CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VÀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về nhượng quyền thương mại, hệ thống Pháp luật về nhượng
quyền và hợp đồng nhượng quyền thương mại
1.1.1 Tổng quan về nhượng quyền thương mại
Trên thế giới đa phần hoạt động nhượng quyền thương mại chỉ đơn giản là hoạt
động nhượng quyền phân phối và bán sản phẩm của các nhà sản xuất. Khi đó các nhà
phân phối khơng phải trả bất kỳ khoản phí nhượng quyền nào. “Tuy nhiên, sau năm 1945,
chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, hoạt động nhượng quyền thương mại thực sự phát
triển mạnh mẽ với sự ra đời và phát triển của hàng loạt nhà hàng, khách sạn và hệ thống
kinh doanh, phân phối bán lẻ. Nhượng quyền thương mại thực sự phát triển mạnh mẽ tại
Hoa Kỳ, mang lại sự thành công và niềm tự hào cho nhiều thương hiệu trở thành biểu
tượng cho Hoa kỳ như KFC, McDonald’s…Mỹ cũng là quốc gia đầu tiên có các quy định
pháp luật cho franchise và có các chính sách ưu đãi cho các cá nhân doanh nghiệp thực
hiện kinh doanh theo hình thức franchise”.
Nhờ hiệu quả của hoạt động kinh doanh dưới hình thực nhượng quyền thương
mại, nhượng quyền thương mại đã phát triển không chỉ ở Mỹ, châu Âu mà còn phát triển
mạnh sang các quốc gia châu Á. Ở Việt Nam, hoạt động nhượng quyền thương mại đã
xuất hiện từ trước những năm 1975 tuy nhiên mới thực sự phát triển vào vài thập niên
gần đây.
Theo Hiệp hội nhượng quyền thương mại quốc tế - The International Franchise
Association đã đưa ra định nghĩa của nhượng quyền thương mại như sau: “Nhượng
quyền thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng giữa bên giao và bên nhận, theo đó bên
giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của bên nhận trên
các khía cạnh như bí quyết kinh doanh, đào tạo nhân viên. Bên nhận quyền hoạt động
dưới nhãn hiệu hàng hoá, phương thức, phương pháp kinh doanh do bên giao sở hữu hoặc
kiểm soát và bên nhận quyền đang và sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp
bằng nguồn lực của mình.". Hiệp hội nhượng quyền thương mại quốc tế cho rằng:
Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ giữa hai bên dựa trên quan hệ hợp đồng, lệ
thuộc và có sự ràng về quyền lợi và nghĩa vụ của từng bên.
Tại một số quốc gia, ví dụ như Australia, luật về nhượng quyền thương mại có
định nghĩa khá cụ thể về hoạt động nhượng quyền thương mại cũng như quy trình hoạt
động của nhượng quyền thương mại và đề cập cụ thể tới khoản phí nhượng quyền
“Nhượng quyền thương mại là thoả thuận một bên (bên nhượng quyền) cấp cho bên khác
(bên nhận quyền) thực hiện hoạt động đề nghị giao kết hợp đồng, cung cấp hoặc phân
phối hàng hoá hoặc dịch vụ trong lãnh thổ Australia theo hệ thống hoặc kế hoạch kinh
doanh mà cơ bản được xác định kiểm soát hoặc đề xuất bởi bên nhượng quyền, theo đó:
Việc tiến hành hoạt động kinh doanh được chủ yếu gắn liền với thương hiệu, hoạt động
quảng cáo hoặc biểu tượng thương mại của bên nhượng quyền. Trước khi bắt đầu kinh
doanh và trong quá trình kinh doanh, bên nhận quyền phải thanh toán cho bên nhượng
quyền một khoản chi phí nhượng quyền thương mại”
Căn cứ tại điều 284 Luật Thương Mại 2005 thì pháp luật Việt Nam, quy định:
“Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại theo đó bên nhượng quyền cho
phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ theo các điều kiện sau: 1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến
hành theo cách thức tổ chức do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu
hàng hố, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; 2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm sốt và
trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.”. Như vậy, trên
cơ sở đó, pháp luật Việt Nam cũng chỉ rõ quyền và trách nhiệm của các bên nhưng cơ bản
chưa khẳng định rõ được quan hệ hợp đồng trong hoạt động NQTM trong thực tế. Nhìn
chung có thể thấy điểm nổi bật của nhượng quyền thương mại bao gồm:
- Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại, được thực hiện bởi ít
nhất hai bên chủ thể khác nhau và độc lập với nhau về mặt pháp lý: bên nhượng quyền và
bên nhận quyền. Ràng buộc nhau dựa trên quyền lợi và nghĩa vụ trên hợp đồng nhượng
quyền thương mại.
- Bên nhận quyền phân phối sản phẩm, cung ứng dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hoá,
các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ và theo quy trình kỹ thuật do bên nhượng quyền xây
dựng và sở hữu
- Bên nhận quyền phải thanh tốn một khoản phí cho bên nhượng quyền gọi là phí
nhượng quyền và chấp nhận các quy định của bên nhượng quyền về hàng hóa, sản phẩm,
bài trí cửa hàng….
- Bên nhượng quyền tiến hành cung cấp tài liệu, đào tạo nhân viên, thường xuyên
hỗ trợ kỹ thuật cho bên nhận quyền , hai bên có mối quan hệ mật thiết, ràng buộc lẫn
nhau trong suốt thời gian nhượng quyền.
Một cách đơn giản, có thể hiểu nhượng quyền thương mại cơ bản là một hoạt động
thương mại nhằm mở rộng hệ thống, mơ hình kinh doanh của thương nhân thông qua
việc chia sẻ quyền thương mại, quy trình, bí quyết kinh doanh cho một thương nhân khác.
Các bên trong mối quan hệ này, căn cứ trên hệ thống pháp luật cụ thể của từng quốc gia
sẽ ràng buộc nhau trên quan hệ Hợp đồng giữa ít nhất hai bên.
1.1.2 Khái niệm hợp đồng thương mại
Ở Việt Nam, thuật ngữ “franchise” được dịch ra nhiều tên khác nhau, ngoài nghĩa
là nhượng quyền thương mại như được ghi nhận trong Luật Thương mại thì trong Nghị
định 11/2005/NĐ-CP ban hành ngày 02/02/2005 của Chính phủ quy định chi tiết về
chuyển giao công nghệ lại dùng thuật ngữ “Cấp phép đặc quyền kinh doanh”, còn trong
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (Phụ lục D) thì “franchise” được dịch là
“dịch vụ mượn danh”, tuy cách gọi có khác nhau song về bản chất chúng là như nhau.
