Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận chính sách công phân tích thực trạng công tác chính sách ở việt nam hiện nay đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác chính sách ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.34 KB, 35 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: KHOA HỌC CHÍNH SÁCH CƠNG
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CƠNG TÁC CHÍNH SÁCH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ CƠNG TÁC
CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Trong nền hành chính nhà nước, chính sách cơng là bộ phận nền tảng
trọng yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành
khác của nền hành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - cơng
chức; tài chính cơng.
Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chính sách công là công cụ
tiền đề, không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp
luật, kế hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những
năm gần đây Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao
vai trị của chính sách cơng như là một cơng cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước nói riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi
mới nói chung. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao và phức tạp của quản
lý nhà nước thì hoạt động hoạch định và thực thi chính sách cơng ở nước ta
đang ở trong bối cảnh nào và đặt ra những vấn đề gì cần giải quyết?
Để làm được điều đó cần có sự hồn thiện quy trình của cơng tác chính
sách bao gồm hoạch định chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính
sách. Đây được xem là những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của


một chính sách cơng. Việc thực hiện tốt cơng tác chính sách cơng khơng chỉ
góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chính sách mà cịn khẳng định
tính đúng đắn của chính sách,vai trị của chủ thể trong việc thực thi chính
sách, góp phần nâng cao niềm tincủa đối tượng quản lý đối với chủ thể chính
sách cũng như niềm tin của nhân dân đối với các cấp Uỷ Đảng và chính
quyền.
Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trị, ý nghĩa của cơng tác chính sách;
những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo,
phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong việc phối hợp triển khai

1


thực hiện các chính sách của nhà nước và đạt được những kết quả tích cực.
Nền kinh tế có bước phát triển và tăng trưởng khá; đất nước ta từng bước
vượt ra khỏi tình trạng các nước kém phát triển; chủ động tham gia vào quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. An ninh quốc phịng được giữ vững; chính trị
ổn định. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, góp phần xây
dựng một thế giới, hịa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, việc tổ chức cơng tác chính sách
trong thời gian qua vẫn cịn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới. Vì vậy việc nghiên cứu, phân tích cơng tác chính sách
vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, nhằm khắc phục tình
trạng chồng chéo, trùng lắp, đùn đẩy, giữa các tổ chức trong hệ thống chính
trị, góp phần nâng cao hiệu quả chính sách cơng. Từ tất cả lý do đó, tác giả
chọn đề tài “Phân tích thực trạng cơng tác chính sách ở Việt Nam hiện nay.
Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác chính
sách ở Việt Nam”.
2.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1.

Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng cơng tác chính sách ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đề
xuất các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác chính sách ở Việt
Nam.
2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa lý thuyết về cơng tác chính sách, bao gồm hoạch định
chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính sách.
Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác chính
sách ở Việt Nam.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

-

Đối tượng

Cơng tác chính sách, bao gồm hoạch định chính sách, thực thi chính
sách và đánh giá chính sách.
2



-

Phạm vi :

Trên cơ sở lý luận của công tác chính sách cơng ở Việt Nam, đồng thời
làm sáng tỏ sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng vào việc xác định
mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ năm 1986 đến nay.
4.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1.

Cơ sở lý luận

Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chính sách công và quan điểm, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách cơng.
4.2.

Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của chính sách cơng, đề tài sử dụng tổng
hợp các phương pháp như: Phương pháp hệ thống, phương pháp logic- lịch
sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, gắn lý thuyết
với thực tiễn,…
5.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

5.1.


Về mặt lý luận

Đề tài đã tổng hợp lý luận về cơng tác chính sách cơng, bao gồm hoạch
định chính sách, thực thi chinh sách và đánh giá chính sách
5.2. Về mặt thực tiễn
Đề tài thực hiện đánh giá thực trạng cơng tác chính sách công của Đảng
và Nhà nước trong thời gian hiện nay. Những số liệu trong q trình nghiên
cứu góp phần khẳng định được sự hợp lý, chưa hợp lý trong cơng tác chính
sách của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay và từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm hồn thiện cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
6.

Kết cấu của tiểu luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo tiểu luận
gồm 2 Chương
Chương 01: Cơ sở lý luận về cơng tác chính sách
Chương 02: Thực trạng cơng tác chính scahs ở Việt Nam hiện nay
Chương 03: Các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác
chính sách ở Việt Nam
3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC CHÍNH SÁCH
1.1.

