phụng dưỡng người cao tuổi là chăm sóc đời sống tinh thần, vật chất nhằm đáp
4
5
Xem Điều 107 và Điều 111 Luật HNGĐ 2014;
Khoản 1 Điều 10 Luật NCT 2009 ghi nhận rằng: “.”
14
ứng nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở, đi lại, chăm sóc sức khoẻ và các nhu cầu về vui
chơi, giải trí, thơng tin, giao tiếp, học tập của người cao tuổi”. Trên cơ sở khái
niệm này có thể đưa ra khái niệm “phụng dưỡng cha mẹ” như sau: “Phụng dưỡng
cha mẹ” là việc con thực hiện nghĩa vụ chăm sóc đời sống tinh thần,vật chất nhằm
đáp ứng nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở, đi lại; chăm sóc sức khoẻ và các nhu cầu về
vui chơi, giải trí, thơng tin, giao tiếp, của cha mẹ”.
- Khái niệm quyền được phụng dưỡng của cha mẹ
Hiện nay, trên thế giới cũng như tại Việt Nam thì quyền được chăm sóc, ni
dưỡng là quyền con người, là quyền cơng dân. Trong các văn bản của các tổ chức
quốc tế đã ghi nhận một số nội dung liên quan đến quyền được chăm sóc, ni
dưỡng. Với đối tượng cụ thể được bảo vệ là sức khỏe, tại Hiến chương của Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO) năm 1946 đã ghi nhận trong lời nói đầu rằng: “Bảo vệ sức
khỏe là quyền cơ bản của mọi người, không phân biệt chủng tộc, tơn giáo, quan
điểm chính trị, điều kiện kinh tế hay xã hội”. Hay Tuyên ngôn quốc tế về quyền con
người (UDHR) năm 1948 tại Điều 25 đã nhận định quyền được chăm sóc sức khỏe
là một phần của quyền được sống thích đáng.6 Với chủ thể có điều kiện cụ thể là
“người bệnh” thì trong văn bản pháp luật quốc tế và văn bản tại một số khu vực,
như: Tuyên ngôn về quyền của người bệnh của Hiệp hội Y tế Thế giới (Lisbonne
năm 1981, Bali năm 1995), Công ước Châu Âu về nhân quyền và y sinh học đã có
sự ghi nhận người bệnh có quyền được khám, chữa bệnh ốm đau, chăm sóc cấp cứu
kịp thời, được tơn trọng tính mạng và nhân phẩm.7 Bên cạnh đó, một số văn bản
quốc tế khác có nội dung liên quan đến quyền được chăm sóc của cá nhân, trong đó
có người cao tuổi, như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm
1966 (ICCPR) và Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội 1966
(ICESCR ), Công ước về các chế độ hưởng do tàn tật, tuổi già và tiền tuất năm 1967
(Công ước số 128 năm 1967), Công ước về an sinh xã hội năm 1952,…Tiếp cận ở
gốc độ mỗi quốc gia, Family Code of Slovenia 2017 (Luật Gia đình năm 2017 của
Nguyễn Vân Trang (2016), “Quyền được chăm sóc sức khỏe là quyền cơ bản của con người”, Tạp chí Xây
dựng pháp luật, Số 5 (290), trang 13;
7
Lương Thị Thu Hà, Nguyễn Thúy Hà (2019), “Quyền được chăm sóc sức khỏe trong các công ước quốc tế
và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới những giá trị có thể vận dụng đối với Việt Nam”, Tạp chí Thi
hành pháp luật, Số 2 (323);
6
15
Cộng hòa Slovenia)8, Bürgerliches Gesetzbuch 1896, last amended 2022 (Bộ luật
Dân sự Đức sửa đổi năm 2023)9, The Family Code of the Russian Federation 1995,
last amended 2021 (Bộ luật Gia đình Liên bang Nga năm 1995, sửa đổi năm
2021)10,…đã ghi nhận có những ghi nhận về quyền được cấp dưỡng của cha mẹ, ở
đó con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ, đặc biệt đối với cha mẹ tàn tật. Bên cạnh
đó, các quy định có thể hiện các nội dung chi tiết của chế định cấp dưỡng như là
điều kiện cấp dưỡng, mức cấp dưỡng, miễn trách nhiệm cấp dưỡng,…trong những
nội dung được trình bày, pháp luật Việt Nam đã có những điều luật ghi nhận, tuy
nhiên vẫn có những nội dung pháp luật Việt Nam cịn đang bỏ ngỏ, vì thế có thể
xem đây là một nguồn tham khảo mang tính khoa học để Việt Nam hồn thiện hệ
thống pháp luật về quyền được cấp dưỡng và cụ thể là quyền được phụng dưỡng
của cha mẹ.