Theo đó: “Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại theo đó bên
nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng
hố, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây: Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch
vụ được tiến hành theo cáchthức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và
được gắn với nhãn hiệu, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền. Bên nhượng quyền có quyền kiểm sốt và trợ
giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh (Điều 284 Luật
Thương mại 2005).
Hợp đồng hiểu là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ xã hội cụ thể. Yếu tố cơ bản nhất của hợp
đồng và quan trọng nhất là sự thỏa hiệp giữa các ý chí, tức là có sự ưng thuận giữa các
bên với nhau. Người ta thường gọi nguyên tắc này là nguyên tắc hiệp ý. “Nguyên tắc hiệp
ý là kết quả tất yếu của tự do hợp đồng: khi giao kết hợp đồng các bên được tự do quy
định nội dung hợp đồng, tự do xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ của các bên. Đương
nhiên tự do hợp đồng không phải là tự do tuyệt đối. Nhà nước buộc các bên khi giao kết
hợp đồng phải tôn trọng đạo đức, trật tự xã hội, trật tự công cộng. Trong những trường
hợp thật cần thiết, nhân danh tổ chức quyền lực công, nhà nước có thể can thiệp vào việc
ký kết hợp đồng và do đó giới hạn quyền tự do giao kết hợp đồng”. Tuy nhiên sự can
thiệp này phải là sự can thiệp hợp lý và được pháp luật quy định chặt chẽ để tránh sự lạm
dụng, vi phạm quyền tự do hợp đồng.
Từ điển luật học đưa ra khái niệm về hợp đồng như sau: Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa các bên có tư cách pháp nhân hoặc giữa những người có đầy đủ năng lực hành vi
nhằm xác lập, thay đổi, phát triển hay chấm dứt quyền, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi
bên. Theo quy định thì có nhiều loại hợp đồng. Hợp đồng phải được thể hiện bằng văn
bản,hợp đồng phải có chữ ký đầy đủ của những người có thẩm quyền của các bên. Nhưng
về mặt pháp lý thì khái niệm trên chưa đầy đủ. Vì vậy, tại Điều 388 BLDS 2005 quy định
về vấn đề này một cách rõ ràng hơn. Tuy nhiên, nhằm đáp ứng với những thay đổi về hợp
đồng trong tình mới, Quốc Hội đã ban hành BLDS 2015, khái niệm “hợp đồng dân sự”
mà thay bằng khái niệm “hợp đồng” nhằm mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng, được thể
hiện tại Điều 385.
Trong các khái niệm về nhượng quyền thương mại của mỗi quốc gia đều xuất hiện
vai trò quan trọng của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Hợp đồng nhượng quyền
thương mại là ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa vụ của các bên trong thỏa thuận giao
kết về nhượng quyền thương mại. Theo Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (the US
Federal Trade commission - FTC) : “Khái niệm một hợp đồng nhượng quyền thương mại
là hợp đồng theo đó bên giao: (i) Hỗ trợ đáng kể cho bên nhận trong việc điều hành
doanh nghiệp hoặc kiểm soát chặt chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của bên
nhận; (ii) Li-xăng nhãn hiệu cho bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn
hiệu hàng hoá của bên giao; (iii) Yêu cầu bên nhận thanh tốn cho bên giao một khoản
phí tối thiểu”.
Cịn trong luật thương mại Việt Nam 2005 khơng quy định cụ thể về khái niệm
hợp đồng nhượng quyền thương mại mà chỉ đưa ra hình thức của hợp đồng nhượng
quyền thương mại tại điều 285 “Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được lập thành
văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”.
Nghị định số 35/2006/NĐ-CP , hợp đồng nhượng quyền thương mại là hợp đồng
trong đó bên nhượng quyền có nghĩa vụ trao quyền thương mại và cung cấp các hỗ trợ kỹ
thuật đối với việc kinh doanh quyền thương mại cho bên nhận quyền, và bên nhận quyền
có nghĩa vụ thanh tốn cho bên nhượng quyền. Bên nhận quyền có thể tiếp tục chuyển
nhượng quyền thương mại cho người khác nếu hợp đồng nhượng quyền thương mại đã
có thỏa thuận hoặc người đã chuyển quyền thương mại đồng ý cho chuyển tiếp”.
Như vậy, có thể hiểu hợp đồng nhượng quyền thương mại là một loại hợp đồng
được các thương nhân ký kết trong quá trình thực hiện hoạt động nhượng quyền thương
mại. Hợp đồng này cũng phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu chung của hợp đồng được đề
cập trong bộ luật dân sự, là sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ nhượng quyền
thương mại làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hoạt động nhượng quyền và cũng chính là căn cứ, cơ sở để giải quyết tranh chấp có thể sẽ
phát sinh giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.
1.2 Tổng quan hệ thống Pháp luật về nhượng quyền
Trước khi ban hành Luật Thương mại năm 2005, pháp luật về nhượng quyền của
Việt Nam chỉ được quy định rải rác và thiếu nhất quan trong một số văn bản luật như:
-
Thông tư 124/1999/TT-BKHCNMT ngày 12/7/1999 hướng dẫn thực hiện nghị
định 45/1988/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ.
-
Nghị định 11/2005/NĐ-CP sửa đổi những quy định chi tiết về chuyển giao cơng
nghệ
Ngày 31/3/2006, Chính phủ ban hành nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi
tiết luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền, hướng dẫn doanh nghiệp đăng ký
nhượng quyền thương mại cũng như làm rõ nội dung mà hợp đồng nhượng quyền cần có,
thủ tục đăng ký nhượng quyền thương mại
Luật Thương mại 2005 đánh dấu bước ngoặt cho hoạt động nhượng quyền thương
mại ở Việt Nam. Trong luật này, hoạt động nhượng quyền được quy định từ điều 284 tới
291 nêu lên định nghĩa về nhượng quyền thương mại, quyền và nghĩa vụ của bên nhượng
quyền và nhận quyền, hợp đồng nhượng quyền, đăng ký nhượng quyền.
Việc ban hành các văn bản về sở hữu cơng nghiệp cũng có sự tác động và ảnh
hưởng đến hoạt động nhượng quyền.
Cho đến Luật Thương mại 2005 thì franchise mới được pháp luật điều chỉnh một
cách cụ thể. Theo đó quyền của Bên này sẽ là nghĩa vụ của Bên kia
BÊN NHƯỢNG QUYỀN
BÊN NHẬN QUYỀN
(Điều 286, 287 LTM)
(Điều 288, 289 LTM)
Quyền nhận tiền nhượng quyền
Nghĩa vụ trả tiền nhượng quyền
và các khoản thanh toán khác theo hợp
đồng.