Chính sách cơng


Chính sách cơng có thể được nhìn nhận như sau:
Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà
nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính
sách nói chung của mỗi nước.
Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách cơng phản ánh và thể hiện hoạt
động cũng như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng
hóa, dịch vụ cơng cộng cho nền kinh tế.
Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng
để: (i) Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ cơng cho nền
kinh tế, khuyến khích cả với khu vực công và cả với khu vực tư; (ii) Quản lý
nguồn lực công một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế,
chính trị, xã hội, mơi trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách
khác chính sách cơng là một trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch
định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách
nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản
công, tài nguyên đất nước.
Mặc dù đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về chính sách cơng
nhưng có thể hiểu đơn giản: đó là định hướng hành động được nhà nước lựa
chọn, phù hợp với đường lối chính trị để giải quyết những vấn đề chung của
xã hội trong một thời kỳ nhất định. Với quan niệm đó, chính sách cơng có vai
trị to lớn trong hoạt động quản lý xã hội của nhà nước.
1.2.

Công tác chính sách

1.2.1. Khái niệm
Cơng tác chính sách là q trình từ hoạch định chính sách, thực thi
chính sách, đưa vào thực tế và dánh giá tác động của chính sách trong và sau
khi thực hiện.
4



1.2.2. Hoạch định chính sách
1.2.2.1.

Khái niệm

Q trình hình thành chính sách cơng trên thực tế là q trình các quần
thể lợi ích đưa ra u cầu của mình và các chủ thể chính sách căn cứ vào yêu
cầu lợi ích của xã hội để điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích phức tạp.
Quy trình hay chu trình hoạch định chính sách là một khái niệm để chỉ
một hoạt động mang tính khép kín từ khâu đầu cho đến khâu cuối và đó cũng
chính là điểm bắt đầu cho hoạt động chính sách ở mức độ cao sâu hơn. Như
vậy nói quy trình hay chu trình hoạch định đều phải hiểu hoạt động hoạch
định chính sách cơng diễn ra theo một lơgic, có trật tự và đặc biệt có tính kế
thừa rất cao.
“Mơ hình khái niệm coi q trình hoạch định và thực hiện chính sách
cơng như việc lần lượt thực hiện các bước sau: Lập nghị trình hành động, lập
chính sách hay ra quyết định, triển khai thực hiện, đánh giá chương trình hay
phân tích tác động và cuối cùng là những phản hồi dẫn tới việc xem xét lại
hay chấm dứt. Vì vậy nó là chu kỳ khép kín”.
1.2.2.2. Cơ sở khoa học của việc hoạch định chính sách
Cơ sở khoa học của việc hoạch định chính sách chính là các điều kiện
tổng quát (tài chính – con người – thẩm quyền chính trị) để một chính sách có
thể thực thi và đem lại hiệu quả, được hình dung ở các khía cạnh rất cơ bản sau:
Cơ sở kinh tế: Khoa học kinh tế về sử dụng tài nguyên và các nguồn
lực cung cấp luận cứ và luận chứng cho các vấn đề chính sách.
Cơ sở chính trị: Chính sách thể hiện bản chất của quyền lực giai cấp,
đại diện cho lợi ích của tồn dân tộc, thể hiện được trình độ phát triển của đất
nước thơng qua tính giai cấp – tính dân tộc – tính khoa học có trong chính

sách.
Hệ giá trị của giai cấp cầm quyền (tư tưởng, văn hóa, kinh tế,…):
Chính sách đúng là chính sách đồng thời cũng là lựa chọn chính trị, do đó thể
hiện tư tưởng, quan điểm của giai cấp thống trị trên mọi mặt.
5


1.2.2.3.

Quy trình hoạch định chính sách

Quy trình hoạch định chính sách gồm có 7 bước
Bước 1: Nêu lí do hoạch định chính sách.
Bước 2: Xây dựng dự thảo các phương án chính sách.
Bước 3:Lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất.
Bước 4: Hoàn thiện phương án lựa chọn.
Bước 5: Thẩm định phương án CS.
Bước 6: Quyết nghị ban hành chính sách.
Bước 7: Cơng bố chính sách.
1.2.3. Thực thi chính sách
1.2.3.3.

Khái niệm và ý nghĩa

Tổ chức thực thi chính sách là tồn bộ q trình chuyển hố ý chí của
chủ thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt
mục tiêu định hướng.
Tổ chức thực thi chính sách có vị trí rất quan trọng, nó là một khâu hợp
thành chu trình chính sách, nếu khuyết thiếu cơng đoạn này thì chu trình
chính sách khơng thể tồn tại vì nó là trung tâm kết nối các bước trong chu

