Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.19 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN:
ĐỀ TÀI
BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN

Họ và tên

:

Mã số sinh viên

:

Lớp

:

Khoá

:

Hà Nội, năm 2023


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................2
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ cổ đông thiểu số...............................2


1.1. Nội dung pháp luật Việt Nam về bảo vệ cổ đông thiểu số...............................2
1.2. Hạn chất, bất cập của pháp luật Việt Nam về bảo vệ cổ đông thiểu số............5
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số........................................7
2.1. Những kết quả đạt được...................................................................................7
2.2. Những hạn chế, bất cập...................................................................................9
3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số ở Việt
Nam.......................................................................................................................... 11
KẾT LUẬN................................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................14


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CTCP
BKS
ĐHĐCĐ
HĐQT

Công ty Cổ phần
Ban kiểm sát
Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị


1

LỜI MỞ ĐẦU
Công ty cổ phần (CTCP) là loại hình doanh nghiệp có mô hình quản trị phức
tạp nhất trong các loại hình doanh nghiệp đang tồn tại hiện nay. Tính đối vốn hoàn
toàn trong bản chất của loại công ty này khiến cho công ty có thể dễ dàng huy động
vốn từ việc kết nạp rộng rãi các cổ đông. Tuy nhiên, điều đó cũng tiềm ẩn nguy cơ gây

mất cân bằng quyền lợi giữa các cổ đông, khi các cổ đông lớn có thể dựa vào phần cổ
phần mình nắm giữ để thâu tóm, chèn ép gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các cổ đông nhỏ hay còn gọi là cổ đông thiểu số. Do đó ở hầu hết các quốc
gia trên thế giới, pháp luật đều rất quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông,
nhất là của cổ đông thiểu số. Chỉ số bảo vệ cổ đông thiểu số được coi là một trong
những tyêu chí quan trọng để đánh giá môi trường kinh doanh, đầu tư ở mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, các quy định về bảo vệ cổ đông thiểu số đã được xây dựng, hoàn thiện
qua từng thời kì, tuy nhiên vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần phải xem xét và khắc
phục để bảo vệ các cổ đông và cải thiện môi trường đầu tư. Mặc dù đã có nhiều cố
gắng trong việc hoàn thiện khung pháp lí song thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ
cổ đông thiểu số ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài:
“Bảo vệ cổ đông thiểu số trong Công ty cổ phần” là đề tài cho bài luận của mình.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm của một
số quốc gia như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore, tác giả đưa ra kiến nghị sửa đổi các
quy định pháp luật liên quan đến việc thực hiện quyền của cổ đông thiểu số và cơ chế
kiểm soát, hỗ trợ bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số.


2

NỘI DUNG
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ cổ đông thiểu số
1.1. Nội dung pháp luật Việt Nam về bảo vệ cổ đông thiểu số
Mặc dù pháp luật Việt Nam chưa có quy định định nghĩa về cổ đông thiểu số
nhưng dưới góc độ pháp lí cũng như thực tiễn, “ cổ đông thiểu số được hiểu là các cổ
đông nắm giữ tỉ lệ cổ phần nhỏ và bị hạn chế về khả năng quản lí, chi phối, kiểm soát
hoạt động của CTCP”.1 Việc phải bảo vệ cổ đông thiểu số là việc làm cần thiết bởi lẽ
mối quan hệ giữa các cổ đông lớn và cổ đông thiểu số ngày càng trở nên bất bình
đẳng, dẫn đến việc quyền và lợi ích hợp pháp các cổ đông thiểu số dễ bị xâm phạm,
mặt khác cổ đông thiểu số rất khó khăn trong việc tự bảo vệ mình và bị coi là nhà đầu

tư không có tiếng nói trong chính công ty mà mình là đồng sở hữu. Do đó, “trong suốt
gần 30 năm phát triển, từ khi có Luật công ty năm 1990, đến Luật doanh nghiệp năm
1999, Luật doanh nghiệp năm 2005, Luật chứng khoán năm 2006, 2014 và hiện nay là
Luật doanh nghiệp năm 2020 và Luật Chứng khoán 2020, pháp luật đã đặt ra nhiều
quy định để cân bằng lợi ích giữa các cổ đông, cung cấp cho các cổ đông thiểu số công
cụ pháp lí để bảo vệ quyền lợi đương nhiên của mình.”2
Cơ chế bảo vệ cổ đông thiểu số trước hết phải lấy cơ sở từ các quyền hợp pháp
mà các cổ đông đó được hưởng, đây được xem là yếu tố quan trọng để các cổ đông tự
bảo vệ mình. Sau đó, cơ chế kiểm soát nội bộ công ty, cơ chế quản lí của Nhà nước
đóng vai trò là yếu tố bổ trợ để bảo vệ việc thực thi các quyền của cổ đông thiểu số.
Nhìn chung, pháp luật Việt Nam đã có khá nhiều sự đổi mới phù hợp, quy định tương
đối đầy đủ về quyền của các cổ đông thiểu số. Cho dù họ là những người nắm ít, thậm
chí là rất ít vốn trong công ty nhưng họ vẫn được hưởng những quyền chung của một
cổ đông phổ thông là: quyền biểu quyết, quyền được chia cổ tức tương ứng với phần
cổ phần mà mình sở hữu, quyền chuyển nhượng cổ phần, quyền yêu cầu công ty mua
lại cổ phần khi có đủ điều kiện theo quy định... Bên cạnh đó tuỳ vào tỉ lệ cổ phần nắm
giữ mà pháp luật trao cho họ những quyền sau:
Đỗ Thái Hàn (2012), Bảo vệ Cổ đông thiểu số trong Công ty Cổ phần ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ,
Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
1