Quyền kiểm tra để đảm bảo sự
Nghĩa vụ chấp nhận sự kiểm
thống nhất của hệ thống nhượng quyền soát, kiểm tra, hướng dẫn của Bên
và chất lượng sản phẩm.
nhượng quyền, tuân thủ các yêu cầu về
hướng dẫn, thiết kế…
Nghĩa vụ cung cấp tài liệu
Quyền yêu cầu thương nhân
hướng dẫn về hệ thống nhượng quyền, nhượng quyền cung cấp đầy đủ tài liệu
đào tạo ban đầu và cung cấp hỗ trợ kỹ cần thiết và yêu cầu đối xử bình đẳng,..
thuật, đối xử bình đẳng giữa các thương
nhân nhận nhượng quyền,…
1.3 Nội dung hợp đồng thương mại
Hiện nay, quy định về nhượng quyền thương mại đã được Luật thương mại 2005
và nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 quy định chi tiết về hoạt động nhượng
quyền thương mại ghi nhận cụ thể. Hiện nay, quyền thương mại được hiểu theo quy định
tại khoản 6 điều 3 như sau: “ Quyền thương mại bao gồm một, một số hoặc tất cả các
quyền sau đây: Quyền được bên nhượng quyền cho phép và u cầu bên nhận quyền tự
mình tiến hành cơng việc kinh doanh cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ theo một hệ thống
cho bên nhượng quyền quy định và gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu
hiệu kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; (ii) Quyền được bên nhượng quyền
cung cấp cho bên nhận quyền sơ cấp quyền thương mại chung; (iii) Quyền được bên
nhượng quyền thứ cấp lại cho bên nhận quyền thứ cấp theo hợp đồng nhượng quyền
thương mại chung; (iv) Quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền
thương mại theo hợp đồng phát triển quyền thương mại”.
Đây là một nội dung quan trong cần được lưu ý trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại. Bởi quyền thương mại chính là đối tượng của Hợp đồng nhượng quyền
thương mại. Các điều khoản của hợp đồng nhượng quyền thương mại đều xoay quanh
việc được sử dụng, nhượng quyền các đối tượng này. Việc chỉ ra các nội dung của quyền
thương mại, các đối tượng nhượng quyền càng cụ thể, chi tiết bao nhiêu thì việc Hợp
đồng được đề ra càng rõ ràng, các bên phân định được phạm vi sử dụng quyền thương
mại của mình, tránh các xung đột tranh chấp xảy ra bấy nhiêu.
Nội dung của HĐNQTM xoay quanh quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền và
bên được nhượng quyền, cụ thể:
Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền. Luật thương mại 2005 đưa
ra khung quy định cơ bản về quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền. Cụ thể, quyền
của bên nhượng quyền tại điều 286 Luật thương mại quy định:
“ 1. Nhận tiền nhượng quyền; 2. Tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền
thương mại và mạng lưới nhượng quyền thương mại; 3. Kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất
hoạt động của bên nhận quyền nhằm bảo đảm sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền
thương mại và sự ổn định về chất lượng hàng hoá, dịch vụ.”. Thông qua việc đưa ra
quyền của bên nhượng quyền chính là việc khẳng định pháp luật đã quan tâm và xây
dựng khung pháp lý cơ bản, từ đó, quan tâm đến quyền của bên nhận quyền vừa đảm bảo
quyền lợi cơ bản, bảo vệ lợi ích chính đáng của bên nhượng quyền vừa đưa ra các phạm
vi nhất định cho quyền của bên nhượng quyền, tránh việc bên nhượng quyền lạm dụng
quyền kiểm soát trong hoạt động kinh doanh đối với bên nhận quyền.
Bên cạnh quyền, luật thương mại cũng quy định nghĩa vụ của bên nhượng quyền
tại điều 287 luật thương mại như sau: “1. Cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống
nhượng quyền thương mại cho bên nhận quyền; 2. Đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp
kỹ thuật thường xuyên cho thương nhân nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ
thống nhượng quyền thương mại; 3. Thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng
dịch vụ bằng chi phí của thương nhân nhận quyền; 4. Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối
với đối tượng được ghi trong hợp đồng nhượng quyền; 5. Đối xử bình đẳng với các
thương nhân nhận quyền trong hệ thống nhượng quyền thương mại.”. Thơng qua đó,
trong hợp đồng nhượng quyền thương mại nội dung về quyền và nghĩa vụ của bên
nhượng quyền là một nội dung quan trọng không thể thiếu. Phân định ra quyền và trách
nhiệm mà bên nhượng quyền phải thực hiện. Mặc dù hợp đồng nhượng quyền thương
mại mang dáng dấp của hợp đồng gia nhập, các điều khoản thường do bên nhượng quyền
soạn thảo nhưng bên nhượng quyền vẫn phải đảm bảo làm rõ được các quyền và nghĩa vụ
của mình cần hồn thành trong mối quan hệ nhượng quyền thương mại trên thực tế.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của bên nhận quyền: Hiện nay, Luật thương mại
2005 quy định quyền của bên nhận nhượng quyền thương mại: “1. Yêu cầu thương nhân
nhượng quyền cung cấp đầy đủ trợ giúp kỹ thuật có liên quan đến hệ thống nhượng
quyền thương mại; 2.Yêu cầu thương nhân nhượng quyền đối xử bình đẳng với các
thương nhân nhận quyền khác trong hệ thống nhượng quyền thương mại”. Quy định về
quyền của bên nhận quyền không đưa ra một quy chuẩn hay giới hạn nhất định. Hai quy
định này chỉ mang tính chất định hướng, khung quy định chung. Do đó, với nội dung của
hợp đồng tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên để đưa ra nội dung cụ thể cho quyền này
của bên nhận quyền. Bên cạnh các quyền, luật thương mại 2005 cũng quy định nghĩa vụ
của thương nhân nhận quyền tại điều 290 như sau:“1. Trả tiền nhượng quyền và các
khoản thanh toán khác theo hợp đồng nhượng quyền thương mại; 2. Đầu tư đủ cơ sở vật
chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các quyền và bí quyết kinh doanh mà bên
nhượng quyền chuyển giao; 3. Chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của bên
nhượng quyền; tuân thủ các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng
dịch vụ của thương nhân nhượng quyền; 4. Giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được
nhượng quyền, kể cả sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm
dứt; 5. Ngừng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu
tượng kinh doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác (nếu có) hoặc hệ thống của bên
nhượng quyền khi kết thúc hoặc chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại; 6. Điều
hành hoạt động phù hợp với hệ thống nhượng quyền thương mại; 7. Không được nhượng
quyền lại trong trường hợp khơng có sự chấp thuận của bên nhượng quyền.”. Như vậy,
các quy định của Luật thương mại 2005 đã chỉ rõ các quy định về nghĩa vụ của bên nhận
quyền. Bên nhận quyền nhận được quyền sử dụng các quyền thương mại, được bên
nhượng quyền đào tạo, hỗ trợ…..đồng thời bên nhận quyền cũng cần hiểu và thực hiện
nghĩa vụ của mình đối với bên nhượng quyền.