trình chính sách thành một hệ thống, nhất là với thực thi chính sách, bước này
là bước quan trọng khơng thể thiếu vì nó là khâu hiện thực hố chính sách vào
đời sống xã hội. Chúng ta đều nhận thấy hoạch định một chính sách tốt là hết
sức khó khăn và trải qua rất nhiều công đoạn nhưng cho dù chính sách có tốt
đến mấy nhưng khơng được tổ chức thực thi hay thực thi kém thì nó cũng
khơng mang lại hiệu quả, không đạt được mục tiêu mà uy tín của Nhà nước
cịn bị ảnh hưởng. Như vậy qua sự phân tích trên thì chúng ta có thể thấy
được vai trị quan trọng của thực thi chính sách cơng.
Tổ chức thực thi chính sách để từng bước thực hiện các mục tiêu chính
sách và mục tiêu chung. Mục tiêu của chính sách có liên quan đến nhiều vấn
đề, nhiều lĩnh vực nên không thể cùng một lúc giải quyết hết tất cả mà phải
lần lượt, và việc thực thi chính sách cơng giải quyết các vấn đề trong mối
6


quan hệ biện chứng với mục tiêu chung do đó nó có thể giải quyết các vấn đề
đặt ra. Trong thực tế mục tiêu chính sách chỉ có thể đạt được thơng qua thực
thi chính sách, đồng thời các mục tiêu của chính sách có quan hệ và ảnh
hưởng đến mục tiêu chung. Thực thi chính sách để khẳng định tính đúng đắn
của chính sách có nghĩa là chính sách này được thực thi triển khai rộng rãi
trong đời sống xã hội và được xã hội chấp nhận thì điều này cũng phản ánh
tính đúng đắn của chính sách này và ngược lại.
Qua thực thi giúp chính sách ngày càng hồn chỉnh vì chúng ta đều biết
chính sách do một tập thể hoạch định nên, nhưng cũng không tránh khỏi ý
kiến chủ quan làm ảnh hưởng tới hiệu quả của chính sách, để khắc phục điều
này thì khi chính sách được thực thi thì qua đó rút kinh nghiệm và chỉnh sửa
để hồn thiện chính sách.
1.3.2.2. Các bước thực thi chính sách.
Trong thực thi chính sách gồm 7 bước cơ bản sau:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, đây là

bước cần thiết và quan trọng vì tổ chức thực thi chính sách là q trình phức
tạp, lại diễn ra trong thời gian dài do đó phải có kế hoạch.
Bước 2: Phổ biến, tun truyền chính sách. Đây là cơng đoạn tiếp theo
sau khi chính sách đã được thơng qua. Nó cũng cần thiết vì giúp cho nhân
dân, các cấp chính quyền hiểu được về chính sách và giúp cho chính sách
được triển khai thuận lợi và có hiệu quả. Để làm được việc tuyên truyền này
thì chúng ta cần được đầu tư về trình độ chun mơn, phẩm chất chính trị,
trang thiết bị kỹ thuật.... Vì đây là địi hỏi của thực tế khách quan.
Bước 3: Phân cơng phối hợp thực hiện chính sách. Một chính sách
thường được thực thi trên một địa bàn rộng lớn và nhiều tổ chức tham gia do
đó phải có sự phối hợp, phân cơng hợp lý để hồn thành tốt nhiệm vụ. Mặt
khác các hoạt động thực thi mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp chúng đan
xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm bởi vậy nên cần phối hợp giữa các cấp,
ngành để triển khai chính sách.
7


Nếu hoạt động này diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách một
cách chủ động khoa học sáng tạo thì sẽ có hiệu quả cao, và duy trì ổn định.
Bước 4: Duy trình chính sách, đây là bước làm cho chính sách tồn tại được và
phát huy tác dụng trong mơi trường thực tế. Để duy trì được chính sách địi
hỏi phải có sự đồng tâm, hiệp lực của nhiều yếu tố như nhà nước và người tổ
chức thực thi chính sách phải tạo điều kiện và mơi trường để chính sách được
thực thi tốt. Đối với người chấp hành chính sách phải có trách nhiệm tham gia
tích cực vào thực thi chính sách. Nếu các hoạt động này được tiến hành đồng
bộ thì việc duy trì chính sách là việc làm khơng khó
Bước 5: Điều chỉnh chính sách, việc làm này là cần thiết, diễn ra
thường xuyên trong q trình tổ chức thực thi chính sách. Nó được thực hiện
bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thơng thường cơ quan nào lập
chính sách thì có quyền điều chỉnh). Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được

việc giữ vững mục tiêu ban đầu của chính sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp,
cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt động này phải hết sức cẩn thận và chính xác,
khơng làm biến dạng chính sách ban đầu.
Bước 6: Theo dõi, kiểm tra, đơn đốc việc thực hiện chính sách. Bất cứ
triển khai nào thì cũng phải kiểm tra, đơn đốc để đảm bảo các chính sách này
được thực hiện đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.
Bước 7: Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm, khâu này được tiến hành liên tục
trong thời gian duy trì chính sách. Trong q trình này ta có thể đánh giá từng
phần hay tồn bộ chính sách ở việc đánh giá này phải tiến hành đối với cả các
cơ quan nhà nước và đối tượng thực hiện chính sách.
1.2.4. Đánh giá chính sách
1.2.4.1.

