Tiểu luận
Đề tài: "Di chúc hợp pháp theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam"
1
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Đối
tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận
7. Kết cấu tiểu luận
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI CHÚC VÀ DI CHÚC
HỢP PHÁP
1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại di chúc
1.1. Khái niệm
1.2. Đặc
điểm của di chúc
1.3. Phân loại di chúc
2. Khái niệm và đặc điểm của di chúc hợp pháp
2.1. Khái niệm di chúc hợp pháp
2.2. Đặc điểm di chúc hợp pháp
3. Lược sử quy định về điều kiện để di chúc là hợp pháp theo quy định
của pháp luật dân sự Việt Nam
3.1. Di chúc hợp pháp theo quy định pháp luật Việt Nam giai đoạn
trước năm 1945
3.2. Di chúc hợp pháp theo quy định pháp luật Việt Nam giai đoạn từ
năm 1945 đến năm 1990
2
3.3. Di chúc hợp pháp theo pháp luật Việt Nam giai đoạn từ năm
1991 đến năm 2016
3.4. Di chúc hợp pháp theo quy định Việt Nam từ năm 2017 đến nay
4. Cơ sở lý luận và thực tiễn của quy định về di chúc hợp pháp
5. Sự khác biệt giữa di chúc hợp pháp và di chúc có hiệu lực pháp luật
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
DI CHÚC HỢP PHÁP
1. Quy định pháp luật về điều kiện để di chúc hợp pháp
1.1. Người lập di chúc phải có năng lực lập di chúc
1.2. Người lập di chúc phải hoàn toàn tự nguyện
1.3. Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật và khơng
trái đạo đức xã hội
1.4. Hình thức của di chúc không trái quy định của pháp luật
2. Đánh
giá quy định pháp luật hiện hành về di chúc hợp pháp
2.1. Những ưu điểm đạt được
2.2. Những hạn chế còn tồn tại
3. Thực tiễn áp dụng quy định về điều kiện để di chúc là hợp pháp trong
giải quyết các tranh chấp về thừa kế tại tòa án nhân dân
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định về điều kiện để di chúc là hợp pháp
trong giải quyết các tranh chấp về thừa kế tại tòa án nhân dân và
những khó khăn, vướng mắc
3.2. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
3.3. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo di chúc
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
3
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN, NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ DI
CHÚC LÀ HỢP PHÁP
1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực tiễn pháp luật
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
4
Danh mục từ viết tắt
BLDS
Bộ luật dân sự
UBND
Ủy ban nhân dân
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ thuở xa xưa kể từ khi con người bắt đầu có sự tư hữu tài sản,
khi một người chết để lại khối tài sản mà người đó tạo dựng, sở hữu thơng
qua q trình lao động khi người đó cịn sống, thì việc xử lý khối tài sản đó
của người đã chết để phân chia cho những người còn sống là vấn đề đã được
đặt ra. Tuy nhiên, ở mỗi hình thái kinh tế xã hội khác việc xử lý khối tài sản
do người chết để lại được thực hiện theo những cách khác nhau. Ở hình thái
kinh tế xã hội cộng sản nguyên khi xã hội chưa có nhà nước, việc xử lý khối
tài sản thừa kế chủ yếu xử lý thông qua các phong tục, tập quán, cách hành xử
của xã hội lúc bấy giờ. Quan hệ thừa kế gắn với quan hệ hôn nhân, huyết
thống và nuôi dưỡng. Khi một thành viên trong gia đình chết đi thì tài sản của
người chết chuyển cho người khác cịn sống. Tài sản của ông, bà, cha, mẹ để
lại cho con cháu là công sức, thành quả của họ đạt được khi còn sống. Khi bắt
đầu xuất hiện nhà nước, đồng thời cũng chính là sự xuất hiện của pháp luật thì
vấn đề thừa kế ln đặt ra xun suốt trong các quy định của pháp luật dân
sự, quan hệ thừa kế khơng chỉ gói gọn trong quan hệ gia đình, huyết thống,
ni dưỡng mà người để lại di sản có quyền bằng ý chí của mình thể hiện
trong di chúc định đoạt tài sản của mình cho bất kỳ ai, cho bao nhiêu… Hình
thức thừa kế như vậy được gọi là thừa kế theo di chúc.
