MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................................3
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu.....................3
4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu..........................................................4
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài............................................4
6. Bố cục của khóa luận......................................................................................5
NỘI DUNG.........................................................................................................6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
Ở VIỆT NAM.....................................................................................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa..............................6
1.1.1. Khái niệm...............................................................................................6
1.1.2. Đặc điểm................................................................................................7
1.2. Vai trò, ý nghĩa của các doanh nghiệp nhỏ và vừa......................................7
1.3. Pháp luật một số nước trên thế giới về hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa
.............................................................................................................................9
1.4. Khái quát pháp luật Việt Nam về hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ
và vừa................................................................................................................12
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.................................................................................14
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ PHÁT
TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN15
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở việt nam
...........................................................................................................................15
2.1.1. Quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và các vấn
đề liên quan....................................................................................................15
2.1.2. Mối tương quan giữa pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa với
các chính sách liên quan của cơ quan nhà nước............................................30
2.1.3. Hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa.............................................................................................................41
2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.........43
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.................................................................................51
KẾT LUẬN.......................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể thấy hiện ở nước ta có khoảng 93% trong tổng số doanh nghiệp hiện
có là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó là 80% các doanh nghiệp nhà
nước thuộc nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khu vực kinh tế tư nhân doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng 97% xét về vốn và 99% xét về lao động so với
tổng số doanh nghiệp của cả nước. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ
trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp hiện tại. Doanh nghiệp
vừa và nhỏ còn giữ vai trò ổn định nền kinh tế đồng thời cũng có đóng góp to
lớn, quan trọng vào thu ngân sách, tạo cơng ăn việc làm trong cả nước, đóng góp
một phần khơng nhỏ vào giá tị GDP cho nước ta.
Tính đến thời điểm hiện nay, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm
2017 đã có hơn 4 năm thi hành, về cơ bản Luật cũng như các văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan đã chứng tỏ được vai trị của mình trong việc tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước để phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đã được xây dựng tương đối hoàn thiện, tạo ra
hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh về hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa,
xác lập nguyên tắc và quy định cụ thể các hoạt động hỗ trợ cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa, cũng như ghi nhận trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính
quyền địa phương cấp tỉnh, cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan trong
công tác hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm,
những thành tựu đã đạt được, pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Việt Nam vẫn cịn tồn tại khơng ít hạn chế, khiếm khuyết. Các biện pháp hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa dù được xây dựng và quy định tương đối tồn diện,
nhưng vẫn cịn nặng về hình thức, chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Mặt khác, trách nhiệm thực hiện hoạt động hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa được quy định có sự tham gia của rất nhiều cơ quan, ban, bộ,
ngành,…dẫn đến dàn trải, thiếu tính thống nhất, tính hệ thống, dẫn đến khó đạt
được hiệu quả hỗ trợ mong muốn.
2
Từ tính cấp thiết trên, em xin chọn phân tích đề tài: Pháp luật về hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là loại hình doanh nghiệp
quan trọng không chỉ với Việt Nam. Hầu như tất cả các nước trên thế giới đều
chú trọng phát triển DNNVV. Các văn bản hướng dẫn hỗ trợ DNNVV của Nhà
nước đã tạo điều kiện cho loại hình doanh nghiệp này phát triển nhanh trong thời
gian qua. Đã có một số cơng trình nghiên cứu, những bài đánh giá phân tích về
DNNVV ở Việt Nam như:
- “Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý về hỗ trợ DNNVV cấp
trung ương và địa phương” (Đề tài khoa học cấp Bộ, 2009);
- “Một số giải pháp phát triển bền vững DNNVV Việt Nam” (Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ, 2007);
- “Quản trị rủi ro trong hoạt động của DNNVV ở Việt Nam” (Đinh Văn
Đức -luận văn thạc sỹ kinh tế, 2009),…
Những đề tài nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào giải quyết vấn đề kinh
tế, sự phối hợp quản lý của Nhà nước hay những thách thức của DNNVV khi
Việt Nam gia nhập WTO…Chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào phân tích, nhìn
nhận khía cạnh pháp lý của các quy định hỗ trợ phát triển DNNVV. Do đó, em
thấy cần thiết phải nghiên cứu đưa ra những đánh giá để hồn thiện về mặt pháp
luật các chính sách hỗ trợ DNNVV phát triển hơn trong thời gian tới.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
- Góp phần bổ sung, hồn thiện cơ sở lý luận về DNNVV và sự hỗ trợ của
Nhà nước đối với DNNVV.
- Phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được và những vướng mắc, bất
cập tồn tại của các quy định pháp luật hiện hành về và sự hỗ trợ của Nhà nước
đối với DNNVV.
- Đề xuất được kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành
về hỗ trợ của Nhà nước đối với DNNVV và các giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả thi hành các quy định pháp luật về và sự hỗ trợ của Nhà nước đối với
DNNVV thực tiễn.
Đối tượng nghiên cứu:
4
- Đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển
kinh tế tư nhân, về hỗ trợ của Nhà nước đối với sự phát triển DNNVV trong giai
đoạn hiện nay.
- Các quy định pháp luật hiện hành về hỗ trợ của Nhà nước đối với
DNNVV, bao gồm: quy định pháp luật về hỗ trợ tín dụng; quy định pháp luật về
hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý; quy định pháp luật về hỗ trợ phát triển nguồn
nhân lực; quy định pháp luật về hỗ trợ mặt bằng sản xuất.
- Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật hiện hành về hỗ trợ của Nhà
nước đối với DNNVV.
Phạm vi nghiên cứu:
Khóa luận nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến sự hỗ trợ của
Nhà nước đối với DNNVV ở Việt Nam được quy định trong Hiến pháp, Luật Hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và các văn bản quy định chi tiết Luật Hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa; Luật Đầu tư…
4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện dựa trên việc sử dụng chủ yếu phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lenin. Đây là phương
pháp chủ đạo xuyên suốt tồn bộ q trình nghiên cứu của khóa luận, để đưa ra
những nhận định, kết luận khoa học đảm tính khách quan, chân thực.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khóa
luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong q trình nghiên cứu: đó
là phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp luật học so sánh; phương pháp
xã hội học pháp luật. Để thực hiện có hiệu quả mục đích nghiên cứu, khóa luận
kết hợp chặt chẽ giữa các phương pháp trong suốt q trình nghiên cứu của tồn
bộ nội dung khóa luận.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Khóa luận có nhiều đóng góp mới cả trên phương diện khoa học và giá trị
ứng dụng của đề tài, cụ thể:
- Khóa luận đã phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về DNNVV và
sự hỗ trợ của Nhà nước đối với DNNVV, xác định các nguyên tắc, nội dung hỗ
trợ DNNVV đảm bảo sự bình đẳng với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế;
5
- Khóa luận làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về hỗ trợ
DNNVV tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, khóa luận chỉ ra những kết quả và hạn
chế, bất cập của các quy định pháp luật về hỗ trợ DNNVV.
- Khóa luận đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ
DNNVV trong công tác xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật trong giai đoạn
hiện nay;
Với những đóng góp trên, khóa luận có thể được ứng dụng trong thực tiễn
xây dựng chính sách, sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành về
hỗ trợ của Nhà nước đối với DNNVV. Đồng thời, khóa luận cũng đồng thời là
tài liệu tham khảo có giá trị, phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập
pháp luật về hỗ trợ DNNVV trong các cơ sở đào tạo luật học ở bậc đại học và
sau đại học.
6. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Khóa luận được kết cấu
gồm 2 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ và kiến nghị hoàn thiện.
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.1. Khái niệm
Thông thường việc giải thích khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên
nội về phân loại quy mô doanh nghiệp khác nhau ở mỗi nước cũng như do các
tiêu chí về trình độ phát triển kinh tế - xã hội nên có những quy định sao cho phù
hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn của mỗi nước là
khác nhau cũng như theo từng nhóm ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu độ lớn
của sự phân loại doanh nghiệp cũng khác nhau.
- “Theo tiêu chí của nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là
doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số
lượng lao động từ 10 đến dưới 200 người và nguồn vốn 20 tỷ trở xuống, cịn
doanh nghiệp vừa có từ 200 đến 300 lao động nguồn vốn 20 đến 100 tỷ.”1
- Tại Việt Nam:
Hiện này, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017 và Nghị định số
39/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ Quy định chi tiết một
số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khơng cịn đưa ra định nghĩa về
doanh nghiệp nhỏ và vừa, chỉ còn cách xác định doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh
nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Căn cứ khoản 10 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2020 quy định như sau:
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
10. Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch,
được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích kinh doanh.”