Khái niệm

Đánh giá chính sách là xem xét, nhận định về giá trị các kết quả đạt
được khi ban hành và thực thi một chính sách cơng.
Để có thể đi vào cuộc sống, chính sách cơng được thể chế hóa thành các
quy định pháp luật. Việc nhìn nhận và đánh giá chính sách do đó thường gắn
8


với sự đánh giá những quy định pháp luật này có phù hợp với những yêu cầu
của cuộc sống hay không và chúng được vận hành như thế nào trên thực tế.
Tuy nhiên, chính sách cơng khơng chỉ thể hiện trong các quy định pháp
luật, chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch, chủ trương hoạt động
của nhà nước. Do đó, đánh giá chính sách cơng sẽ bao qt việc xem xét về
tổng thể các quyết định của nhà nước (chính phủ trung ương và chính quyền
địa phương) trong việc giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt ra trong thực tiễn
quản lý nhà nước. Đánh giá chính sách cho phép xem xét, nhận định không chỉ

về nội dung chính sách, mà cịn về q trình thực thi chính sách, từ đó có biện
pháp điều chỉnh phù hợp với đòi hỏi thực tế để đạt các mục tiêu mong đợi.
1.2.4.2.

Đặc trưng của chính sách

Bao gồm:
Đánh giá chính sách tập trưng vào việc phán xét các giá trị thu đc.
Đánh giá chính sách là 1 nỗ lực để xác định giá trị hay tính hữu dụng xã hội
của một chính sách. Quan trọng nhất, đánh giá chính sách cung cấp các thơng
tin thực tế và có giá trị về thực thi chính sách. Đánh giá thể hiện mức độ đạt
đc các mục tiêu hoặc các chỉ tiêu cụ thể.
Đánh giá chính sách căn cứ vào những kết quả thực tế. Các ý kiến đánh
giá phải dựa vào thực tiễn, điều đó có ý nghĩa là các kết quả của chính sách
thực thi là thành quả của hành động giải quyết các vấn đề cụ thể. Đánh giá
chính sách căn cứ vào những kết quả đã có trong quá khứ và hiện tại.
1.2.4.3.

Các hình thức đánh giá chính sách

Thứ nhất, đánh giá theo phương pháp chun mơn: là hình thức đánh
giá bằng cách sử dụng các pp chuyên môn hay những thước đo giá trị không
thể tranh cãi để đánh giá những kết quả đạt đc so với tình trạng trước khi
thực hiện chính sách, cũng như với các nguồn lực đã huy động vào quá trình
thực thi. Các phương pháp đượcc sử dụng: kế toán, kiểm toán, nghiên cứu và
tổng hợp.

9



Thứ hai, đánh giá dựa vào các mục tiêu và chỉ tiêu chính thức: đây là
hình thức đánh giá dựa trên cơ sở so sánh các kết quả đạt đc với những mục
tiêu và chỉ tiêu chính thức mà các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách
cơng bố.
Thứ ba, đánh giá thơng qua thăm dị ý kiến của các đối tượng chính
sách: hình thức này lấy căn cứ là nguyện vọng hay các mục tiêu mà các đối
tượng chính sách mong muốn đạt được. Các phương pháp đượcc sử dụng:
phỏng vấn, phiếu thăm dò, điều tra nhanh….
1.2.4.4.

Các yếu tố ảnh hưởng tới thực thi chính sách.

1.2.4.5.

Trong q trình thực thi chính sách sẽ có liên quan đến

nhiều tổ chức, cá nhân vì thế kết quả tổ chức thực thi chính sách cũng sẽ chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó có yếu tố chủ quan và khách quan. Cụ thể:
-

Yếu tố khách quan: là các yếu tố xuất hiện và tác động đến tổ

chức thực thi chính sách từ bên ngoài, độc lập với ý muốn của chủ thể quản
lý, các yếu tố này vận động theo quy luật khách quan nên ít tạo sự biến đổi do
đó cũng khó gây sự chú ý của các nhà quản lý nhưng lại tác động lớn đến quá
trình thực thi chính sách, đó là các yếu tố:
Tính chất của vấn đề chính sách là yếu tố gắn liền với mỗi chính sách
nó có tác động trực tiếp đến hoạch định và thực thi chính sách có nghĩa là nếu
vấn đề chính sách đơn giản liên quan đến ít đối tượng thì thực thi sẽ dễ dàng
và đơn giản hơn. Như vậy, tính chất của vấn đề có ảnh hưởng khách quan đến