Tuy nhiên, để ý chí đó của người để lại di sản được tơn trọng và thực
hiện thì một trong những điều kiện tiên quyết là bản di chúc họ để lại phải
hợp pháp, tức là phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện luật định. Mỗi một thể chế
chính trị, mỗi một hệ thống pháp luật có quy định khác nhau về điều kiện để
một bản di chúc là hợp pháp.
Ở Việt Nam bắt đầu từ Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật Dân sự năm
1995 đến Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015 đều quy định rất
chi tiết về điều kiện để di chúc là hợp pháp. Tuy nhiên, để xác định như thế nào
là một bản di chúc hợp pháp là một vấn đề không hề đơn giản do các quy định
6
của pháp luật còn chưa rõ ràng, trong thực tiễn áp dụng có nhiều cách hiểu
khác nhau. Điều này đã dẫn đến tình trạng một số vụ án tranh chấp về thừa kế
có liên quan đến tính hợp pháp của di chúc xét xử nhiều lần mà không khiến
cho những người trong cuộc "tâm phục khẩu phục". Không những thế, do trình
độ nhận thức về pháp luật của người dân cịn chưa cao, khi họ thể hiện ý chí
(lập di chúc) thường không chú ý đến các điều kiện mà pháp luật quy định về
di chúc hợp pháp, do đó khi người lập di chúc chết rất dễ dẫn đến tranh chấp
giữa những người thừa kế, gây mất đoàn kết gia đình, đồng thời hậu quả là di
chúc bị vơ hiệu một phần hoặc tồn bộ làm cho ý chí của người để lại di sản
được thể hiện trong di chúc khơng được tơn trọng và thực hiện. Vì vậy, việc
nghiên cứu những quy định của pháp luật dân sự hiện hành về điều kiện để di
chúc là hợp pháp nhằm đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi của lý luận và thực tiễn.
Với những lý do đó, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Di chúc hợp
pháp theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam"làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp đại học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thừa kế luôn là nội dung được nghiên cứu, dành được sự quan tâm rất
lớn trong lĩnh vực khoa học pháp lý. Trong đó thừa kế theo di chúc nói chung
và các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng đã được hầu hết các luật
gia, các nhà lập pháp của các nước trên thế giới nghiên cứu
Ở Việt Nam, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học về lĩnh
vực thừa kế. Trong đó có một số cơng trình của một số tác giả tiêu biểu như:
- Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay:
Luận án tiến sĩ luật học/Phùng Trung Tập, Hà Nội - 2002
- Thừa kế theo di chúc theo quy định của BLDS: Luận án tiến sĩ luật
học/Phạm Văn Tuyết, Hà Nội - 2003
- Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa kế trong
BLDS: Luận án tiến sĩ luật học/Nguyễn Minh Tuấn, Hà Nội, 2007
7
- Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay:
sách chuyên khảo của TS. Phùng Trung Tập, Nxb Tư pháp, 2004
- Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam của TS.