Như vậy, doanh nghiệp có quy mơ nhỏ và vừa có đầy đủ các đặc điểm của
một doanh nghiệp; như có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch hợp pháp và được
thành lập theo quy định của pháp luật.
Nguyễn Thế Bính (2013), “Kinh nghiệm quốc tế về chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và bài
học cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 12.
1
7
Ngoài ra, căn cứ Điều 4 Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017; quy
định tiêu chí đặc thù xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau:
+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp
nhỏ và doanh nghiệp vừa; có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình qn
năm khơng q 200 người. Và có tổng nguồn vốn khơng q 100 tỷ đồng; Hoặc
có tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng.
+ Doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa được xác
định theo lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp và xây dựng;
thương mại và dịch vụ.
1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mơ vốn khá hạn hẹn và
thường không tiếp cận với nguồn vốn lớn từ các ngân hàng đầu tư. Điều này gây
ra hạn chế trong việc đổi mới trang thiết bị và xúc tiến phát triển công việc cho
các doanh nghiệp này.
Thứ hai: “Doanh nghiệp nhỏ có sự cạnh tranh gắt gao với các cơng ty tập
đồn lớn cùng làm dịch vụ với nhau. Bởi vậy các doanh nghiệp nhỏ thường gặp
thua thiệt trong việc chiếm lĩnh thị trường đặc biệt ở những khu vực nước
ngoài.”2
Thứ ba: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực
thương mại chứ không tập trung vào sản xuất và chế biến. Chủ yếu là các
nghành nghề liên quan đến mua bán sản xuất đồ dùng các loại dịch vụ và phân
bố hàng tiêu dùng.
1.2. Vai trò, ý nghĩa của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa:
“Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo
trong tổng số doanh. Hiện nay có tổng số 95% các doanh nghiệp đăng ký hoạt
động tại Việt Nam hoạt động dưới mơ hình này. Vì thế, đóng góp của họ vào
tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể.”3
Thạc sĩ Bùi Bảo Tuấn: “Hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính
điện tử đăng ngày 23/01/2020.
2
TS. Phùng Thế Đông (2019), “Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam phát triển trong giai đoạn hiện nay”,
Tạp chí Tài chính, kỳ 1 - tháng 10.
3
8
Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều
chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn
định. Vì thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa được ví là thanh giảm sóc cho nền kinh tế.
Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô
nhỏ, nên dễ điều chỉnh và thay đổi phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế.
Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp
nhỏ và vừa thường chun mơn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để
lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
“Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ
sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có
mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách,
vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.”4
Ý nghĩa của các doanh nghiệp nhỏ và vừa:
Việc xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa có ý nghĩa đối với doanh nghiệp và
cơ quan nhà nước. Đây là cơ sở để nhà nước thực hiện các chính sách hỗ trợ đối
với khối doanh nghiệp này. Thực chất, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm một phần
lớn trong nền kinh tế; và là nhân tố đóng góp nhiều vào sản lượng quốc gia. Luật
Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017 là một văn bản pháp lý quan trọng ghi
nhận những chính sách mà doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể được hưởng. Nghị
định 39/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; đã liệt
kê các tiêu chí chính để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Theo đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân theo quy mô bao gồm doanh
nghiệp siêu nhỏ; doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa.
“Quy mô của doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định căn cứ dựa trên lĩnh
vực hoạt động của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp hoạt động trong
nhiều lĩnh vực, doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định căn cứ vào lĩnh vực có
doanh thu cao nhất. Trường hợp khơng xác định được lĩnh vực có doanh thu cao
Nguyễn Văn Trưởng (2018), Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam hiện
nay – Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Chính sách công – Học viện Khoa học xã hội.
4
9
nhất, doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định căn cứ vào lĩnh vực sử dụng nhiều
lao động nhất.”5
Ngày 01/01/2018, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14
bắt đầu có hiệu lực. Đây là văn bản pháp luật quy định các vấn đề liên quan đến
nguyên tắc, nội dung cũng như nguồn lực hỗ trợ sự phát triển của doanh nghiệp
nhỏ và vừa. Tiêu chí xác định quy mô doanh nghiệp như thế nào là doanh nghiệp
nhỏ và vừa là vấn đề mà nhiều tổ chức quan tâm.
1.3. Pháp luật một số nước trên thế giới về hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và
vừa
Pháp luật về DNNVV của Trung Quốc:
“Trung Quốc hiện nay đang là một trong những cường quốc phát triển
mạnh mẽ ở Châu Á và trên thế giới. Ở Trung Quốc, phần lớn là các DNNVV.