Thứ ba, giá cả, phí nhượng quyền, phương thức thanh toán
Quyền kinh doanh được bên bán bán cho bên mua để thu về một số tiền ban đầu,
thường gọi là phí gia nhập hay phí nhượng quyền. Số tiền này phụ thuộc nhiều yếu tố như
mức độ nổi tiếng của thương hiệu, địa điểm nhượng quyền, ngành nghề…và thường thì
rất khó xác định. Phí nhượng quyền bao gồm phí nhượng quyền ban đầu và phí duy trì
thương hiệu hằng tháng. Ngồi ra, các chi phí bất động sản, trang bị máy móc, bàn ghế
khơng được tính là phí nhượng quyền nhưng vẫn được các chủ thương hiệu yêu cầu đầu
tư để đảm bảo tính đồng bộ, khả năng thành cơng của doanh nghiệp nhận quyền.
Phí nhượng quyền là khoản tiền mà bên nhận quyền phải thanh toán cho bên
nhượng quyền để được sử dụng các quyền thương mại, các bí quyết kinh doanh của bên
nhượng quyền. Pháp luật khơng có quy định cụ thể cho khoản phí này. Mức phí,
phương thức thanh tốn, thời gian thanh tốn thường do các bên tự thỏa thuận.
Phí như ng quyền ban đầu chỉ bao gồm quyền sử dụng tên và hệ thống sản n ban đầu chỉ bao gồm quyền sử dụng tên và hệ thống sản u chỉ bao gồm quyền sử dụng tên và hệ thống sản bao gồm quyền sử dụng tên và hệ thống sản m quyền ban đầu chỉ bao gồm quyền sử dụng tên và hệ thống sản n sử dụng tên và hệ thống sản dụng tên và hệ thống sản ng tên và h ệ thống sản thống sản ng s ản n
xuất, điều hành, và không bao gồm tài sản cố định, bất động sản.t, điền ban đầu chỉ bao gồm quyền sử dụng tên và hệ thống sản u hành, và không bao gồm quyền sử dụng tên và hệ thống sản m tài sản n cống sản định, bất động sản.nh, bất, điều hành, và không bao gồm tài sản cố định, bất động sản.t đ ộng sản.ng s ản n.
Phí duy trì đư c trích ra từ doanh thu bán hàng, nhưng cũng có thể là một khoản doanh thu bán hàng, nh ưng cũng có thể là một khoảnng có th ể là một khoản là m ộng sản.t kho ản n
xác định, bất động sản.nh. Phí này dao động sản.ng từ doanh thu bán hàng, nhưng cũng có thể là một khoản 1-8% trên doanh thu
Thứ tư, thời hạn hiệu lực Hợp đồng. Thời hạn hiệu lực hợp đồng là khoảng thời
gian từ khi hợp đồng có hiệu lực tới khi hợp đồng hết hạn. Pháp luật nước ta không quy
định về thời gian tối đa hoặc tối thiểu của thời hạn hợp đồng. Thời hạn hiệu lực hợp đồng
do các bên tự thỏa thuận tùy theo nhu cầu và đặc điểm của ngành, lĩnh vực kinh doanh
đảm bao thời hạn hợp đồng là phù hợp để đem lại lợi ích cho ca bên nhận quyền và bên
nhượng quyền.
Thứ năm, gia hạn, chấm dứt hợp đồng và giải quyết tranh chấp
Chấm dứt hợp đồng là thời điểm hợp đồng hết hiệu lực. Hợp đồng chấm dứt có thể
phân thành chấm dứt thông thường do hợp đồng hết hạn hoặc chấm dứt bất thường do
một trong hai bên đơn phương chấm dứt hợp đồng. Điều 16, nghị định 35/2006/NĐ-CP
quy định rõ về trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng. Đối với vấn đề giải quyết
tranh chấp cần lưu ý đối với nội dung hợp đồng nhượng quyền thương mại, theo đó cần
chỉ rõ nguồn luật điều chỉnh hợp đồng, vì đối với vấn đề giải quyết tranh chấp trong hợp
đồng nhượng quyền thương mại ngoài quy định của BLDS, luật Thương Mại cần có quy
định cụ thể để các bên tham gia hợp đồng có cơ sở pháp lý trong q trình thương lượng,
hịa giải hoặc giải quyết tranh chấp. Việc quy định nội dung của hợp đồng chỉ mang tính
chất gợi mở, khơng có tính bắt buộc đối với các bên tham gia hợp đồng. Ngoài các nơi
dung chính trên, các bên có thể tự thỏa thuận các điều khoản được cho là quan trọng
trong việc ràng buộc nghĩa vụ và đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia nhượng quyền.
Có thể nói rằng sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại được thiết lập, sự
ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được thể hiện rõ nét, theo đó bên
nào vi phạm cam kết, thỏa thuận phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi vi
phạm của mình. Tuy nhiên, HĐNQTM có thể chấm dứt khi xuất hiện các căn cứ theo quy
định của pháp luật.