việc tổ chức thực thi chính sách nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn.
Mơi trường thực thi chính sách là yếu tố liên quan đến các hoạt động
kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, an ninh quốc phịng...điều này nói lên rằng
một mơi trường ổn định ít biến đổi về chính trị sẽ đưa tới sự ổn định về hệ
thống chính sách và thực thi thuận lợi. Nếu các bộ phận của mơi trường ổn
định thì nó sẽ tạo cho các hoạt động thực thi dễ dàng.
Mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi chính sách là sự thể hiện thống
nhất hay không về lợi ích của các đối tượng trong quá trình thực hiện mục
10


tiêu chính sách. Nếu mối quan hệ này có mâu thuẫn thì sẽ ảnh hưởng đến
cơng tác tổ chức.
Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách được hiểu là thực lực và
tiềm năng của các nhóm trong mối quan hệ so sánh với các nhóm đối tượng
khác. Tiềm lực này thể hiện trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội....
Đặc tính của đối tượng chính sách là những tính chất đặc trưng mà các
đối tượng có được từ bản tính cố hữu hoặc do mơi trường sống tạo nên, các
đặc tính như tính tự giác, kỷ luật, sáng tạo.... gắn liền với mỗi đối tượng thực
thi chính sách do đó cần biết cách khơi dậy hay kiềm chế nó để có kết quả tốt
nhất cho q trình thực thi chính sách.
-

Yếu tố chủ quan: là các yếu tố thuộc về cơ quan công quyền, do

cán bộ công chức chủ động chi phối đến quá trình thực thi chính sách nên nó
có ảnh hưởng lớn đến việc thực thi.
Thực thi đúng đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực thi chính
sách, các bước này được coi là nguyên lý khoa học được đúc kết từ thực tiễn
cuộc sống, việc tuân thủ quy trình là một nguyên tắc quản lý.

Năng lực thực thi chính sách của cán bộ công chức trong bộ máy quản
lý nhà nước là yếu tố chủ quan có vai trị quyết định đến kết quả tổ chức thực
thi chính sách cơng. Năng lực thực thi của cán bộ, công chức là các tiêu chí về
đạo đức, cơng cụ, năng lực nếu thiếu các điều kiện này thì việc thực thi sẽ
khơng hiệu quả. Cịn nếu các cán bộ, cơng chức có năng lực mà kết hợp với
các yếu tố khác thuận lợi sẽ mang lại một kết quả thực sự.
Điều kiện vật chất cần cho q trình thực thi chính sách là yếu tố ngày
càng có vị trí quan trọng để cùng yếu tố nhân sự và các yếu tố khác thực thi
thắng lợi chính sách cơng. Các điều kiện vật chất này là các trang thiết bị nhà
nước đầu tư cho quá trình quản lý và khi thực thi chính sách thì họ dùng để
tuyên truyền, phổ biến các chính sách.
Sự đồng tình ủng hộ của nhân dân là nhân tố có vai trò đặc biệt quan
trọng quyết định sự thành bại của 1 chính sách. Các chính sách là những vấn
đề lớn lao, do đó cần có sự đóng góp sức người, sức của trong suốt quá trình
thực thi.
11


CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG CƠNG TÁC CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng hoạch định chính sách ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Những kết quả đạt được
Quy trình hoạch định chính sách ở nước ta được thực hiện tuần tự các
bước như sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các
phương án chính sách, lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện
phương án lựa chọn, thẩm định phương án chính sách, quyết nghị ban hành
chính sách, cơng bố chính sách.
Thời gian qua, việc hoạch định chính sách cơng ở nước ta đã cho ra đời
nhiều chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện
cụ thể là đã góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta trong hơn

30 năm thực hiện công cuộc đổi mới.
Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định chính sách cơng đã đạt được
một số kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực
trọng yếu, cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã
hội, qn sự, ngoại giao…).
Một số chính sách cơng quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn,
bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập
và hoàn thiện được một hệ thống chính sách cơng khá phù hợp, đáp ứng được
u cầu ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp
ứng được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế
thị trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế tồn cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền
lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối
đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt
12


Nam của cá nhân khi xuất nhập cảnh, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá
nhân, chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nơng nghiệp…
Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế
lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền
kinh tế trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như
những phản ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế
toàn cầu và khu vực.
2.1.2. Những hạn chế
Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách cơng như nêu trên cũng cịn
bộc lộ một số tồn tại, đó là:
Thứ nhất, các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các

cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính
sách thường là do các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan đặc biệt của Chính
phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện.
Như vậy, chính sách cơng được ban hành dựa trên suy xét, phân tích
tình hình thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của từng cơ quan
nhà nước. Sự tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng góp
vào xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh
hưởng bởi chính sách là rất hạn chế.
Rất ít các chính sách cơng được ban hành xuất phát từ ý tưởng của
những đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực
hiện chính sách do những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những
nguyên nhân cơ bản làm cho một số chính sách tính khả thi thấp, hoặc khi
thực thi không đem hiệu quả như nhà quản lý mong muốn.
Thứ hai, các ý tưởng hoạch định chính sách được đề xuất, và dự thảo
chính sách chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu là do các bộ, ngành, UBND
tỉnh, thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ, bản vị; đề xuất
dựa trên mong muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phương do mình quản
lý mà khơng tính tới tổng thể chung.
13