Hoàng Thị Hải Yến (2020), Những điểm mới trong Luật doanh nghiệp nhằm nâng cao quản trị công ty và
bảo vệ cổ đông thiểu số, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
2


3

Một là, quyền quản trị công ty.
- Quyền đề cử người vào hội đồng quản trị. Theo quy định tại điểm a, khoản 5,

Điều 115, Luật Doanh nghiệp năm 2020: “cở đông hoặc nhóm cở đông sở hữu từ 10%
tởng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại Điều
lệ công ty có quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát”3. Theo quy
định này, cổ đông thiểu số có quyền liên quan đến quản trị nội bộ công ty, tức là được
quyền đề cử người vào hội đồng quản trị (HĐQT) và ban kiểm soát. Đồng thời cũng
có cơ hội đưa những người mình tín nhiệm vào nắm giữ các chức vụ quản lí thông qua
phương thức bầu dồn phiếu. Đây là phương thức bầu cử độc đáo trong CTCP và là
công cụ hữu hiệu để các cổ đông thiểu số bảo vệ được quyền lợi của mình. Theo
phương thức này, khi bầu thành viên HĐQT và ban kiểm soát, một cổ đông sẽ được
quyền nhân số cổ phần của mình với số thành viên được bầu vào HĐQT, ban kiểm
soát để ra tổng số phiếu biểu quyết, họ có quyền dồn toàn bộ số phiếu biểu quyết cho
một hoặc một số ứng cử viên. Mục đích cơ bản của việc bầu dồn phiếu là tăng cường
sự hiện diện của các cổ đông thiểu số trong HĐQT và ban kiểm soát của CTCP, đảm
bảo điều hoà được quyền điều hành và kiểm soát công ty giữa các nhóm cổ đông với
nhau.
- Quyền kiến nghị nội dung cuộc họp, quyền triệu tập cuộc họp đại hội đồng cổ
đông (ĐHĐCĐ): Vì cuộc họp ĐHĐCĐ là cuộc họp quan trọng ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền và nghĩa vụ của các cổ đông, trong đó có cổ đông thiểu số nên pháp luật
cho phép cổ đông hoặc nhóm cổ đông nói trên có quyền kiến nghị vấn đề được đưa
vào chương trình họp ĐHĐCĐ. Đặc biệt họ còn có quyền triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ
khi HĐQT vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lí hoặc
ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao; trường hợp khác theo quy định của điều
lệ công ty.4
- Quyền xem xét các thông tin: Để các cổ đông thiểu số nắm bắt được tình hình
hoạt động của công ty, từ đó có cơ sở bảo vệ quyền lợi của mình, pháp luật cho phép
họ có quyền xem xét và trích lục sổ biên bản, các nghị quyết của HĐQT, báo cáo tài

3

Điểm a khoản 5 Điều 115 Luật Doanh nghiệp năm 2020


4

Điểm b khoản 2 và khoản 3 Điều 115 Luật Doanh nghiệp năm 2020


4

chính giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo
của ban kiểm soát.5
- Quyền yêu cầu huỷ bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ: Nghị quyết của ĐHĐCĐ là
văn bản quan trọng quyết định đến “vận mệnh” của công ty, tác động sâu sắc đến
quyền và nghĩa vụ của các cổ đông. Tỉ lệ thông qua nghị quyết theo Luật doanh nghiệp
năm 2020 là 51% hoặc 65% tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự họp. Như
vậy, phần lợi thế nghiêng về các cổ đông nắm giữ nhiều cổ phần có mặt trong cuộc
họp, từ đó khó tránh khỏi việc các cổ đông này xâm phạm, chèn ép các cổ đông nhỏ
bằng cách tác động đến công ty để không mời họp, không cung cấp tài liệu liên quan
đến nội dung họp nhằm loại trừ quyền họp và biểu quyết của các cổ đông nhỏ. Do vậy,
Luật doanh nghiệp đã đưa ra quy định: khi nghị quyết của ĐHĐCĐ được thông qua
mà các cổ đông thiểu số nói trên không đồng tình, phản đối các nội dung được ghi
nhận trong đó thì pháp luật cho phép trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được
biên bản họp ĐHĐCĐ hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến ĐHĐCĐ, cổ đông
có quyền yêu cầu toà án hoặc trọng tài xem xét, huỷ bỏ nghị quyết hoặc một phần nội
dung nghị quyết của ĐHĐCĐ trong các trường hợp pháp luật quy định. 6 Quy định này
đã trao cho các cổ đông, trong đó có cổ đông thiểu số quyền được lên tyếng bảo vệ
quyền lợi của mình và đặt trách nhiệm lên những người tổ chức họp ĐHĐCĐ phải tổ
chức họp và thông qua nghị quyết theo đúng quy định của pháp luật về cả hình thức và
nội dung.
Hai là, nhóm quyền tài sản.
- Quyền được nhận cổ tức: Điều 135 Luật doanh nghiệp 2020 trao cho “cổ đông