DNNVV Trung Quốc chiếm 99,3% tổng số các doanh nghiệp, đóng góp 55,6%
GDP và chiếm 75% tổng số lao động tập trung trong loại hình doanh nghiệp này.
Thập niên trước, Chính phủ Trung Quốc chưa nhận thức được tầm quan trọng
của DNNVV nên chưa có những sách lược hỗ trợ phát triển.” 6 Tuy nhiên, vào
đầu những năm 2000, Trung Quốc đã trở mình vươn vai dần dần thành một
cường quốc trên thế giới, một phần do Chính phủ đã có những chiến lược phù
hợp cho phát triển DNNVV. Năm 2003, Luật Khuyến khích DNNVV của Trung
Quốc có hiệu lực đã giải quyết được ba vấn đề quan trọng liên quan đến sự tồn
vong của DNNVV ở Trung Quốc: thứ nhất là tạo điều kiện bình đẳng trong việc
tiếp cận thị trường giữa các DNNVV; thứ hai là giảm bớt những “gánh nặng”
cho DNNVV và thứ ba là thăm dò các nguồn tài trợ mới cho các DNNVV phát
triển. Các quy định trong Luật Khuyến khích DNNVV của Trung Quốc đã đảm
bảo về mặt pháp lý sự bình đẳng cạnh tranh trên thị trường cho DNNVV và cũng
có những chính sách ưu đãi về thuế cho DNNVV. Ngoài ra, Luật cũng quy định
các chính sách hỗ trợ khác của Chính phủ Trung Quốc dành cho các DNNVV
bao gồm tài chính, đổi mới khoa học công nghệ, khai thác thị trường, hệ thống
Nguyễn Văn Trưởng (2018), Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam hiện
nay – Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Chính sách cơng – Học viện Khoa học xã hội.
5
Nguyễn Thế Bính (2013), “Kinh nghiệm quốc tế về chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và bài
học cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 12.
6
10
dịch vụ xã hội và các khía cạnh khác… Đồng thời, Chính phủ Trung Quốc cũng
có những quy định hỗ trợ DNNVV về thông tin qua Cổng thông tin điện tử
Trung Quốc (CSMEO), hỗ trợ DNNVV xúc tiến mở rộng thị trường qua các
cuộc triển lãm hàng năm để trợ giúp DNNVV phát triển thị trường… Cổng
thông tin Trung Quốc có một thành viên đặc biệt tham gia vào trang web, đó
chính là các DNNVV. Các DNNVV tham gia giao lưu trực tuyến, giới thiệu và
quảng bá sản phẩm của mình. Đồng thời, thơng qua cổng thơng tin này, DNNVV
Trung Quốc được cập nhập những chính sách, quy định về DNNVV sớm nhất.
Có thể nói việc ban hành Luật Khuyến khích DNNVV với những chính sách hỗ
trợ kịp thời, thơng thoáng và đầy đủ, trong một thời gian ngắn (hơn 10 năm)
Chính phủ Trung Quốc đã tạo ra bước nhảy vượt bậc trong quá trình phát triển
DNNVV, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Trung Quốc, đưa Trung Quốc từ
một nước đang phát triển lên hàng những nước tăng trưởng kinh tế hàng đầu
trong khu vực và thế giới. Việt Nam cần phải nghiên cứu bài học kinh nghiệm về
phát triển DNNVV của Trung Quốc để xây dựng, sửa đổi những quy định về hỗ
trợ phát triển DNNVV Việt Nam cịn chưa hợp lý, thiếu sót. Từ đó, tạo cơ sở
vững chắc giúp DNNVV Việt Nam phát triển.
Pháp luật về DNNVV của Nhật Bản:
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai (năm 1948), Nhật Bản thành lập Tổng cục
DNNVV để xúc tiến dân chủ hóa (tư nhân hóa) nền kinh tế và “phát triển
DNNVV độc lập và lành mạnh”. Tiếp sau đó, trải qua các thời kỳ, các chính sách
về DNNVV đã được xây dựng lại và triển khai. Năm 1963 Nhật Bản ban hành
“Luật Cơ bản về doanh nghiệp nhỏ và vừa”, được sửa đổi hoàn toàn vào năm
1999 cho phù hợp với tình hình phát triển và yêu cầu mới đặt ra đối với các
DNNVV của Nhật Bản. Đến năm 1999, khi tình hình kinh tế thế giới gặp khủng
hoảng, Nhật Bản đã tiến hành sửa đổi hoàn toàn “Luật Cơ bản về DNNVV”.