Tại Việt Nam, các nội dung về quyền được chăm sóc sức khỏe đã được thể
hiện từ Sắc lệnh số 14 ngày 30/01/1946 về thành lập Nhà Thể dục trong Bộ Giáo
dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Sắc lệnh nêu rõ: “Mỗi người dân yếu ớt, tức là
cả nước yếu ớt, mỗi người dân khỏe mạnh tức là cả nước khỏe mạnh…dân cường
thì quốc mới mạnh”. Qua đây đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến
vấn đề sức khỏe tồn dân. Từ năm 1992 các chính sách về bảo hiểm y tế đã được
Nhà nước quan tâm và triển khai một cách mạnh mẽ. Luật Bảo hiểm Y tế năm 2008
(sửa đổi, bổ sung 2014) ra đời đã đảm bảo quyền lợi về sức khỏe của người dân
trong đó có cha mẹ, cha mẹ là người cao tuổi. Năm 2013, sự ra đời của Hiến pháp
đã một lần nữa khẳng định “Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe,…Các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác, của cộng đồng bị
nghiêm cấm”(Điều 38).11 Hiện nay các quy định về quyền của cha mẹ hay quyền
của NCT đã được ghi nhận tại một số văn bản pháp luật như Luật NCT 2009, Luật
HNGĐ 2014, Luật Phịng chống Bạo lực gia đình năm 2022 (Luật PCBLGĐ
2022),…
Family Code of Slovenia 2017 (Luật Gia đình năm 2017 của Cộng hòa Slovenia), Điều 185 ghi nhận: “Một
đứa trẻ trưởng thành, trong khả năng tốt nhất của mình, phải hỗ trợ cha mẹ nếu họ khơng có đủ nguồn lực
để sống và khơng thể có được chúng, nhưng miễn là cha mẹ thực sự hỗ trợ nó.”;
9
Bürgerliches Gesetzbuch 1896, last amended 2022 (Bộ luật Dân sự Đức sửa đổi năm 2023), Điều 1601 ghi
nhận: “Người thân trực hệ có nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau”;
10
The Family Code of the Russian Federation 1995, last amended 2021 (Bộ luật Gia đình Liên bang Nga
năm 1995, sửa đổi năm 2021), Điều 87 ghi nhận: “Con đã thành niên khỏe mạnh có nghĩa vụ ni dưỡng cha
mẹ tàn tật…tiền cấp dưỡng sẽ được yêu cầu từ những đứa trẻ trưởng thành…”;
11
Tlđd 6, trang 14, 15;
8
16
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về quyền được phụng dưỡng
của cha mẹ như sau: “Quyền được phụng dưỡng của cha mẹ là quyền cơ bản mà
pháp luật thừa nhận đối với cha mẹ; được biểu hiện qua việc cha mẹ được con (bao
gồm con ruột, con nuôi, con riêng, con dâu, con rể) quan tâm, chăm sóc, ni
dưỡng và cấp dưỡng trong khung khổ cần thiết. Quyền được phụng dưỡng của cha
mẹ được đảm bảo thông qua việc thực hiện nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni
dưỡng của con (đối với cha mẹ)”
- Đặc điểm của quyền được phụng dưỡng của cha mẹ
+ Mối quan hệ giữa chủ thể thụ hưởng quyền được phụng dưỡng và chủ thể
thực hiện nghĩa vụ phụng dưỡng: Trong quan hệ phụng dưỡng, chủ thể thụ hưởng
quyền được phụng dưỡng là cha mẹ và chủ thể thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, ni
dưỡng để cha mẹ thụ hưởng quyền được phụng dưỡng là con. Mối quan hệ phụng
dưỡng này được phát sinh trên những cơ sở đặc biệt: quan hệ huyết thống, quan hệ
nuôi dưỡng và quan hệ sống chung.