HĐNQTM là sự thể hiện của HĐDS nói chung. Đây là một trong những chế định
quan trọng của pháp luật dân sự, là phương tiện pháp lý quan trọng để thỏa mãn quyền,
lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội. HĐNQTM được xác lập sẽ hình thành mối
quan hệ pháp lý giữa các chủ thể tham gia quan hệ nhượng quyền thương mại, mối liên
hệ pháp lý này được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Do đó,
có thể nói rằng sau khi hợp đồng được thiết lập, sự ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể được thể hiện rõ nét, theo đó bên nào vi phạm cam kết, thỏa thuận
phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi vi phạm của mình. Tuy nhiên,
HĐNQTM cũng giống như hợp đồng dân sự có thể chấm dứt khi xuất hiện các căn cứ
theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào những quy định của pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng thì thời điểm có hiệu lực của HĐNQTM bắt đầu từ thời điểm Hợp đồng được công
chứng. Cũng tức là, từ thời điểm này các bên phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã cam
kết trong Hợp đồng. BLDS 2015 quy định về chấm dứt hợp đồng tại Điều 422 thì hợp
đồng chấm dứt hợp đồng trong các trường hợp sau:
1. Hợp đồng đã được hoàn thành;
2. Theo thỏa thuận của các bên;
3. Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại
mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện;
4. Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện;
5. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng khơng cịn;
6. Hợp đồng chấm dứt theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này;
7. Trường hợp khác do luật quy định
Nằm trong quy luật vận động của các sự vật và hiện tượng nói chung, HĐNQTM
cũng trải qua các giai đoạn phát sinh, phát triển và chấm dứt. Tuy nhiên, khác với các sự
vật, hiện tượng khác, hợp đồng dân sự nói chung và HĐNQTM nói riêng bao giờ cũng
được phát sinh từ những hành vi có ý thức của các chủ thể. Vì vậy, các sự kiện làm chấm
dứt một hợp đồng dân sự không phải là các sự biến sinh ra do sự vận động của tự nhiên
mà đó là những sự kiện được xuất hiện từ hành vi có ý thức của các chủ thể hoặc do pháp
luật quy định. Các căn cứ chấm dứt hợp đồng dân sự nói chung cũng là căn cứ chấm dứt
nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng). Thơng qua đó, những quy định về HĐNQTM
là chế định quan trọng góp phần thiết lập cơ chế quản lý có hiệu quả của Nhà nước đối
với vấn đề đất đai nói chung. Việc xác định đặc điểm, và nội dung có liên quan đến
HĐNQTM đã hỗ trợ một phần lớn trong việc thiết lập các quy phạm pháp luật chặt chẽ
nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về kinh tế Việt Nam. Ngày nay, trong cơ
chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, toàn bộ những quy định về thương mại nói
chung và nhượng quyền thương mại nói riêng đã phát huy hơn nữa vai trò quan trọng
nhằm tạo nền tảng cơ bản cho hoạt động phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong tiến
trình hội nhập kinh tế của tình hình mới.
1.4 Giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại là hoạt động khá phức tạp do đó, đối với hợp đồng
nhượng quyền thương mại cũng dễ xảy ra tranh chấp. Tranh chấp có thể phát sinh trong
q trình giao kết hợp đồng, cung có thể phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng
nhượng quyền thương mại. Các tranh chấp thường xảy ra bao gồm: tranh chấp về tài liệu
công bố, tranh chấp do thay đổi hệ thống , tranh chấp do vi phạm thỏa thuận cạnh tranh,
tranh chấp về chuyển nhượng cho bên thứ 3…. Do đó, trong các điều khoản của hợp
đồng nhượng quyền thương mại cần chỉ rõ các điều khoản về chọn luật áp dụng giải
quyết tranh chấp cũng như điều khoản về giải quyết tranh chấp. Các hợp đồng nhượng
quyền thương mại thường là những thỏa thuận phức tạp và lâu dài do đó khi phát sinh
tranh chấp cũng rất phức tạp khi giải quyết. Trong các điều khoản của hợp đồng cần quy
định rõ các điều khoản giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, thỏa thuận, bằng trọng tài,
bằng tòa án…
Bên cạnh sử dụng Luật thương mại, vì hợp đồng nhượng quyền thương mại có liên
quan hoặc mang đặc tính của hợp đồng chuyển giao cơng nghệ, hợp đồng li-xăng nên có
thể dựa vào luật quy định cho các hoạt động này để giải quyết khi có tranh chấp.
Như vậy, nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại được quy định cụ thể chi
tiết theo luật thương mại 2005 và nghị định 35/2006/NĐ-CP. Các quy định của pháp luật
đã chỉ rõ các u cầu về nội dung chính cần có trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
từ chủ thể, đối tượng hợp đồng tới quyền và nghĩa vụ các bên, mức phí, thanh tốn cho
tới chấm dứt hợp đồng và giải quyết tranh chấp đều được quy định cụ thể. Với chủ thể
của hợp đồng nhượng quyền thương mại được quy định rõ phải là thương nhân và đưa ra
các điều kiện cụ thể về thời gian hoạt động, đăng ký hoạt động cho doanh nghiệp làm
điều kiện đủ để tiến hành nhượng quyền là hợp lý. Khi hai bên chưa có sự am hiểu và tin
tưởng, việc các đơn vị đã đăng ký với cơ quan nhà nước, cung cấp giấy đăng ký kinh
doanh như một cầu nối pháp lý, bước đầu tạo được niềm tin cho các bên. Quy định về
thời gian hoạt động tối thiểu của bên nhượng quyền giúp đảm bảo tránh rủi ro cho các
bên tham gia nhượng quyền bởi nhượng quyền thương mại đòi hỏi tính hệ thống và uy tín
của bên nhượng quyền rất cao. Quy định của pháp luật Việt Nam cũng đã đưa ra quy định
về đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại song những quy định này cần cụ
thể hơn đối với lĩnh vực dịch vụ ăn uống bởi lĩnh vực dịch vụ ăn uống có những đặc điểm
về hương vị, phong cách, khơng khí…. Là những tài sản vơ hình rất khó định lượng.
Pháp luật nước ta cũng đã chỉ ra khá cụ thể những quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. Các quy định đưa ra nhằm bảo vệ lợi ích các
bên. Quy định về sự kiểm soát của bên nhượng quyền đảm bảo quyền lợi của bên nhượng
quyền với tính hệ thống, chất lượng của chuỗi nhượng quyền cũng như theo sát các
khoản thu trên doanh thu mà bên nhượng quyền được hưởng. Quy định về việc bên nhận
quyền được bên nhượng quyền hỗ trợ về kỹ thuật và được đối xử bình đẳng, đảm bảo
quyền cơ bản của bên nhận quyền. Tuy nhiên các quy định này với bên nhận quyền chỉ
mang tính định hướng, không đưa ra những quy định giới hạn cụ thể. …Như vậy, mặc dù
đối với nội dung của Hợp đồng nhượng quyền thương mại, các quy định của pháp luật
nước ta cụ thể là trong nghị định 35/2006/NĐ-CP đã đưa ra những quy định khá cụ thể,
đảm bảo những nội dung cơ bản, đảm bảo quyền lợi cơ bản và lợi ích chính đáng của các
bên tham gia, tuy nhiên cũng có một số điều khoản vẫn mang tính định hướng cần được
bổ sung quy định cụ thể, chi tiết hơn.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại là hoạt động quan trọng và có ý nghĩa đối với
từng địa phương, để thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển bền vững, để xây dựng thành cơng
chương trình phát triển tại nước ta trên cơ sở xây dựng các cơ sở vật chất nói chung. Từ
đó thể hiện tính cần thiết trong thực tế. Do vậy việc quản lý vấn đề này thông qua các
quy định về hợp đồng nhượng quyền thương mại được Đảng nhà nước ta đặc biệt quan
tâm và có nhiều quy định chặt chẽ thơng qua các văn bản được ban hành một cách cụ thể.