thiểu số quyền được thanh toán đầy đủ cổ tức trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày kết
thúc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên và được nhận thông báo về trả cổ tức
chậm nhất là 15 ngày trước khi thực hiện trả cổ tức”.7 Quy định đảm bảo rằng cổ đông
thiểu số sẽ được chia sẻ lợi nhuận của doanh nghiệp.

5

Điểm a khoản 2 Điều 115 Luật Doanh nghiệp năm 2020

6

Khoản 1 Điều 151 và khoản 2 Điều 115 Luật Doanh nghiệp năm 2020.

Nguyễn Thị Sương (2020), Luật doanh nghiệp 2020 và cơ chế bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ
phần
7


5

- Quyền ưu tiên mua cổ phần mới tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần phổ
thông. Theo điểm c Khoản 1 Điều 115 Luật doanh nghiệp 2020 thì khi công ty chào
bán cổ phần mới, các cổ đông có quyền mua tương ứng với tỷ lệ cổ phần họ đang sở
hữu. Tuy nhiên, Điều lệ mẫu áp dụng đối với công ty đại chúng được ban hành kèm
theo Thông tư số 116/2020/TT-BTC thì “Cổ phần phổ thông phải được ưu tiên chào
bán cho các cổ đông hiện hữu theo tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần phổ thông
của họ trong Công ty, trừ trường hợp Đại hội đồng cổ đông quyết định khác, số cổ
phần cổ đông không đăng ký mua hết sẽ do Hội đồng quản trị của Công ty quyết
định”. Như vậy, đối với công ty đại chúng trong trường hợp phát hành cổ phiếu, đại
hội đồng cổ đông có toàn quyền quyết định việc bán cổ phiếu cho từng cổ đông với tỷ

lệ khác nhau mà không nhất thiết phải tuân theo tỷ lệ sở hữu cổ phần của họ tại công
ty. Khi đó, các cổ đông lớn được quyền mua theo tỷ lệ cao hơn so với các cổ đông
thiểu số theo nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông.
“Ba là, quyền khởi kiện. Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần
phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty
khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên HĐQT, giám đốc hoặc tổng giám
đốc.8 Theo đó, nhóm cổ đông nói trên có quyền khởi kiện nếu như thành viên HĐQT,
giám đốc hoặc tổng giám đốc có các hành vi: vi phạm nghĩa vụ người quản lí công ty;
không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ được giao; không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ, không kịp thời nghị quyết của HĐQT; thực hiện các quyền và
nghĩa vụ được giao trái với quy định của pháp luật, điều lệ công ty hoặc nghị quyết của
ĐHĐCĐ; sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty để tư lợi hoặc
phục vụ cho lợi ích của tổ chức, cá nhân khác; sử dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài
sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.”
1.2. Hạn chất, bất cập của pháp luật Việt Nam về bảo vệ cổ đông thiểu số
So với các giai đoạn trước, có thể thấy khung pháp lí của Việt Nam về công ty
cổ phần đã dần được hoàn thiện để bảo vệ tối đa cho cổ đông thiểu số. Tuy nhiên, vẫn
còn những hạn chế, tồn tại nhất định như:

8

Khoản 1 Điều 166 Luật doanh nghiệp năm 2020.