“Luật cơ bản về DNNVV” năm 1999 được ban hành chia hệ thống chính sách
thành các nhóm: “Thúc đẩy cải cách kinh doanh - Khởi nghiệp - Hoạt động kinh
doanh sáng tạo”; “Tăng cường nền tảng kinh doanh” và “Tạo điều kiện thích ứng
với thay đổi mơi trường kinh doanh”. Thơng qua ba nhóm chính sách này, Chính
phủ Nhật Bản định ra những chính sách và giải pháp cụ thể cho các DNNVV. Có
11
thể nói các nhóm chính sách này đã được Nhật Bản ban hành dựa trên quan điểm
là không chỉ các DNNVV tiên tiến mà ngay cả các DNNVV bình thường, các
DNNVV gặp khó khăn đều được xem là chủ thể của công cuộc cải cách và cạnh
tranh. Luật cơ bản về DNNVV đã hệ thống hóa chính sách của Nhật Bản về
DNNVV, quy định những biện pháp hỗ trợ của Chính phủ dành cho DNNVV
trên các mặt tài chính, tín dụng, thuế… Ngồi “Luật Cơ bản về DNNVV”, Chính
phủ Nhật Bản cũng ban hành rất nhiều đạo luật khác thúc đẩy, hỗ trợ DNNVV
phát triển. “Luật Cơ bản” chỉ quy định những chính sách chung mang tính hoạch
định. Các vấn đề cụ thể được ghi nhận, quy định trong các đạo luật khác về
DNNVV như: “Luật Thúc đẩy hoạt động kinh doanh mới của DNNVV” (2005),
“Luật Thúc đẩy sản xuất của DNNVV” (2006)…
Kinh nghiệm hỗ trợ pháp lý cho DNNVV của các nước trên cho thấy về cơ
bản, pháp luật về DNNVV của các nước đều có những điểm tương đồng với Việt
Nam khi hỗ trợ DNNVV trong các vấn đề tài chính, tín dụng, thuế suất, mở rộng
thị trường để nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các DNNVV…Tuy nhiên, ở
mỗi nước, do đặc thù kinh tế - xã hội khác nhau nên các quan điểm phát triển, hỗ
trợ DNNVV cũng khác nhau. Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lưỡng các quy định
pháp luật về hỗ trợ phát triển DNNVV của các nước để đúc rút kinh nghiệm
phục vụ việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hỗ trợ DNNVV phát triển ở Việt
Nam.
12
1.4. Khái quát pháp luật Việt Nam về hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp
nhỏ và vừa
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã khơng ngừng triển khai thực hiện
các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, hoàn thiện khung pháp lý
nhằm đổi mới, tạo động lực cho DN phát triển. Trong năm 2020, Chính phủ trình
và Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư và Luật DN (sửa đổi); Luật Chuyển giao
công nghệ và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng
(năm 2017); Luật Cạnh tranh (năm 2018)… Việc triển khai một số luật quan
trọng này nhằm tạo sự thay đổi tích cực mơi trường đầu tư kinh doanh. Cùng với
đó, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Phá sản, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thuế
thu nhập DN và hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, tác
động tích cực tới cộng đồng DN.
Hằng năm, Chính phủ đã ban hành kịp thời các nghị quyết để đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn mà các DNNVV đặt ra, như Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16
tháng 5 năm 2016 và Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 6 tháng 6 năm 2017 về hỗ trợ
và phát triển DN đến năm 2020; Nghị quyết số 75/NQ-CP ngày 9 tháng 8 năm
2017 về cắt giảm mức phí, chi phí cho DN; Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 3
tháng 10 năm 2017 về Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực
hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3 tháng 6 năm 2017 của Đảng về phát triển
kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 về cải thiện
môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia... Việc triển khai
thực hiện các nghị quyết này đã làm đơn giản hóa và giảm bớt điều kiện kinh
doanh, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, minh bạch cho mọi thành
phần kinh tế, trợ giúp phát triển DNNVV. Nhiều chính sách được sửa đổi, bổ
sung và ban hành mới đã hướng đến mục tiêu mở rộng các quyền và nghĩa vụ
của các đối tượng kinh tế tư nhân liên quan đến đất đai, tạo môi trường thuận lợi
để DN, nhà đầu tư mở rộng quy mơ đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành và chỉ đạo thực hiện việc đẩy mạnh
cơng tác cải cách hành chính, ban hành Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 4 tháng
2 năm 2016 phê duyệt kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 20162020. Điều đó đã tạo sự chuyển biến, nâng cao chất lượng phục vụ của Chính
13
phủ, chính quyền các cấp đối với người dân và DN, xóa bỏ mọi rào cản, đảm bảo
quyền tự do bình đẳng kinh doanh của cá nhân và DN.