Từ đó, nhằm đảm bảo việc quản lý được công khai minh bạch, đảm bảo nhằm phát huy
được vai trò của trong q trình xây dựng các cơng trình xây dựng. Tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân và chính quyền địa phương trong cuộc sống sinh hoạt, kinh doanh và
du lịch thúc đầy kinh tế, văn hóa, xã hội địa phương ngày càng phát triển đáp ứng u
cầu cơng nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Thứ nhất, với việc đề cập đến các khái niệm về NQTM, hợp đồngNQTM, vai trò
của hợp đồng NQTM, chương 1 đã giúp ta có cái nhìn tổng quát về hoạt động NQTM và
ứng dụng của hợp đồng NQTM trong quá trình vận hành và phát triển của hoạt động
NQTM.
Thứ hai, đi sâu hơn vào nghiên cứu về hợp đồng NQTM từ đối tượng, chủ thể,
hình thức, nội dung, pháp luật điều chỉnh đã mang đến những hiểu biết cần thiết về hợp
đồng NQTM. Đây chính là những vấn đề sẽ được tiếp tục nghiên cứu ở chương thực
trạng pháp luật, từ đó luận văn sẽ đề xuất các phương hướng giải quyết và hoàn thiện
pháp luật liên quan đến hoạt động nhượng quyền thương mại.
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
2.1 Tổng quan về pháp luật nhượng quyền tại Việt Nam
2.2 Tổng quan tình hình nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
“Phương thức kinh doanh NQTM xuất hiện tại Việt Nam từ trước năm 1975,
thông qua một số hệ thống nhượng quyền các trạm xăng dầu của Mỹ như: Mobil, Exxon
(Esso), Shell. Sau đó, NQTM xuất hiện trở lại vào giữa thập niên 90 của thế kỷ XX.
Cùng với tốc độ phát triển của loại hình kinh doanh NQTM, năm 2005, Luật Thương mại
(Điều 284) cũng đã đề cập đến NQTM. Trong những năm gần đây, với xu hướng mở cửa
hội nhập kinh tế nhanh, Việt Nam trở thành thị trường được các thương hiệu lớn quốc tế
và khu vực quan tâm tìm kiếm cơ hội hợp tác NQTM”.
“Theo Bộ Cơng Thương tính đến năm 2020, Việt Nam đã cấp phép cho 262 DN
nước ngồi nhượng quyền tại Việt Nam, trong đó có thể kể đến các thương hiệu lớn như:
McDonalds, Baskin Robbins (Hoa Kỳ), Pizza Hut, Burger King (Singapore), Lotteria,
BBQ Chicken (Hàn Quốc), Swensens (Malaysia), Karren Millen, Coast London (Anh),
Bvlgari, Moschino, Rossi (Italia)… Lĩnh vực nhận NQTM từ các thương hiệu nước ngoài
nhiều nhất ở Việt Nam là chuỗi thức ăn nhanh, nhà hàng chiếm 41,31%; cửa hàng bán lẻ
nội thất, mỹ phẩm, bán lẻ hàng hóa tiêu dùng khác…chiếm 15,49%; thời trang chiếm
14,08%; giáo dục - đào tạo chiếm 11,47%… Riêng năm 2018, Việt Nam đã cấp phép
nhượng quyền cho 17 DN nước ngoài với các thương hiệu như: JYSK A/S (Đan Mạch chuyên đồ gia dụng, trang trí); Puma SE (Đức - giày và quần áo thể thao); Factory Japan
Group (Nhật Bản - massage)…”. “Trong nước, các DN Việt Nam cũng đã hình thành mơ
hình NQTM để phát triển thị trường, nâng cao giá trị thương hiệu. Tiêu biểu cho mô hình
NQTM của các DN Việt Nam phải kể đến Trung Nguyên, Phở 24, Kinh Đô Bakery, thời
trang Ninomax, Highland, Phúc Long, Foci, giày dép T&T, kinh doanh cà phê Bobby
Brewers … Trong đó, Phở 24, DN tư nhân Đức Triều (kinh doanh sản phẩm giày dép da,
túi xách thương hiệu T&T) và Công ty TNHH Vũ Giang (kinh doanh cà phê Bobby
Brewers) đã được cấp phép nhượng quyền ra nước ngoài”. Việc phát triển kinh doanh
theo phương thức NQTM đã giúp các DN NQTM tận dụng được nguồn vốn, nhân lực từ
đối tác để mở rộng kinh doanh, đồng thời gia tăng doanh số và lợi nhuận từ nguồn thu chi
phí nhượng quyền, nâng cao giá trị thương hiệu và nâng tầm DN. Đối với bên nhận
NQTM, mơ hình này giúp hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. Nhờ uy tín của các thương
hiệu lớn nhượng quyền, sản phẩm của các DN vừa và nhỏ được tiêu thụ mạnh trên thị
trường và được người tiêu dùng biết đến. Các DN cũng tiết kiệm đáng kể chi phí để tạo
dựng thương hiệu cũng như quảng cáo, xúc tiến bán hàng. Hoạt động NQTM không chỉ
mang lại cơ hội đầu tư kinh doanh lớn cho các chủ đầu tư mà còn là phương cách giúp
mở rộng, phát triển thị trường nội địa cạnh tranh lành mạnh. Với việc nhận NQTM từ các
DN nước ngoài, các DN Việt Nam được chuyển giao những thương hiệu có uy tín và
được học hỏi, tiếp cận cách thức kinh doanh và phương thức quản lý tiên tiến của thế
giới. Hiện, ngày càng nhiều DN Việt Nam tìm kiếm cơ hội kinh doanh mới thông qua
NQTM. “Hiện xu hướng NQTM tại Việt Nam chủ yếu dừng lại ở mơ hình nhượng quyền
cấp 1 (gọi là nhượng quyền độc quyền) khi thương hiệu quốc tế trao quyền cho một DN
nội địa phát triển hệ thống chi nhánh trên toàn lãnh thổ dưới hình thức tự đầu tư và kinh
doanh (gọi là phát triển hệ thống chuỗi). Rất ít thương hiệu quốc tế tại Việt Nam phát
triển thị trường qua hình thức nhượng quyền cấp 2 (gọi là nhượng quyền thứ cấp), khi đối
tác cấp 1 tiếp tục nhượng quyền từng chi nhánh hoặc từng khu vực cho một đối tác thứ
cấp tiếp theo. Với 8.549 chợ, 1.167 siêu thị và 254 trung tâm thương mại, dân số trên
99,3 triệu người (31/12/2021), Việt Nam được các nhà đầu tư ngoại đánh giá là thị trường
đầy tiềm năng cho hoạt động NQTM. Ngoài ra, sức tiêu thụ cao, thu nhập của người dân
ngày càng tăng và độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn cũng là những yếu tố thu hút DN
ngoại tìm kiếm cơ hội, mở rộng thị trường NQTM tại Việt Nam. Theo báo cáo của Bộ
Công Thương, dù bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, nhưng năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng vẫn tăng trưởng 2,6%, đạt 5.059,8 nghìn tỷ đồng.