Thứ ba, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và căn cứ vào tình
hình quản lý, các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố để đề xuất dự thảo chính
sách trong lĩnh vực quản lý được giao và cũng chính là cơ quan dự thảo, do
đó thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính tồn diện.
Ví dụ: Thực hiện Nghị quyết số 89/2015/QH13 của Quốc hội khóa 13,
kỳ họp thứ 9 thơng qua n gày 09/6/2015 về điều chỉnh chương xây dựng luật,
pháp lệnh nhiệm kỳ quốc hội khóa 13, năm 2015 và chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2016 và Quyết định số 1273/QĐ-TTg ngày 7/8/2015 của
Thủ tướng Chính phủ về phân cơng cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp

lệnh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Cục phát triển doanh nghiệp) được phân cơng
chủ trì xây dựng dự án Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ngày 25/12/2015 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức Phiên họp thứ
nhất để công bố quyết định thành lập và ra mắt Ban soạn thảo và Tổ biên tập
của Dự án Luật và tiến hành bàn bạc, góp ý để xây dựng đề cương, bộ khung
cho Dự án Luật.
Mặc dù trong danh sách Ban soạn thảo và Tổ biên tập có đầy thủ các
thành viên của các Bộ, Ngành (đặc biệt là Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà
nước, Bộ Cơng Thương...), nhưng trong phiên họp quan trọng này đều khơng
có mặt của các thành viên của các Bộ, Ngành được coi là quan trọng như đã
nêu ở trên. Như vậy, rõ ràng, tính phối hợp trong các chương trình ban hành
chính sách giữa các Bộ, Ban, Ngành là khơng cao.
Có thể nói rằng hiện tượng việc của Bộ nào thì Bộ ấy lo vẫn cịn là điều
phổ biến. Do khơng có mặt trong cuộc họp nên chắc chắn sự thống nhất trong
từng vấn đề chính sách là khơng có, do vậy rất dễ khi chính sách đó được thực
thi thì sự chênh chính sách, chồng chéo chính sách hoặc mâu thuẫn, trái
ngược về chính sách là rất dễ xảy ra.
Thứ tư, quy trình hoạch định chính sách cịn bị khép kín; việc lấy ý
kiến tham gia của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách

14


cịn ít, nếu có thì hình thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể
hiện tính chủ động.
Mặt khác, chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân
dân, các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là
vơ hình chung làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng hạn,
trong hoạch định chính sách việc dự báo chính sách rất quan trọng.
Thời gian qua, khi một số biến động về giá cả, tình trạng lạm phát trên

thế giới và ở nước ta, cho thấy việc dự báo chính sách cịn nhiều yếu kém. Dự
báo chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong hoạch định
chính sách khơng có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học thì việc dự
báo chính sách gặp rất nhiều khó khăn.
Trong q trình hoạch định chính sách cơng chưa tạo được kênh thơng
tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng
của chính sách. Trong khi đó, chính sách khơng thể là ý muốn chủ quan của
cơ quan nhà nước, càng khơng phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm quyền
mà xuất phát từ hiện thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức
một cách biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế – xã hội và có
các phương án giải quyết phù hợp với thực tế. Một chính sách đúng đắn phải
từ thực tế khách quan.
Thứ năm, năng lực của đội ngũ tham gia hoạch định chính sách cịn hạn
chế. Điều này dẫn đến tình trạng bỏ sót vấn đề chính sách hoặc nhìn nhận
cách giải quyết vấn đề chưa đúng. Do tầm nhìn hạn hẹp của đội ngũ hoạch
định chính sách nên khi chính sách đưa vào thực thi mới nảy sinh nhiều bất
cập hoặc tình trạng chưa thực thi đã vấp phải phản đối của dư luận và phải
sửa (ví dụ điều 60 của Luật Bảo hiểm xã hội).
Thứ sáu, cơng tác hoạch định chính sách cơng hiện nay chưa theo kịp
với tình hình hội nhập của đất nước. Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế, các chính sách cơng bị nhiều chi phối, ảnh hưởng không chỉ ở