Nguyễn Ngọc Điện, Nxb Trẻ, 1999
- Luật thừa kế Việt Nam: sách chuyên khảo của TS. Phùng Trung Tập,
Nxb. Hà Nội, 2008
- Pháp luật thừa kế của Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn của
TS. Nguyễn Minh Tuấn, Nxb Lao động - Xã hội, 2009
- Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp của TS. Phạm
Văn Tuyết và TS. LS Lê Kim Giang, Nxb Tư pháp, 2013,…
Liên quan đến di chúc hợp pháp, ở những khía cạnh khác nhau, cho đến
nay đã có một số cơng trình nghiên cứu liên quan đã được một số tác giả đề
cập đến như : Công trình nghiên cứu "Thừa kế theo di chúc trong luật dân sự
Việt Nam" của Giáo sư Vũ Văn Mẫu; "Thừa kế theo di chúc trong quy định
của Bộ luật dân sự Việt Nam"của TS. Phạm Văn Tuyết; "Những qui định của
Bộ luật dân sự (Dự thảo) về sự sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc và hiệu lực
của di chúc" của tác giả Phùng Trung Tập đăng trên Tạp chí Luật học số
2/1995, tr. 46 – 51; "Những khó khăn, vướng mắc trong việc lập di chúc và
chứng nhận di chúc" của tác giả Thái Công Khanh đăng trên Tạp chí Tồ án
nhân dân, số 13/2010, tr. 32 - 34, 39…. Tuy vậy, các cơng trình trên mới chỉ
dừng lại ở việc nghiên cứu một cách khái quát về điều kiện để một bản di
chúc là hợp pháp theo pháp luật dân sự Việt Nam, hoặc chỉ tiếp cận dưới một
vài góc độ điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp .
Với tình hình trên, đề tài "
Di chúc hợp pháp theo quy định của pháp
luật dân sự Việt Nam"hồn tồn khơng có sự trùng lặp với các cơng trình
nghiên cứu khoa học đã được cơng bố.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài khóa luận
a. Đối tượng nghiên cứu
8
Khóa luận nghiên cứu những vấn đề lý luận về di chúc hợp pháp; các
quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về điều kiện để di chúc là hợp pháp.
Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này thơng qua hoạt động xét xử
của Tịa án nhân dân trong những năm gần đây.
b. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận khơng đi vào nghiên cứu tồn diện những quy định của pháp
luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng, mà chỉ tập trung
nghiên cứu về một số vấn đề lý luận về di chúc hợp pháp; các điều kiện để di
chúc là hợp pháp được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Qua đó tác
giả sẽ phân tích, làm rõ các quy định của Bộ luật dân sự hiện hành, trên cơ sở
có đối chiếu, so sánh với các quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005. Mặt
khác, khóa luận cũng sẽ nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định trong
pháp luật dân sự hiện hành về điều kiện để di chúc là hợp pháp trong việc giải
quyết các tranh chấp về thừa kế tại các tòa án nhân dân các cập trong phạm vi
cả nước từ năm 2006 đến nay.
4. Mục
đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là nhằm làm rõ những quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2015 về di chúc hợp pháp; đánh giá việc áp dụng các quy
định này trên thực tiễn; phân tích một số vướng mắc, bất cập trên thực tiễn
khi áp dụng các quy định pháp luật về di chúc hợp pháp từ đó đề xuất một số
kiến nghị nhằm hồn thiện các quy định pháp luật vấn đề này.
Để đạt được mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề sau:
+ Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận liên quan tới di chúc và
di chúc hợp pháp;
+ Phân tích và nêu bật được nội dung các quy định của pháp luật hiện
hành về di chúc hợp pháp;
9
+ Đưa ra thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về các
điều kiện để di chúc là hợp pháp, đồng thời chỉ ra những vướng mắc và bất
cập của những quy định đó;
+ Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm áp dụng có hiệu quả các
quy định pháp luật về điều kiện để di chúc là hợp pháp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư
tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật cũng như sử dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Đối với hoạt động nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự
Việt Nam từ trước giai đoạn 1945 đến nay;
- Phương pháp so sánh: Sử dụng trong Chương 1 khi so sánh các quy
định trong pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kì. Phương pháp so sánh
cũng được sử dụng trong Chương 1 khi đề cập tới quan điểm của các tác giả
về vấn đề có liên quan tới đối tượng nghiên cứu của đề tài. Phương pháp này
cũng được sử dụng trong Chương 2 khi so sánh giữa các hình thức di chúc
theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 với quy định về hình thức di chúc
trong Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Phương pháp phân tích, quy nạp, diễn giải được sử dụng xuyên suốt
trong toàn bộ đề tài để làm rõ những vấn đề được đưa ra.