Cùng kỳ năm 2019 tăng 12,23%; Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa
12 tháng đạt 3.996 nghìn tỷ đồng, chiếm 79,0% tổng mức và tăng 6,8% so với cùng kỳ
năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 13,15%). Nhiều thương hiệu đã chọn hình thức
nhượng quyền hàng loạt thay vì nhượng quyền từng cửa hàng như trước đây để đẩy
nhanh tốc độ nhân rộng. Đồng thời, cũng đã xuất hiện ngày càng nhiều thương hiệu lớn
với phương thức kinh doanh tự phát triển, xây dựng hệ thống cửa hàng trực thuộc trong
một thời gian nhất định, sau đó nhượng quyền lại cho đối tác kinh doanh”. “Theo Hiệp
hội Nhượng quyền Quốc tế, Việt Nam đứng thứ 8/12 thị trường hàng đầu được xác định
là có giá trị nhất cho việc mở rộng tồn cầu. Các lĩnh vực tiềm năng cho các DN nhượng
quyền bao gồm: Thực phẩm và đồ uống, giáo dục, y tế và dinh dưỡng, dịch vụ kinh
doanh, khách sạn, thời trang, làm đẹp và chăm sóc da, giải trí, dịch vụ trẻ em và cửa hàng
tiện lợi. Việt Nam cũng được dự báo sẽ là điểm đến của các thương hiệu quốc tế, đặc biệt
là các thương hiệu khu vực ASEAN”.
Mặc dù tiềm năng thị trường NQTM của Việt Nam là rất lớn, nhưng vẫn còn
những thách thức do hoạt động NQTM ở Việt Nam cịn mang tính tự phát và thiếu
chun nghiệp. Mơi trường pháp lý chưa hồn thiện, thiếu đồng bộ. Các DN Việt Nam
khi nhượng quyền ra nước ngồi khơng chỉ cạnh tranh quyết liệt với các nhà nhượng
quyền hàng đầu tại thị trường quốc tế mà cịn đối mặt với khơng ít khó khăn như: Thiếu
vốn, thiếu trình độ quản lý và kiểm sốt, chưa chuẩn hố được quy trình và thương hiệu,
chưa hoạch định chiến lược và mơ hình kinh doanh phù hợp nên hầu như chưa thực hiện
được mơ hình NQTM tồn diện, ít quan tâm đến bảo hộ thương hiệu. Bên cạnh đó, Việt
Nam chưa có nhiều thương hiệu nội địa mạnh và uy tín nên chưa hấp dẫn các nhà đầu tư
tham gia nhượng quyền, làm giảm khả năng nhượng quyền lẫn nhận NQTM của các DN
Việt Nam.
Ngoài ra, doanh nghiệp NQTM trong nước cũng gặp khó khăn về chi phí khi thuê
mặt bằng kinh doanh. Việc gia hạn hợp đồng thuê không thuận lợi, buộc người nhận
NQTM phải chuyển địa điểm kinh doanh, làm mất đi lượng khách hàng quen thuộc đã
làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của DN. Ban kế hoạch kinh doanh là đơn vị
nghiệp vụ thực hiện chức năng quản trị kinh doanh, điều độ sản xuất, quản lý hợp đồng,
quan hệ đối ngoại.
2.3 Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại tại Việt
Nam
2.3.1 Kết quả đạt được
Trên thực tế thì việc tăng cường pháp luật và thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên
nhượng quyền thương mại luôn được thực hiện nghiêm túc và cụ thể. Thực hiện quyền và
nghĩa vụ của bên nhượng quyền là hoạt động quản lý của các chủ thể tham gia các hoạt
động xây dựng trong quá trình chuẩn bị, thực hiện đầu tư xây dựng cơng trình và khai
thác, sử dụng cơng trình nhằm đảm bảo các yêu cầu về chất lượng và an toàn của vấn đề
nhượng quyền thương mại. Theo quy định pháp luật hiện hành, sau khi hợp đồng được kí
kết, bên nhượng quyền phải tiến hành các công việc đúng tiến độ, chất lượng theo hợp
đồng. Bảo quản các tài liệu và phương tiện làm việc do bên giao thầu cung cấp. Thông
báo bằng văn bản cho bên nhượng quyền những thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương
tiện làm việc không đảm bảo chất lượng ảnh hướng đến việc thực hiện hợp đồng nhượng
quyền thương mại được áp dụng cụ thể trong thực tế. Trước khi thanh toán, quyết toán
hợp đồng nhượng quyền thương mại của các doanh nghiệp đảm bảo các công việc này
đạt điều kiện về chất lượng trong quá trình áp dụng trong thực tế.
Nhờ hoạt động nhượng quyền với các thương hiệu từ nước ngoài vào Việt Nam
mà hoạt động của hệ thống nhượng quyền ngày càng phát triển chuyên nghiệp. Thúc đẩy
các doanh nghiệp hoàn thiện, phát triển xây dựng để đẩm bảo điều kiện của hệ thống
nhượng quyền hiện đại với các tiêu chuẩn từ các thương hiệu nước ngoài như các tiêu
chuẩn về diện tich nhà hàng, tiêu chuẩn về trang trí thiết kế cho tới yêu cầu phong cách
phục vụ ngày càng chuyên nghiệp.
Các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận và phát triển nhượng quyền các thương hiệu
từ nước ngoài ngày càng nhiều. Việc tiếp nhận nhượng quyền từ nước ngoài giúp các
doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận được với mơ hình nhượng quyền tiên tiến từ các quốc
gia mà hoạt động nhượng quyền của họ đã rất phát triển, với các điều khoản, điều kiện
trong Hợp đồng nhượng quyền thương mại họ đưa ra, với cách thức hoạt động hệ thống
nhượng quyền từ nước ngồi như một hình mẫu để học hỏi. Nhận nhượng quyền từ các
thương hiệu dịch vụ ăn uống từ nước ngoài đem lại nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp
doanh nghiêp trong nước như được sử dụng tên các thương hiệu đã nổi tiếng thế giới, uy
tín và đã có lượng khách hàng u thích nhất định, được hoạt động theo một mơ hình đã
thành cơng, có những cơng thức chế biến thức ăn đồ uống đã được nhiều người u
thích….Chính vì vậy, việc các thương hiệu nước ngồi tiến hành nhượng quyền tại Việt
Nam luôn được các doanh nghiệp Việt Nam hưởng ứng và thực hiện cũng như thu lại
nhiều kết quả cao.