6

Thứ nhất, quyền quyết định của cổ đông thiểu số đến các vấn đề của công ty
vẫn hạn chế. Pháp luật đã dành cho cổ đông hoặc nhóm cổ đông thiểu số quyền triệu
tập cuộc họp ĐHĐCĐ trong một số trường hợp nhất định, có quyền kiến nghị nội dung
đưa vào chương trình họp, tuy nhiên đây cũng chỉ là vấn đề về hình thức tổ chức, còn

khi cuộc họp diễn ra, tiếng nói của cổ đông như thế nào lại phụ thuộc vào số cổ phần
mà họ sở hữu. Với số cổ phần ít, chắc chắn các cổ đông thiểu số sẽ bị hạn chế trong
việc chi phối hoạt động công ty và khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình.
Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định tỉ lệ dự họp tối thiểu 51%. Tuy nhiên, đứng về
phía các cổ đông thiểu số thì đây lại là quy định làm giảm khả năng chi phối của họ
đối với hoạt động của công ty. Nếu như trước đây, nhóm cổ đông sở hữu trên 25% 35% cổ phần có quyền phủ quyết thì hiện nay điều kiện này phải lên tới trên 35% 49%.
Thứ hai, việc bảo vệ cổ đông thiểu số thông qua nhóm cổ đông (sở hữu tỉ lệ vốn
nhất định) là không mang nhiều tính khả thi. Việc tạo cơ sở bảo vệ cổ đông thiểu số
dựa trên sức mạnh của nhóm cổ đông có thể coi là sáng kiến phù hợp đối với CTCP.
Đây là loại hình công ty đối vốn hoàn toàn, quyền quyết định các vấn đề của công ty
chủ yếu dựa trên tỉ lệ vốn góp.Do đó các cổ đông nhỏ cần phải có sự liên kết để tạo
nên tỉ lệ biểu quyết nhất định, trước hết vẫn là để cùng nhau bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình khỏi sự xâm phạm của các cổ đông lớn. Tuy nhiên, có thể nhận
thấy, ở Việt Nam, tỉ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông hoặc nhóm cổ đông để thực hiện
được các quyền nói trên thường là từ 10% cổ phần phổ thông trở lên. Con số này so
với các quốc gia trên thế giới là tương đối lớn. Điều này là làm khó cổ đông thiểu số
trong việc thực hiện quyền của họ, nhất là đối với những cổ đông mới; trong trường
hợp này là làm giảm tính minh bạch trong quản trị doanh nghiệp.
Thứ ba, còn một bộ phận lớn các cổ đông thiểu số chưa được pháp luật bảo vệ
Theo tinh thần của Luật doanh nghiệp thì chỉ có cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu tỉ lệ cổ
phần nhất định được trao công cụ pháp lí để bảo vệ mình. Ngay cả quyền khởi kiện
người quản lí khi có sai phạm, cổ đông ít nhất cũng phải nắm giữ 1% cổ phần phổ
thông của công ty. Về nguyên tắc, người sở hữu 1 cổ phần đã được coi là cổ đông.
Trong những CTCP lớn, đặc biệt là công ty niêm yết, số lượng cổ đông thiểu số tương
đối nhiều, trong đó sẽ có số lượng không ít cổ đông sở hữu tỉ lệ cổ phần nhỏ hơn 1%.


7

Với các quy định của pháp luật doanh nghiệp hiện nay thì những chủ thể này sẽ chỉ

được hưởng các quyền cơ bản của cổ đông phổ thông mà không có cơ sở pháp lí để tự
bảo vệ mình. Nếu muốn bảo vệ bản thân lại cần phải dựa vào sự liên kết với các cổ
đông nhỏ khác. Điều này không phải lúc nào cũng thực hiện được đối với CTCP.
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số
2.1. Những kết quả đạt được
Không phủ nhận rằng, qua nhiều năm, nhờ sự điều chỉnh của pháp luật đến bộ
phận cổ đông thiểu số mà quyền lợi của họ cũng từng bước được bảo vệ trên thực tế.
Theo Báo cáo Doing Business năm 2017 của Ngân hàng thế giới (WB), “chỉ số bảo vệ
cổ đông thiểu số của Việt Nam không ngừng được cải thiện, đứng thứ 87/189 trong số
các quốc gia được lựa chọn để xếp hạng, tăng 31 bậc so với năm 2016. Trong đó, chỉ
sớ quản trị cở đông, Việt Nam đạt điểm số cao hơn tương đối nhiều so với trung bình
của các nước Đông Nam Á - Thái Bình Dương”9. Các cổ đông thiểu số đã có cơ sở,
công cụ bảo vệ mình trước sự xâm phạm của các cổ đông lớn. Trong những năm gần
đây, nhiều vụ kiện của cổ đông thiểu số đã thành công, ghi nhận hiệu quả của pháp
luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trên thực tế. Đơn cử, năm 2014, Toà án nhân dân thành
phố Hà Nội đã thụ lí vụ kiện của cổ đông nhỏ (sở hữu 0,0549% vốn điều lệ) khởi kiện
huỷ Nghị quyết Đại hội đồng thường niên năm 2013 của Công ty tài chính cổ phần xi
măng CFC. Theo đơn khởi kiện ngày 19/9/2013 và phần trình bày tại phiên toà, ông
Hoàng Trung Âu cho biết, ông sở hữu 33.200 cổ phiếu (chiếm 0,0549%) của CFC
nhưng tại ĐHĐCĐ năm 2013 tổ chức ngày 21/4/2013, Chủ tịch HĐQT là ông Lê Nam
Khánh đã không mời ông Âu dự họp. Sau thời gian tranh tụng tại toà, tháng 8/2014,
Hội đồng xét xử đã chấp nhận đề nghị huỷ bỏ kết quả ĐHĐCĐ, Nghị quyết ĐHĐCĐ
CFC của ông Âu và tuyên huỷ Nghị quyết ĐHĐCĐ thường niên năm 2013 số 186
ngày 21/4/2013 của CFC.10
“Tương tự như vậy, năm 2018, các cổ đông yếu thế trong công ty Tổng công ty
xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam (Vinaconex) cũng đã khởi kiện những sai phạm
World
Bank.
Doing
Business