15


phạm vi nhất định trong lãnh thổ của một quốc gia mà còn bị chi phối bởi các
yếu tố mang tính tồn cầu.
Chẳng hạn như chính sách đối với vấn đề phát triển nông nghiệp. Qua
sự kiện giá gạo trên thị trường thế giới bị đẩy lên cao, vấn đề an ninh lương
thực đặt ra… Chính sách phát triển nơng nghiệp ở nước ta cần phải có sự tính

tốn, cân nhắc, điều chỉnh lại. Như vậy, chính sách cơng của một quốc gia
cũng đang phải chịu nhiều sự chi phối ở mức độ và phạm vi rộng lớn hơn.
Trong việc hoạch định chính sách cơng cần phải có sự tổng kết, phân
tích, đánh giá tình hình, tác động ảnh hưởng tới q trình thực hiện chính
sách, các biện pháp thực hiện chính sách, và từ đó làm căn cứ để lựa chọn
phương án chính sách phù hợp với thực tế.
Thứ bảy, việc đánh giá tác động của chính sách trước khi ban hành hiện
nay tại Việt Nam còn rất hạn chế. Việc phản biện chính sách trước khi ban
hành là việc làm rất quan trọng để có thể lường trước được những mặt tiêu
cực có thể do thực thi chính sách mang lại cho đối tượng chịu tác động trực
tiếp của chính sách đó. Hiện nay các nước trên thế giới hoạt động phản biện
chính sách là một khâu rất quan trọng nhưng tại Việt Nam thì hoạt động này
lại bị coi nhẹ.
Do tồn tại những thực trạng trên cho nên dẫn tới hệ quả là các chính
sách thực thi hiệu quả chưa cao như: kết quả phát triển kinh tế - xã hội cịn
thấp; các chính sách khi đưa vào thực thi có khi khơng thực sự phù hợp với
địa phương đó do thiếu sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành; chính sách xóa đói
giảm nghèo cịn chồng chéo nên dẫn đến hiệu quả không cao; đào tạo nguồn
nhân lực hay là các chính sách khác triển khai cịn nhiều bất cập.v.v
2.2. Thực trạng thực thi chính sách ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Khái quát thực trạng thực thi chính sách ở nước ta
Ở nước ta, chính sách được hiến định tại Điều 26 Hiến pháp 1992, sửa
đổi năm 2001: "Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách...". Như vậy, chính sách cơng là một
16


trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Song hiện nay đang tồn tại cụm từ
"chính sách của Đảng và Nhà nước". Thực tế, ở nước ta, Đảng lãnh đạo

Nhà nước và xã hội thông qua việc vạch ra các cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng chính sách - Đó chính là những căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban
hành các chính sách cơng. Các chính sách cơng là do Nhà nước ban hành.
Các chính sách này là sự cụ thể hóa đường lối, chiến lược và các định
hướng chính sách của Đảng. (Do vậy việc đề cập tới chính sách cơng ở đây
được hiểu là các chính sách cơng do Nhà nước ban hành). Chính sách cơng
ở Việt Nam thường được thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp
luật nhằm tạo căn cứ pháp lý cho việc thi hành, song nó bao gồm những
phương án hành động khơng mang tính bắt buộc, mà có tính định hướng,
kích thích phát triển.
Hiện nay, nhiều vấn đề chính sách ở Việt Nam đang được các đại biểu
Quốc hội mổ xẻ. Trong diễn đàn Quốc hội, đã có những ý kiến bàn về vai trị
của các nhóm tư vấn, nghiên cứu độc lập, có đề xuất về việc các đại biểu quốc
hội nên được trao quyền trình các dự án luật... Tuy nhiên, theo GS. Kenichi
Ohno, Việt Nam đang có một quy trình chính sách có một khơng hai. Hầu hết
chính sách được xây dựng với sự can dự hạn chế của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp chỉ được phép có ý kiến sau hoặc khi có vấn đề phát sinh. Chính sách
được xây dựng trên cơ sở các phân tích và mục tiêu khơng thực tế, khơng
được giới doanh nghiệp ủng hộ. Hơn nữa, khi thực thi các chính sách khơng
có sự phối hợp giữa các Bộ, ngành; chỉ là bản liệt kê các chính sách mà thiếu
kế hoạch hành động cụ thể. Mỗi Bộ, ngành có nhiều kế hoạch nhưng lại
không xác định được lĩnh vực ưu tiên. Vì vậy, Việt Nam nên bắt đầu một quy
trình chính sách mới, với sự tham gia cả tất cả các bên liên quan, bao gồm:
Chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu dùng, người nước ngoài, các nhà tài trợ,
các nhà khoa học, chuyên gia. Đôi khi, các doanh nghiệp hoặc các nhà khoa
học có thể vạch ra một chiến lược trình Chính phủ. Chính sách khơng đơn
17