Quan hệ “huyết thống” là quan hệ giữa những người có cùng dịng máu trực
hệ hoặc những người có quan hệ trong phạm vi ba đời12. Đây là mối quan hệ cha mẹ
- con thiêng liêng không thể thay đổi được, mà cụ thể là dựa trên việc con được sinh
ra bởi cha mẹ của mình để xác định. Bởi tính chất “ruột thịt” của người có cùng
huyết thống với nhau, đã hình thành các quyền và nghĩa vụ như: nghĩa vụ nuôi
dưỡng con của cha mẹ, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, sức khỏe của con, tạo
điều kiện cho con học tập, vui chơi,…và ở chiều ngược lại, cha mẹ cũng có quyền
được con quan tâm, chăm sóc, ni dưỡng mà rộng hơn là quyền được phụng
dưỡng.
Quan hệ “nuôi dưỡng” được hiểu là quan hệ phát sinh từ sự kiện nhận nuôi
con nuôi13. Việc nhận con nuôi làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa con và
cha mẹ tương tự như mối quan hệ giữa con và cha mẹ được xác định dựa trên cơ sở
sinh đẻ - huyết thống. Theo khoản 3 Điều 68 Luật HNGĐ 2014, giữa con ni và
cha mẹ ni có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại Luật
Khoản 17 Điều 3 Luật HNGĐ 2014, “Những người cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ
huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau.”. Khoản 18 Điều 3 Luật HNGĐ 2014, “Những
12
người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng
cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cơ, con cậu, con dì là đời
thứ ba.”
Khoản 1 Điều 3 Luật NCN 2010, “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận
con nuôi và người được nhận làm con nuôi.”
13
17
HNGĐ 2014. Từ đây có thể hiểu cha mẹ ni cũng có quyền được phụng dưỡng bởi
con ni dưỡng.
Quan hệ sống chung là quan hệ phái sinh từ một cuộc hôn nhân, do hành vi
sống chung giữa các chủ thể. Theo đó, con riêng của một bên vợ hoặc chồng có
nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng cha dượng, mẹ kế theo Điều 79 Luật HNGĐ 2014;
con dâu, con rể có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng cha mẹ chồng, cha mẹ vợ theo
Điều 80 Luật HNGĐ 2014. Quyền và nghĩa vụ liên quan đến phụng dưỡng cha mẹ
trong trường hợp này cũng được phát sinh, bởi lẽ, khi sống cùng nhau những chủ
thể này có sự tương tác, gắn bó mật thiết với nhau.