Reports
/>9

(electronic

edition),

Báo Đầu tư (2014), CFC thua kiện vì... không mời cổ đông nhỏ, từ truy cập 28/9/2019.
10


8

của Công ty và dành được kết quả như mong muốn. Vinaconex là doanh nghiệp nằm
trong top 4 doanh nghiệp xây dựng hàng đầu Việt Nam. Sau khi SCIC và Viettel chính
thức hoàn thành việc rút vốn tại Vinaconex, doanh nghiệp này trở thành doanh nghiệp
không có vốn đầu tư của nhà nước. Các chủ sở hữu mới của Vinaconex là các nhà đầu
tư tư nhân. Hai đơn vị đã trúng đấu giá các lô cổ phần do SCIC và Viettel bán đấu giá
là Công ty trách nhiệm hữu hạn An Quý Hưng và Công ty Cường Vũ. Đầu tyên, cổ
đông An Quý Hưng yêu cầu SCIC thực hiện nghĩa vụ đã cam kết với nhà đầu tư là
chuyển giao quyền lực bằng việc thay thế người đại diện theo pháp luật của công ty.
Tiếp đó, An Quý Hưng đề nghị HĐQT của Vinaconex triệu tập họp bất thường
ĐHĐCĐ để bầu lại 7 thành viên HĐQT và 5 thành viên Ban kiểm soát. Sau cuộc họp
bất thường ngày 11/01/2019, nhóm cổ đông An Quý Hưng đã chính thức kiểm soát
toàn bộ quyền lực ở Vinaconex, với số cổ phần phổ thông gần 58% và 5/7 thành viên
HĐQT là người của nhóm cổ đông này. Ngay sau khi tái cơ cấu lại bộ máy quản trị
công ty, nhóm cổ đông An Quý Hưng giành quyền quản trị tuyệt đối ở Vinaconex, đẩy
các nhóm cổ đông nhỏ hơn vào thế phải phục tùng tuyệt đối. Bởi lẽ, những quyết định
của Tổng giám đốc, HĐQT hay ĐHĐCĐ đều do nhóm cổ đông này đưa ra mà các cổ
đông nhỏ khác không thể thay đổi được dù có không đồng ý. Trước tình trạng bị chèn

ép, nhóm cổ đông nhỏ trong Vinaconex đã đệ đơn khởi kiện lên Toà án nhân dân quận
Đống Đa. Toà đã ra quyết định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc
Vinaconex tạm dừng Nghị quyết ĐHĐCĐ bất thường số 01/2019/NQ-ĐHĐCĐ ngày
11/01/2019.11”
Không chỉ nghị quyết của ĐHĐCĐ, mà nghị quyết của HĐQT cũng được các
cổ đông rất quan tâm vì những nội dung nghị quyết cũng có ảnh hưởng đến quyền lợi
của các cổ đông công ty. Đầu năm 2016 một cổ đông của CTCP vận chuyển Sài Gòn
Tourist (STT) đã khởi kiện đề nghị toà án huỷ bỏ Nghị quyết HĐQT từ năm 2015. Nội
dung khởi kiện liên quan đến việc HĐQT tổ chức cuộc họp sai quy định của pháp luật,
trong lần triệu tập thứ nhất đối với cuộc họp HĐQT chỉ có 1 thành viên tham gia họp
và biểu quyết có mặt trực tiếp, 01 người ủy quyền, 01 người họp và biểu quyết trực
tuyến, chỉ chiếm tỉ lệ 60% là chưa đủ điều kiện tyến hành cuộc họp. Mặt khác, biên
bản cuộc họp HĐQT của STT ngày 05/8/2015 không nêu rõ mục đích và chương trình
họp HĐQT, không ghi rõ thành viên tán thành, không tán thành và không có ý kiến,
11