thuần chỉ là một văn bản hành chính của Nhà nước. Qua nghiên cứu và vận

dụng chính sách cơng ở Việt Nam, có thể thấy:
- Đây là vấn đề là khá mới ở nước ta, vì trước đây vẫn có quan niệm về
tài sản công, sử dụng nguồn lực công, nhưng theo quan niệm, theo nhận thức
công hữu, sở hữu cơng cộng, của chung đất nước, của tồn dân. Do nhận thức
chưa đúng đắn, chưa đầy đủ về chính sách công theo quan niệm mới, hiện đại
nên trên thực tế việc tổ chức thực thi chính sách quản lý cịn nhiều yếu kém,
lãng phí. Vì vậy, cần phải làm rõ nội hàm chính sách cơng, cả từ khái niệm,
các phạm trù, nội dung, các đặc điểm, các yếu tố tác động, chi phối chính
sách cơng.
Nghiên cứu về chính sách cơng ở Việt Nam cần đặt trong bối cảnh
đang trong quá trình chuyển đổi, vừa xóa bỏ cái cũ, vừa tiếp thu cái mới, tính
đan xen giữa cơ hội và thách thức trong xu thế tồn cầu hóa như một tất yếu,
có thành, có bại, do đó phải có niềm tin, có định hướng cơ bản về vấn đề
nghiên cứu. Đồng thời, cần phải có cách tiếp cận hệ thống, cơ bản, tổ chức
nghiên cứu, đào tạo, thu hút chuyên gia về chính sách cơng, hợp tác quốc tế
với các trung tâm, các viện nghiên cứu ở các nước về lĩnh vực chính sách
cơng, nhất là với các nước phát triển.
2.2.2. Những hạn chế
Có thể khẳng định rằng có được chính sách công đúng đắn mới chỉ là
“điều kiện cần” để đưa chính sách vào cuộc sống. Tổ chức thực thi là “điều
kiện đủ” của chính sách cơng. Nói như vậy để thấy rõ mối quan hệ có tính
quyết định giữa các khâu trong q trình thực thi chính sách. Tuy nhiên, trong
thực tế vẫn tồn tại những chính sách ban hành chưa sát thực tiễn nên thực hiện
hiệu lực, hiệu quả thấp.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về nội dung và u cầu của
chính sách có khi chưa đầy đủ, rõ ràng và kịp thời tới những đối tượng liên
quan (nhà chức trách, những người thực thi và người dân), dẫn đến hiểu sai.

18



- Các văn bản hướng dẫn nhiều khi không rõ ràng, thống nhất, thậm chí
mâu thuẫn nhau. Tình trạng luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng phải chờ nghị
định và thông tư hướng dẫn diễn ra khá phổ biến, cản trở việc áp dụng.
- Sự phân công nhiệm vụ giữa các đơn vị tổ chức thực thi chính sách
chưa thực sự khoa học, vẫn có sự chồng chéo, trùng lặp giữa quyền hạn và lợi
ích. Cơ chế phối hợp giữa các cấp và giữa các cơ quan đồng cấp chưa chặt
chẽ, đặc biệt trong việc chia sẻ, trao đổi, công khai thơng tin. Bên cạnh đó,
một bộ phận trong đội ngũ cán bộ, cơng chức thiếu năng lực, trình độ và sự
trong sạch trong thực thi chính sách cũng đang là một trong những ngun
nhân bóp méo, thậm chí đi ngược lại mục tiêu của chính sách.
- Những quy chế, thủ tục lập ra trong quá trình tổ chức thực thi chính
sách thường thiếu tính ổn định tương đối, gây xáo trộn cho q trình thực thi
chính sách cơng. Thủ tục hành chính cịn nhiều phức tạp, rắc rối gây khó
khăn, cản trở việc thực thi chính sách.
Sự thiếu cơ chế theo dõi và đánh giá làm cho việc đánh giá kết quả
thực hiện các chính sách cơng trở nên khó khăn, khơng có các thơng tin đáng
tin cậy về những hoạt động tốt và những địi hỏi cần hồn thiện.
2.3. Thực trạng đánh giá chính sách ở Việt Nam hiện nay
2.3.1. Khái quát thực trạng đánh giá chính sách ở Việt Nam
Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, địi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra
những nhân tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy,
trong một thời gian khá dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban
hành các thể chế, nhằm tạo các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã
hội. Việc ban hành hàng loạt văn bản pháp luật trong khơng ít trường hợp dẫn
đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy
định pháp lý, mà cuối cùng là sự chi phối của chúng đối với các hoạt động
kinh tế – xã hội theo các chiều khác nhau, khiến cho những hoạt động này
không đạt được mục tiêu mong muốn. Nói cách khác, hàng loạt chính sách

19



×