+ Quyền được phụng dưỡng của cha mẹ được luật hóa từ các quy phạm đạo
đức, tập quán tốt đẹp
Mỗi quy định của pháp luật được hình thành đều dựa trên các quy phạm đạo
đức trong xã hội tại từng thời điểm. Tương tự như thế, quyền được phụng dưỡng
của cha mẹ - được biểu hiện thông qua các quyền được quan tâm, chăm sóc, ni
dưỡng, cấp dưỡng - cũng được luật hóa từ quy phạm đạo đức trong mối quan hệ
giữa cha mẹ và con. Với người Việt Nam, từ bao đời nay, đạo Hiếu luôn là chủ đề
được đặc biệt quan tâm. Đạo hiếu được hình thành trên nhiều quan điểm, giáo lý
khác nhau. Có thể kể đến, Phật giáo là một trong những đạo giáo có tầm ảnh hưởng
to lớn, đã giáo dục con người rằng: “Cha mẹ có cơng ơn sinh thành và dưỡng dục…
khi cha mẹ cịn tại thế, con cái có nghĩa vụ phụng dưỡng về vật chất và tinh thần
cho cha mẹ… Việc hiếu dưỡng cha mẹ về đời sống tinh thần là mục tiêu giáo dục
của Phật giáo”14. Trong lúc đó, Nho giáo là một hệ tư tưởng, mà ở đó các nội dung
về “hiếu để” là chuẩn mực đạo đức cơ bản, là phẩm chất đạo đức phải có của mỗi
con người, biểu hiệu bởi: “sự biết ơn cơng sinh thành, dạy dỗ, tự giác có trách
nhiệm, nghĩa vụ chăm nom, săn sóc, ni nấng phụng dưỡng cha mẹ lúc già yếu,
ốm đau; là tang ma chu đáo, tưởng nhớ công ơn khi cha mẹ mất”15. Thông qua
những dấu hiệu đặc trưng về quyền được phụng dưỡng của cha mẹ, tác giả nhận
thấy quyền được phụng dưỡng của cha mẹ phát sinh, quyết định, ràng buộc bởi yếu
tố nhân thân - mang tính tình cảm hoặc huyết thống.
+ Quyền được phụng dưỡng của cha mẹ mang tính nhân thân và tài sản
Đinh Thị Giang (2019), “Ảnh hưởng của đạo Hiếu trong Phật giáo đến lối sống người Việt ở đồng bằng
Bắc Bộ hiện nay”, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, trang 9;
15
Nguyễn Thị Thọ (2014), “Giá trị đạo đức của gia đình Việt Nam truyền thống trong bối cảnh tồn cầu
hóa”, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, Số 7(80), trang 99;
14
18
Chủ thể hưởng quyền phụng dưỡng chỉ có thể là cha mẹ, quyền này không
thể chuyển giao cho bất kỳ chủ thể nào khác. Nghĩa vụ thực hiện việc chăm sóc,
ni dưỡng nhằm đảm bảo quyền được phụng dưỡng của cha mẹ phải là những
người con. “Tính tài sản” trong quyền được phụng dưỡng không thể hiện việc con
và cha mẹ sẽ có sự trao đổi ngang giá giữa tài sản và nghĩa vụ phụng dưỡng. Yếu tố
tài sản trong quyền được phụng dưỡng của cha mẹ được biểu hiện qua nội dung như
dùng chi phí để thực hiện chăm sóc cha mẹ, chu cấp một khoản chi phí để hỗ trợ
cuộc sống của cha mẹ, chi trả các khoản về y tế, bảo hiểm cho cha mẹ,…
+ Quyền được phụng dưỡng của cha mẹ phát sinh khi có những điều kiện
nhất định
Về nguyên tắc, nội dung quyền được phụng dưỡng của cha mẹ phát sinh khi
có các điều kiện nhất định, có thể là yêu cầu về tinh thần, sức khỏe: “cha mẹ mất
năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật”16 hay độ tuổi của cha mẹ
(phụng dưỡng cha mẹ là NCT). Quyền được phụng dưỡng của cha mẹ là quyền
được đảm bảo thi hành trên thực tế thông qua việc thực hiện nghĩa vụ và quyền của
con đối với cha mẹ. Tùy điều kiện, hoàn cảnh của bản thân mà con thực hiện nghĩa
vụ chăm sóc, ni dưỡng hoặc cấp dưỡng để quyền của cha mẹ được đảm bảo.