- Ngồi ra đề tài có sử dụng một số phương pháp khác như phương
pháp giả định, tình huống…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của Pháp luật
Dân sự Việt Nam trong khuôn khổ đề tài sẽ khơng chỉ có ý nghĩa rất quan
trọng về mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa rất to lớn trong việc hạn chế các tranh
10
chấp dân sự liên quan đến hình thức di chúc, hồn thiện các quy định pháp
luật dân sự về hình thức di chúc
- Luận văn đã khái quát được những vấn đề lý luận về di chúc, thừa kế
theo di chúc và hình thức của di chúc, tạo nền tảng lý luận cho việc phân tích
các quy định pháp luật Việt Nam về hình thức di chúc;
- Luật văn đã khái quát quá trình hình thành và phát triển các quy định về
hình thức di chúc theo pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn đã chỉ rõ
được những bước phát triển trong các quy định pháp luật về di chúc và hình
thức di chúc;
- Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, Luận văn đã đề xuất một
số giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật về hình thức di chúc hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn:
Kết cấu của luận văn bao gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về di chúc và di chúc hợp pháp
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về di chúc hợp
pháp
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thi
hành các quy định về điều kiện để di chúc là hợp pháp
11
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI CHÚC VÀ DI CHÚC HỢP PHÁP
1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại di chúc
1.1. Khái niệm
Di chúc đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, với đủ các hình
thức khác nhau. Trong Kinh Cựu ước – bộ sách lớn nhất, cổ nhất và nguyên
vẹn nhất còn được lưu truyền đến ngày nay, người xưa đã chép lại rằng bản di
chúc của Noe đã được viết bằng tay, rồi được ơng đóng con dấu của mình lên
để chứng thực; hay như việc Jacob, bằng lời nói, đã để lại cho Joseph phần tài
sản gấp đôi so với những người con khác của mình...
Có thể câu chuyện từ trong kinh sách tôn giáo không thể là một bằng
chứng xác thực cho bất cứ một vấn đề mang tính thực tiễn nào, nhưng ít nhất
từ những mẩu chuyện như thế, ta cũng có thể nhận thấy rằng: ngay trong
lịng thế giới cổ đại, di chúc đã xuất hiện, và xuất hiện với rất nhiều hình thức
đa dạng khác nhau, có thể bằng bản viết tay, cũng có thể chi bằng lời nói.
Điều này là minh chứng cho vị trí, vai trò của di chúc trong đời sống xã hội.
Di chúc là cơ sở quan trọng nhất để thể hiện ý chí của cá nhân nhằm
chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết và cũng là cơ sở để xác
lập quyền sở hữu di sản của người được hưởng di sản thừa kế đối với di sản
thừa kế.
Trong thực tế cuộc sống tồn tại hai khái niệm “Di chúc” và “Chúc thư”.
Trong thực tế, di chúc được gọi với nhiều thuật ngữ khác nhau như “Di chúc”,
“Chúc thư”, “Chúc ngơn”. Trong đó, “Di chúc” là thuật ngữ dùng để chỉ các
di chúc nói chung, “Chúc thư” là thuật ngữ chỉ về các di chúc viết (di chúc
văn bản), “Chúc ngôn” là thuật ngữ chỉ về các di chúc miệng. Do đó, tất cả
các thuật ngữ này đều là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản
của mình cho người khác sau khi chết. Về mặt pháp lý, BLDS 2005 chỉ sử
dụng thuật ngữ Di chúc, không sử dụng trực tiếp thuật ngữ Chúc thư và Chúc
12
ngôn. Tuy nhiên, BLDS vẫn qui định về Di chúc bằng văn bản và Di chúc
miệng. Theo quy định tại điều 646 Bộ luật dân sự 2005, di chúc được hiểu là
“sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác
sau khi chết”.