Có thể thấy, thị trường nhượng quyền đối với các tương hiệu nội địa cũng là một
thị trường vơ cùng tiềm năng, có những thương hiệu đã thành cơng nhưng cũng có khơng
ít các thương hiệu những tưởng sẽ thành công lớn nhưng lại thất bại. Hoạt động nhượng
quyền thương mại đối với dịch vụ ăn uống tại Việt Nam mới bước đầu phát triển. Đối với
các doanh nghiệp tiên phong đi đầu trong lĩnh vực nhượng quyền như Trung Nguyên gặp
những khó khăn đáng kể khi là đầu tàu, chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực
nhượng quyền, hệ thống pháp luật khi đó lại chưa đề cập nhiều, chưa được hướng dẫn chi
tiết để thực hiện hợp đồng cho hoạt động nhượng quyền, lại khơng có những mẫu gương
các doanh nghiệp đi trước, địi hỏi các doanh nghiệp vừa làm vừa tìm tịi học hỏi. Cho
đến nay, có khá nhiều các doanh nghiệp đã tham gia vào lĩnh vực nhượng quyền thương
mại, kinh nghiệm và những tấm gương đi trước cũng dày dặn hơn, hệ thống pháp luật
cũng đầy đủ, chi tiết hơn trong việc hướng dẫn các doanh nghiệp kinh doanh theo đúng
quy định pháp luật. Các doanh nghiệp lại phải có hướng đi đúng đắn cho mình trong viêc
xác định mục tiêu, quản lý, chất lượng sản phẩm…. tránh đi phải vết xe đổ của những
thất bại của các doanh nghiệp từng có. Các doanh nghiệp kinh doanh xây dựng thương
hiệu nhượng quyền đã có nhiều kinh nghiệm, phát triển thương hiệu từng bước, chậm mà
chắc. Đi từ tái cấu trúc doanh nghiệp mình, nhượng quyền trong nước rồi tiên tới nhượng
quyền ra nước ngồi. Nhượng quyền thành cơng ra nước ngồi là mục tiêu của mọi doanh
nghiệp nhượng quyền.
2.3.2 Khó khăn, bất cập
Pháp luật Việt Nam về nhượng quyền thương mại cơ bản bao gồm Luật thương
mại 2005, nghị định 35/2006/NĐ-CP, nghị định 120/2011/NĐ-CP , văn bản hợp nhất
nghị định 15/VBHN-BCT và được điều chỉnh them bởi một số luật khác như luật sở hữu
trí tuệ, luật cạnh tranh … tuy nhiên, do tính chất phức tạp của Hợp đồng nhượng quyền
thương mại, do đó, một số vần đề được đề cập trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
có điểm đối ngược với quy định trong các hệ thống luật khác như luật sở hữu trí tuệ, luật
cạnh tranh như vấn đề chuyển giao “Tên thương mại” trong Luật sở hữu trí tuệ là hành vi
khơng hợp pháp nhưng đối với pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại thì đây
là một yếu tố đặc trưng, cấu thành nên hình thức nhượng quyền thương mại. Vấn đề điều
chỉnh, cải tiến đối tượng sở hữu công ghiệp được luật sở hữu trí tuệ cho phép nhưng đây
lại là hành vi bị cấm nếu chiếu theo yêu cầu của hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Hay như đối với Luật cạnh tranh cấm việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường “áp đặt
điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc
doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của
hợp đồng” nhưng xét đối với trong Hợp đồng nhượng quyền thương mại đặc biệt trong
lĩnh vực dịch vụ ăn uống , để đảm bảo tính thống nhất, chất lượng sản phẩm cho cả hệ
thống, bên nhượng quyền thường yêu cầu bên nhận quyền mua các ngun vật liệu chính
từ mình. Việc các luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại chưa được đồng
nhất gây khó khăn cho các thương nhân trong quá trình thực hiện nhượng quyền thương
mại.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại nói chung và trong lĩnh vực dịch vụ ăn uống
nói riêng mang tính chất phức tạp, dễ dàng xảy ra các tranh chấp. Tuy nhiên trong các
quy phạm pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại của nước ta còn chưa đưa ra
các quy định cụ thể để điều tiết, xử lý các trường hợp. Tiêu biểu như việc pháp luật nước
ta chưa đưa ra quy định cụ thể về thời gian hiệu lực tối thiểu của hợp đồng, điều này gây
khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thỏa thuận, bởi bên nhượng quyền hay
bên nhận quyền đều muốn các điều khoản có lợi nhất cho mình, mà thời hạn hợp đồng sẽ
ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của các bên. Hay như với điều khoản về giải quyết tranh
chấp, các quy định về Nhượng quyền thương mại và hợp đồng nhượng quyền thương mại
cũng chưa đưa ra các trường hợp và hướng giải quyết, các vấn đề giải quyết tranh chấp
chỉ được nói chung chung, điều này gây khó khăn khi các doanh nghiệp tham gia vào hợp
đồng nhượng quyền thương mại không biết nên xử lý tranh chấp khi ở mức độ nào. bằng
phương thức nào hay trình tự thủ tục cụ thể ra sao.
Cùng với đó, hoạt động nhượng quyền thương mại hiện nay mới chỉ được quản lý
chung bởi Sở thương mại (nay là Bộ Cơng Thương) , chưa có một cơ quan chủ quản
riêng biệt nào chuyên trách cho hoạt động nhượng quyền thương mại, xử lý các vấn đề
tranh chấp trong nhượng quyền thương mại. Do đó, khi có các vấn đề nảy sinh, các tranh
chấp trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, các bên tham gia thường lung túng,
không biết cần tới cơ quan nào để giải quyết. Bộ Công thương quản lý chung rất nhiều
các hoạt động về thương mại, không thể tránh khỏi việc giải quyết các vấn đề tranh chấp
về nhượng quyền thương mại, tranh chấp trong hợp đồng nhượng quyền thương mại sẽ
mất thời gian và kém hiệu quả hơn so với việc có một cơ quan chuyên trách giải quyết.
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến những hạn chế trong việc thực thi pháp luật về hợp
đồng nhượng quyền thương mại đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ ăn uống đó là về nhận
thức của người dân. Pháp luật về hợp đồng thương mại còn khá mới mẻ với người Việt
Nam. Thêm vào đó, do đặc điểm kinh doanh cịn mang tính nhỏ lẻ nên các hình thức
nhượng quyền thương mại chủ yếu với các hàng quán nhỏ lẻ, quy mô nhỏ, chưa có hệ