Quyết định của Toà án nhân dân quận Đống Đa ngày 27/3/2019


9

mà chỉ có hai hình thức đồng ý và không đồng ý là trái quy định Luật doanh nghiệp.
Vụ kiện đã trải qua hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, kết quả cuối cùng toà án
Thành phố Hồ Chí Minh tuyên huỷ Nghị quyết HĐQT ngày 05/8/2016 và Quyết định
số 16 của HĐQT STT.12
Như vậy, từ Luật Donah nghiệp 2014 đến 2020 đã cho thấy khung pháp lý về
bảo vệ cổ đông thiểu số ngày càng chắc chắn, các cổ đông thiểu số đã có ý thức tự bảo
vệ và đã bảo vệ thành công nhờ vào công cụ pháp lí mà pháp luật trao cho. Điều này ít
khi xảy ra trong những giai đoạn trước đây. Động thái của các cổ đông nhỏ, cùng với
các quy định chặt chẽ từ phía pháp luật sẽ tạo cơ sở để các CTCP thực hiện nghiêm túc

hơn việc bảo đảm quyền lợi của cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số.
2.2. Những hạn chế, bất cập
Mặc dù có những kết quả đáng ghi nhận nhưng xét trên bình diện chung, thực
tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số vẫn còn nhiều điểm
hạn chế:
Thứ nhất, quyền tiếp cận thông tin của cổ đông thiểu số còn bị hạn chế. Thông
tin trong doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của
doanh nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các nhà đầu tư. Sự thông tin
một cách kịp thời sẽ tạo cơ sở quan trọng để các nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư
một cách chính xác, qua đó giúp thị trường phản ánh giá trị thực của công ty. Về
nguyên tắc, với tư cách là đồng sở hữu công ty, các cổ đông có quyền nắm bắt toàn bộ
thông tin liên quan đến hoạt động của công ty để đảm bảo cao nhất quyền sở hữu của
họ. Tuy nhiên, trên thực tế, tại nhiều công ty, các cổ đông lớn tìm cách bưng bít thông
tin để phục vụ cho lợi ích riêng của họ. Điều đó đồng nghĩa với việc quyền lợi của các
cổ đông thiểu số sẽ bị ảnh hưởng, bị xâm phạm. Theo thống kê của Uỷ ban chứng
khoán nhà nước, trong năm 2017, Uỷ ban đã ban hành 349 quyết định xử phạt vi phạm
hành chính (gấp 2,6 lần so với năm 2016), với tổng số tiền phạt là 30,4 tỉ đồng (gấp
2,4 lần so với năm 2016).13 Trong đó, phần lớn các vi phạm liên quan đến việc công bố
12

Bản án sơ thẩm ngày 20/01/2016 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tạp chí Tài chính (2019), Ban hành 349 Quyết định xử phạt vi phạt hành chính trong lĩnh vực chứng
khoán, từ
truy cập 10/9/2019.
13


10


thông tin của công ty và của các cổ đông lớn. Điển hình như theo thông tin từ Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập
khẩu Minh Hải với người liên quan của tổ chức đầu tư (đang nắm giữ cùng loại cổ
phiếu) là bà Lê Thị Thuý Hải - Chủ tịch Hội đồng thành viên, mua hơn 3,1 triệu cổ
phiếu NTP của CTCP Nhựa Tiền Phong. Sau giao dịch, số cổ phần nắm giữ của công
ty Minh Hải trong NTP nâng lên gần 9,5 triệu cổ phiếu, tương ứng tỉ lệ vốn tăng từ
7,125% lên 10,632%. Ngày thực hiện giao dịch làm thay đổi tỉ lệ sở hữu và trở thành
nhóm người có liên quan sở hữu từ 5% trở lên là ngày 05/10/2017 nhưng ngày báo cáo
về việc trở thành nhóm người có liên quan sở hữu từ 5% trở lên là ngày 22/6/2018 và
ngày văn bản chuyển đến HNX là ngày 26/6/2018. Như vậy, việc công bố này đã
chậm hơn so với quy định. 14 Ngoài ra, việc một cổ đông nhỏ yêu cầu công ty cho xem
xét, trích lục sổ sách cũng là điều khó thực hiện vì trên thực tế, các công ty thường tìm
nhiều lí do để từ chối yêu cầu này của cổ đông.
Thứ hai, việc tổ chức họp ĐHĐCĐ ở nhiều công ty vẫn còn sai phạm liên quan
đến mời các cổ đông đến dự họp. Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định tất cả các cổ
đông có quyền biểu quyết đều được tham gia vào ĐHĐCĐ - cơ quan có quyền cao
nhất trong CTCP. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều CTCP lại luôn tìm cách trốn tránh
thực hiện điều này, nhất là khi kinh tế khó khăn, nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua
lỗ... Nghiên cứu “Xung đột quyền lợi trong CTCP ở Việt Nam” do Viện nghiên cứu
quản lí trung ương (CIEM) công bố năm 2014 chỉ ra rằng, cổ đông lớn, những người
giữ chức vụ quản lí ở nhiều công ty tìm mọi cách để ngăn cản các cổ đông thiểu số
thực hiện được quyền của mình. Có những trường hợp không tổ chức họp ĐHĐCĐ
thường niên; công ty không cung cấp hoặc cung cấp không kịp thời, không chính xác
thông tin sổ đăng kí cổ đông theo yêu cầu; không cung cấp tài liệu liên quan đến nội
dung họp... Thậm chí, CIEM còn chỉ ra, có những trường hợp, doanh nghiệp lựa chọn
địa điểm họp xa trụ sở công ty, thậm chí họp ở địa phương khác.
Thứ ba, cơ chế hỗ trợ từ phía cơ quan nhà nước đối với cổ đông thiểu số chưa
đạt hiệu quả cao. Việc các cổ đông có bảo vệ được quyền lợi của mình hay không cũng
phụ thuộc phần nhiều vào cơ chế hỗ trợ từ phía các cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, cơ
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), Báo cáo “Những sai phạm về công bố thông tin cổ phiếu của