Di chúc là ý chí chủ quan của người có tài sản định đoạt tài sản của mình
cho người khác sau khi chết. Theo luật gia Ulpian thì: “Di chúc là sự thể hiện
ý chí của chúng ta và ý chí đó được thực hiện sau khi chúng ta chết”.
Luật La Mã quy định trong di chúc không được phép “im lặng bỏ qua” đối
với hàng thừa kế thứ nhất (các con, nếu con chết thì các cháu). Nếu “im lặng
bỏ qua” thì di chúc được coi là vơ hiệu cho dù di chúc đó có tuân thủ đầy đủ
các điều kiện khác. Ví dụ ơng A có ba người con là B, C, D, ông để lại di
chúc với nội dung: “Tôi cho hai con tôi là B và C mỗi đứa một nửa tài sản”
mà không ghi “truất quyền thừa kế của D” thì di chúc vơ hiệu vì đã im lặng
bỏ qua D. Nếu A chết tài sản sẽ được chia theo luật cho B, C, D.
Di chúc được thể hiện dưới hai hình thức: bằng văn bản và bằng lời nói.
Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng
nói của dân tộc mình. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe
doạ, do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng
văn bản, thì có thể lập di chúc bằng lời nói. Di chúc bằng lời nói chỉ được coi
là hợp pháp, nếu người di chúc bằng lời nói thể hiện ý chí cuối cùng của mình
trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng
ghi chép lại, cùng kí tên hoặc điểm chỉ. Sau 3 tháng, kể từ thời điểm lập di
chúc bằng lời nói mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di
chúc bằng lời nói bị huỷ bỏ.
Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau, thì người cơng bố di chúc và những người thừa kế phải cùng
nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của
người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế
theo di chúc. Nếu những người này khơng nhất trí về cách hiểu nội dung di
13
chúc, thì coi như khơng có di chúc và di sản được thừa kế theo pháp luật.
Tóm lại, theo quy định của BLDS thì “di chúc là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm dịch chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Với
quy định này thì di chúc phải có các yếu tố sau:
– Đó là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là của bất cứ chủ
thể nào khác;
– Mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản là di sản của mình cho
người khác;
– Chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết.
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do đó di
chúc phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dâ sư nói chung và
điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Vì vậy một người muốn định đoạt
tài sản của mình bằng di chúc, cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật
về thừa kế theo di chúc. người lập di chúc có quyền để lại tài sản là di sản của
mình cho bất cứ ai dựa trên tình cảm và ý chí của họ. Theo quy định của
BLDS thì có hai hình thức của di chúc là di chúc miệng và di chúc bằng văn
bản. Tại Điều 649 quy định “ di chúc phải được thành lập thành văn bản;
nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng…”
1.2. Đặc điểm của di chúc
Theo Điều 646 BLDS 2005, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân trong
việc chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Di chúc có
những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, di chúc thể hiện ý chí của người để lại di chúc trong việc định đoạt
tài sản của mình. Một trong những ngụyên tắc cơ bản của việc giải quyết thừa
kế theo di chúc là phải tơn trọng ý chí của người để lại di sản. Nếu như người
để lại di sản lập di chúc về việc phân chia di sản cho người khác thì căn cứ
vào nguyện vọng của người để lại di sản được ghi nhận trong bản di chúc,
phần tài sản sẽ phải được ưu tiên phân chia theo ý chí của người để lại di sản.
14
Đó chính là sự tơn trọng ý chí của người để lại di sản.
Điều 631 Bộ luật dân sự 2005 quy định: Cá nhân có quyền lập di chúc để
định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo
pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Mọi cá nhân đều
bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Ý chí của người để lại di sản thừa kế
được thể hiện qua các quyền của người lập di chúc là:
- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di
sản.
Hai là, di chúc ghi nhận sự chuyển dịch tài sản của người để lại di sản cho
người được hưởng thừa kế sau khi người đó chết.