1.1.2. Ý nghĩa của quy định về quyền được phụng dưỡng của cha mẹ
- Đối với các bên chủ thể quan hệ
Trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con thì việc quy định về quyền được
phụng dưỡng của cha mẹ có ý nghĩa quan trọng. Đối với chính cha mẹ - người được
thụ hưởng quyền phụng dưỡng. Trước tiên, cha mẹ được đảm bảo về mặt tinh thần,
cha mẹ ln hy vọng có sự gần gũi và gắn bó cùng con, khi nhận được quan tâm từ
con thì cha mẹ sẽ cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc. Song hành cùng phương diện tinh
thần thì việc con phụng dưỡng cha mẹ cũng được thể hiện qua những sự hỗ trợ vật
chất nhất định, giúp đời sống của cha mẹ sẽ được đảm bảo. Đối với con – chủ thể
thực hiện nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, ni dưỡng và cấp dưỡng, mang tính chuẩn
mực, ràng buộc, yêu cầu chủ thể phải thực hiện. Phụng dưỡng cha mẹ còn là truyền
thống quý báo của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, việc quy định về quyền được
phụng dưỡng của cha mẹ giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có cơ sở
để nhận thức và đánh giá các vấn đề một cách phù hợp, từ đó có những định hướng
và giải pháp thích hợp nhằm đảm bảo thực thi loại quyền đặc thù này một cách hiệu
16
Khoản 2 Điều 71 Luật HNGD 2014;
19
quả trên thực tế. Các chủ thể có liên quan bao gồm: Uỷ ban Nhân dân (UBND), với
tư cách là cơ quan hành chính – nhà nước, có trách nhiệm trong việc tổ chức hoạt
động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật; xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi trái pháp luật của con nhằm đảm bảo thực hiện quyền được phụng
dưỡng của cha mẹ. TAND – cơ quan tư pháp, giải quyết tranh chấp, yêu cầu phát
sinh giữa cha mẹ và con trong quan hệ về phụng dưỡng. Các cơ quan, tổ chức như
Hội Liên hiệp phụ nữ, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình,…có thẩm quyền u
cầu Tịa án ra phán quyết buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng để đảm bảo quyền
được phụng dưỡng của cha mẹ…
- Đối với xã hội
Các quy định pháp luật về quyền được phụng dưỡng của cha mẹ là sự điều
chỉnh cho một quan hệ xã hội đặc biệt: quan hệ cha, mẹ và con. Sự điều chỉnh này
sẽ tác động đến các ý nghĩa về mặt xã hội và cả đạo đức. Pháp luật về quyền được
phụng dưỡng của cha mẹ là cơ sở để củng cố chức năng của gia đình – tế bào xã
hội, tạo ra sự gắn bó giữa các thành viên trong gia đình, giúp ổn định xã hội dân sự.
Đây cũng là sự ấn định nghĩa vụ và quyền mang tính chuẩn mực để các chủ thể
cùng chung tay thực hiện giữ gìn truyền thống hiếu thảo tốt đẹp của gia đình Việt
Nam. Trong quan hệ gia đình, người Việt Nam ln đề cao chữ hiếu và coi đó là
“nết đầu trong trăm nết”, là phẩm chất đạo đức không thể thiếu của người Việt
Nam. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào của sự phát triển xã hội, gia đình ln là
“trường học đầu tiên của lòng nhân ái”.17
1.1.3. Lược sử pháp luật Việt Nam về quyền được phụng dưỡng của cha
mẹ
1.1.3.1.Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Trong thời kỳ phong kiến Việt Nam, các quy định liên quan đến quyền được
phụng dưỡng của cha mẹ đã từng được ghi nhận tại Quốc triều Hình luật và Hồng
Việt luật lệ. Trong Quốc triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức – Nhà Lê 1483) nghĩa
vụ và quyền phụng dưỡng cha mẹ được xác định thông qua các điều luật như: nghĩa
vụ phải vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà (khoản 7 Điều 2), nghĩa vụ chịu
tội roi, trượng thay cho ông bà, cha mẹ (Điều 38), nghĩa vụ che giấu tội cho ông bà,
cha mẹ (các Điều 9, 504), ngoại trừ trường hợp cha mẹ hay ông bà phạm các tội
Ngơ Thị Lan Anh, Hồng Thị Thủy (2018), “Ý nghĩa của đạo hiếu đối với quan hệ gia đình ở Việt Nam
hiện nay”, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 191(15), trang
13;
17