cổ đông”.
14


11

chế này vẫn chưa hiệu quả như mong đợi, nhất là từ hệ thống các toà án có thẩm
quyền. Thực tế cho thấy, những vụ tranh chấp giữa cổ đông với công ty khi đưa ra giải
quyết tại toà án mất nhiều thời gian, số vụ thắng kiện của cổ đông nhỏ chỉ chiếm số
lượng rất ít. Có những vụ việc toà án có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
gây ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông thiểu số. Điển hình là vụ việc liên quan đến
giải quyết tranh chấp giữa ông Đặng Hồng Trường (Thành phố Hải Phòng) khởi kiện
CTCP công trình vận tải có trụ sở tại Hải Phòng về việc tước quyền tham gia họp của
43 cổ đông nhỏ nắm giữ 2251 cổ phần của công ty trong đó có ông Trường. Cụ thể tại
Điều lệ Công ty, Quy chế tổ chức của ĐHĐCĐ thường niên năm 2017 ngày 10/6/2017
của HĐQT quy định “cổ đông hoặc đại diện của cổ đông có số cổ phiếu có giá trị từ
1% vốn điều lệ trở lên là đại biểu dự ĐHĐCĐ”. Khi ĐHĐCĐ thường niên năm 2017
tổ chức vào ngày 20/6/2017, ông Trường không nhận được giấy mời họp. Sau đó, ông
Trường đã làm đơn yêu cầu huỷ bỏ Nghị quyết của ĐHĐCĐ. Cho rằng việc tổ chức
ÐHCÐ là đúng quy định, toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện của ông
Ðặng Hồng Trường. Cổ đông này đã tiếp tục kháng cáo lên cấp phúc thẩm là Toà án
nhân dân Thành phố Hải Phòng. Cấp phúc thẩm một lần nữa khẳng định các sai phạm
của công ty không ảnh hưởng đến nộI dung của Nghị quyết ĐHĐCĐ.(10) Trong khi
đó, rõ ràng quy định của điều lệ Công ty này đã vi phạm nghiêm trọng quy định của
Luật doanh nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền dự họp của các cổ đông nhỏ.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số ở
Việt Nam
Thứ nhất, sửa đổi các quy định liên quan đến việc thực hiện quyền của cổ đông
hoặc nhóm cổ đông thiểu số. Theo WB, giới hạn tỉ lệ sở hữu của cổ đông, nhóm cổ
đông để được quyền đề xuất vấn đề đưa vào chương trình nghị sự của cuộc họp

ĐHĐCĐ là 5% tổng số cổ phần phổ thông.
Thứ hai, bổ sung, hoàn thiện quy định về cơ chế kiểm soát, hỗ trợ bảo vệ quyền
lợi của cổ đông thiểu số. Bên cạnh việc củng cố cơ chế hỗ trợ nội bộ từ ban kiểm soát
hoặc thành viên độc lập của công ty, pháp luật cần phải chú trọng đến việc xây dựng
cơ chế hỗ trợ của nhà nước. Cụ thể, cần tăng cường giám sát hoạt động công bố thông
tin các giao dịch của CTCP, đặc biệt là trên thị trường chứng khoán. Cần quy định chi