Có thể khẳng định di chúc là một giao dịch dân sự đặc biệt. Bộ luật dân sự
quy định rõ, giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự. Một
giao dịch dân sự có hiệu lực khi thỏa mãn các điều kiện theo quy định tại
Điều 122 BLDS. Tính đặc biệt của di chúc được thể hiện ở những khía cạnh
sau đây:
- Di chúc chỉ phát sinh hiệu lực thực tế khi người để lại di sản thừa kế
chết;
- Việc định đoạt tài sản thừa kế phải tuyệt đối tuân thủ theo nội dung của
di chúc, không được thay đổi hay giải thích nội dung của di chúc;
- Việc kiểm chứng/đối chiếu di chúc là rất khó khăn vì người để lại di sản
15
thừa kế đã chết.
Ba là, di chúc chỉ được coi là hợp pháp nếu nó đáp ứng đầy đủ các điều
kiện do pháp luật quy định.
Di chúc chứa đựng ý chí đơn phương của người để lại di sản thừa kế. Di
chúc chỉ phát sinh hiệu lực khi người để lại di sản thừa kế chết. Do vậy, luật
pháp yêu cầu di chúc phải đáp ứng những điều kiện nhất định đã được quy
định tại điều 652 Bộ luật Dân sự 2005 thì bản di chúc đó mới được coi là hợp
pháp và chỉ khi là một bản di chúc hợp pháp thì ý chí của người để lại di sản
thừa kế là muốn chuyển dịch tài sản của mình cho ai mới được công nhận và
bảo đảm thực hiện. Trong trường hợp nếu nội dung di chúc không rõ ràng,
hoặc nghi ngờ về tính chính xác thì bản di chúc đó có thể bị huỷ bỏ.
Bốn là, di chúc chỉ có hiệu lực pháp luật từ thời điểm người lập di chúc
chết.
Đây là điểm khác biệt cơ bản nhất của di chúc với một hợp đồng dân sự.
Nếu hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết hợp đồng thì thời
điểm bắt đầu có hiệu lực của di chúc được xác lập kể từ khi người lập ra nó
chết.
Năm là, di chúc ln trong tình trạng có thể bị người lập ra nó huỷ bỏ.
Xuất phát từ đặc điểm chủ sở hữu có tồn quyền trong việc định đoạt khối tài
sản thuộc quyền sở hữu của mình, do đó, người lập di chúc hồn tồn có
quyền huỷ bỏ di chúc mà mình đã lập trước đó để định đoạt lại khối tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình. Vì vậy, di chúc đã lập khơng mang tính cố
định, nó có thể bị thay đổi bất cứ lúc nào, việc thay đổi này phụ thuộc vào ý
chí của người lập di chúc. Bởi lẽ, di chúc chỉ là hình thức để ghi lại ý chí của
họ. Nói một cách khác đi, người lập di chúc có ý định hình thành quan hệ
16
thừa kế giữa mình với người có tên trong di chúc. Sự định đoạt trong di chúc
thể hiện ý chí đơn phương, không phụ thuộc vào một cam kết hay một thoả
thuận nào. Do vậy, trong thời gian còn sống, người lập di chúc có thể thay đổi
một, một số hoặc toàn bộ nội dung của di chúc tuỳ thuộc vào hồn cảnh, mơi
trường, tình cảm hiện tại. Chính vì vậy pháp luật thừa kế quy định từ thời
điểm mở thừa kế, nếu một người để lại nhiều bản di chúc thì chỉ bản di chúc
nào thể hiện ý chí tự nguyện sau cùng mới được coi là có hiệu lực. Các di
chúc lập ra trước đó đều được coi là chưa từng tồn tại.
Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc vào bất kỳ
lúc nào. Nếu có người lập nhiều di chúc thì di chúc sau có giá trị hơn di chúc
trước. Để bảo đảm cho việc thay đổi nội dung di chúc được tiến hành theo
quy định của pháp luật và bảo đảm tính pháp lý của các lần thay đổi, luật
pháp cần quy định chặt chẽ việc sửa đổi, bổ sung di chúc. Có thể khẳng định
rằng, việc xác định các điều kiện có hiệu lực của di chúc là nội dung quan
trọng và truyền thống của chế định thừa kế theo di chúc.
Trước đây, Luật La Mã quy định khá chặt chẽ các điều kiện để một di
chúc có hiệu lực như: người lập di chúc phải có khả năng lập di chúc (con gái
từ 12 tuổi, con trai từ 14 tuổi trở lên, không bị tâm thần, không phạm trọng
tội); hình thức di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật (di chúc viết
phải được quan tòa, quan chấp chính chứng thực, di chúc miệng phải có bảy
người làm chứng, người thừa kế phải được chỉ định rõ ràng, chính xác);
1.3. Phân loại di chúc
Căn cứ theo quy định tại Điều 627 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc phải
được lập thành văn bản, nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có
thể di chúc miệng. Cụ thể:
a. Di chúc bằng văn bản
Căn cứ theo quy định Điều 628 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc bằng văn
bản bao gồm: di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng; di chúc bằng
17
văn bản có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có cơng chứng; di chúc
bằng văn bản có chứng thực.
*Di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng
Căn cứ theo quy định tại Điều 633 Bộ luật Dân sự 2015, người lập di chúc
phải tự viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc phải thể hiện các nội dung
chủ yếu sau: ngày, tháng, năm lập di chúc; họ tên và nơi cư trú của người lập
di chúc; họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; di sản để lại và
nơi có di sản; ngồi ra, di chúc có thể có những nội dung khác. Di chúc không
được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi
trang phải ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc
người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.
* Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
Trường hợp người lập di chúc khơng tự mình viết bản di chúc thì có thể tự
mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng
phải có ít nhất hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ
vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng, những người làm chứng
xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc
lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội
dung của di chúc tại Điều 631 Bộ luật Dân sự 2015 và quy định về người làm
chứng cho việc lập di chúc tại Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015.
Đối với quy định về người làm chứng, căn cứ theo quy định tại Điều 632
Bộ luật Dân sự 2015, mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc,
trừ những trường hợp sau đây:
- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
- Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến nội dung di chúc;
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
18
* Di chúc bằng văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực
Người lập di chúc có thể u cầu cơng chứng hoặc chứng thực bản di
chúc.
Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân
cấp xã phải tuân thủ theo thủ tục sau đây:
- Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước cơng chứng
viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Cơng
chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã phải
ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc
ký tên hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi nhận bản di chúc đã được
ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Cơng chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã ký vào bản di
chúc.
- Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe
được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người
làm chứng và người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước công
chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã.
Cơng chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp
xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm
chứng.
Tuy nhiên, một số trường hợp, Cơng chứng viên, người có thẩm quyền
của UBND cấp xã không được công chứng, chứng thực đối với di chúc nếu
thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
+ Người có cha, mẹ, vợ hoặc chống, con là người thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật;
+ Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
19
Ngồi ra, người lập di chúc có thể u cầu cơng chứng viên tới chỗ ở của
mình để lập di chúc.
Các trường hợp di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công
chứng hoặc chứng thực:
- Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp
đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng
thực.
- Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người
chỉ huy phương tiện đó.
- Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều
dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viên, cơ sở đó.
- Di chúc của người đang làm cơng việc khảo sát, thăm dị, nghiên cứu ở
vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị.
- Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngồi có chứng nhận của
cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó.
- Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt
tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục,
cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.
b. Di chúc miệng
Căn cứ theo quy định tại Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc miệng có
thể được lập trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và
khơng thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng; sau 03 tháng
kể từ thời điểm di chúc miêng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn,
sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên hủy bỏ.
Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý
chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi
20