12

tyết, rõ ràng hơn về các chế tài xử lí vi phạm liên quan đến việc xâm phạm quyền của
cổ đông thiểu số (không quy định gộp như hiện nay). Cần tăng mức phạt vi phạm và
bổ sung các hình thức phạt vi phạm khác để tăng tính răn đe và ràng buộc trách nhiệm
đối với công ty và các cổ đông khác trong việc bảo vệ cổ đông thiểu số.
Thứ ba, đẩy nhanh việc hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp và cơ chế phối
hợp hành động giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đặc biệt cần nâng cao vai
trò trung tâm của Uỷ ban chứng khoán nhà nước trong việc quản lí hoạt động của
CTCP trên thị trường chứng khoán, phối hợp với các cơ quan công an, viện kiểm sát,
toà án nhân dân, kịp thời phát hiện, xử lí nghiêm khắc các hành vi vi phạm gây ảnh
hưởng đến quyền lợi hợp pháp của cổ đông nói chung, cổ đông thiểu số nói riêng.
“Thứ tư, về phía cổ đông thiểu số. Mỗi cổ đông thiểu số cần đẩy mạnh hơn nữa
việc tự ý thức trong việc chủ động bảo vệ mình là điều vô cùng quan trọng như: các cổ
đông thiểu số có thể thực hiện quyền cổ đông thông qua việc tham dự hội nghị cổ
đông, phát biểu ý kiến tại cuộc họp; đồng thời cần nghiên cứu, tìm hiểu về quyền lợi
và nghĩa vụ của mình trước khi tham gia vào công ty cổ phần, vấn đề này có thể tham
khảo các chuyên gia hay thuê luật sư tư vấn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình
khi tham gia góp vốn vào công ty cổ phần. Quan trọng hơn hết là các cổ đông thiểu số
cần liên kết lại để tự bảo vệ mình. Việc một cổ đông thiểu số nhỏ trong công ty nên vị
trí và sức ảnh hưởng trong công ty cổ phần sẽ rất nhỏ, vì vậy, để bảo vệ các quyền cơ
bản của mình trong quá trình tham gia góp vốn kinh doanh tại công ty cổ phần thì các

cổ đông thiểu số nên liên kết, tập hợp với nhau để tạo thành “nhóm cổ đông” nhằm
thực hiện các quyền mà pháp luật đã trao cho họ, thông qua đó ít nhiều sẽ thể hiện
được tiếng nói của mình trong công ty. Do vậy, sẽ kết hợp với các quy định của pháp
luật mới trong tương lai sẽ phát huy được đúng vai trò và đảm bảo được quyền lợi
xứng đáng của mình trong công ty.15”

Vũ Thị Phượng (2021), Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ cổ đông thiểu số theo quy định pháp luật hiện
hành,
15


13

KẾT LUẬN
Bảo vệ cổ đông thiểu số là một vấn đề quan trọng và cần thiết trong hoạt động
của công ty cổ phần. Cổ đông thiểu số thường đối mặt với nhiều rủi ro và thách thức
hơn so với cổ đông đại chúng hoặc nhóm cổ đông chủ chốt. Để đảm bảo công bằng và
minh bạch, cần có các quy định pháp luật chặt chẽ và môi trường kinh doanh có trách
nhiệm. Các quy định pháp luật và quy tắc như công bố thông tin đầy đủ và minh bạch,
tổ chức cuộc họp cổ đông định kỳ và cung cấp quyền bỏ phiếu bình đẳng đã và đang
được áp dụng để bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số. Ngoài ra, việc xây dựng
một văn hóa công ty tôn trọng ý kiến của tất cả cổ đông và áp dụng các quy trình quản
lý tốt nhất cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cổ đông thiểu số. Bảo vệ cổ
đông thiểu số không chỉ là trách nhiệm pháp lý mà còn là nguyên tắc đạo đức và cách
để xây dựng lòng tin cậy và niềm tin trong quan hệ kinh doanh. Bằng cách thúc đẩy sự
công bằng và minh bạch trong quan hệ giữa các cổ đông, chúng ta có thể tạo ra một
môi trường kinh doanh lành mạnh và phát triển bền vững cho công ty cổ phần. Vì vậy,
việc đảm bảo bảo vệ cổ đông thiểu số không chỉ mang lại lợi ích cho cổ đông cá nhân
mà còn góp phần xây dựng một nền kinh tế vững mạnh và công bằng hơn. Điều này
đồng nghĩa với việc tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho tất cả các bên liên

quan và đẩy mạnh sự phát triển của công ty cổ phần trong thời gian dài.


14

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Doanh nghiệp năm 2020
2. Vũ Thị Phượng (2021), Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ cổ đông thiểu số theo
quy định pháp luật hiện hành,
3. Đỗ Thái Hàn (2012), Bảo vệ Cổ đông thiểu số trong Công ty Cổ phần ở Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
4. Hoàng Thị Hải Yến (2020), Những điểm mới trong Luật doanh nghiệp nhằm
nâng cao quản trị công ty và bảo vệ cổ đông thiểu số, Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung ương.
5. Nguyễn Thị Sương (2020), Luật doanh nghiệp 2020 và cơ chế bảo vệ cổ đông
thiểu số trong công ty cổ phần
6. World

Bank.

Doing

Business

Reports

(electronic

edition),


/>7. Báo Đầu tư (2014), CFC thua kiện vì... không mời cổ đông nhỏ, từ
truy
cập 28/9/2019.
8. Tạp chí Tài chính (2019), Ban hành 349 Quyết định xử phạt vi phạt hành chính
trong lĩnh vực chứng khoán, từ truy cập 10/9/2019.
9. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), Báo cáo “Những sai phạm về công
bố thông tin cổ phiếu của cổ đông”.
10. Vũ Thị Phượng (2021), Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ cổ đông thiểu số theo
quy định pháp luật hiện hành,



×