Để tiếp tục nâng cao hiệu lực pháp lý, đẩy mạnh thực hiện các chính sách
hỗ trợ DNNVV, tại Kỳ họp thứ 3 Khóa XIV, Quốc hội đã thơng qua Luật Hỗ trợ
DNNVV (năm 2017). Luật có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018, với hàng loạt
chính sách hỗ trợ cơ bản dành cho các DNNVV, như: hỗ trợ tiếp cận tín dụng,
thơng tin, phát triển nguồn nhân lực, tư vấn, công nghệ... đã tạo bước tiến quan
trọng trong cơng tác hồn thiện chính sách hỗ trợ tích cực cho DNNVV phát
triển mạnh mẽ hơn. Chính phủ ban hành Nghị định số 39/2019/NĐ-CP ngày 10
tháng 5 năm 2019 về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển DNNVV. Theo
Nghị định này, Quỹ Phát triển DNNVV thực hiện việc cho vay, hỗ trợ tăng
cường năng lực cho DNNVV; tiếp nhận, quản lý và sử dụng vốn vay, tài trợ,
viện trợ, đóng góp, ủy thác; phân loại nợ, trích lập dự phịng rủi ro và xử lý rủi
ro; quản lý tài chính…
Nhằm tăng cường các chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV và phong trào
khởi nghiệp, Chính phủ ban hành các Nghị định số 34/NĐ-CP ngày 8 tháng 3
năm 2018 về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho
DNNVV; Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2018 quy định chi
tiết về đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo. Cùng với đó là cụ thể hóa các
quy định, chính sách về hỗ trợ DNNVV, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo theo quy
định tại Luật Hỗ trợ DNNVV. Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo ngày càng được
hồn thiện. Cụ thể là, Chính phủ đẩy mạnh vận hành, khai thác và phát triển
Cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia; xây dựng cơ sở dữ liệu về
hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, kết nối hệ sinh thái khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo của Việt Nam với quốc tế. Đồng thời, hỗ trợ DN áp dụng hệ thống
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất
và chất lượng. Khuyến khích hoạt động liên kết ngành, tham gia chuỗi giá trị của
các DN trong nước với chính sách thu hút đầu tư nước ngồi.
14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tại Việt Nam nói riêng và trên tồn thế giới nói chung, DNNVV chiếm số
lượng áp đảo, giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. So với các doanh nghiệp
lớn, DNNVV có nhiều ưu điểm về tính linh hoạt, sự thích ứng cao, nhưng cũng
có nhiều hạn chế, địi hỏi cần có sự hỗ trợ của Nhà nước đối với sự phát triển của
DNNVV.
Các công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút một lượng lớn lao động và
tài nguyên của xã hội để sản xuất ra hàng hố. Để có thêm sức cạnh tranh trực
tiếp với các cơng ty và tập đồn lớn, hàng hố của họ nói chung thiên về sự đa
dạng về chất lượng và chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội được
lựa chọn. Bên cạnh đó họ cũng tiến vào nhiều thị trường nhỏ mà các công ty lớn
bỏ qua vì doanh thu từ đó q nhỏ.
Pháp luật về hỗ trợ của Nhà nước đối với DNNVV là hệ thống các quy
phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước đối với DNNVV và các
chủ thể liên quan, trong quá trình thực hiện các hoạt động hỗ trợ DNNVV. Pháp
luật về hỗ trợ DNNVV cần quán triệt những ngun tắc, mục đích có tính chất
cụ thể, đồng bộ, thống nhất, để đảm bảo tính khả thi trên thực tế.
15
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở việt nam
2.1.1. Quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và các vấn
đề liên quan
Các quy định pháp luật về hỗ trợ tín dụng cho DNNVV:
Vốn là mạch máu của nền kinh tế và của doanh nghiệp, trong thời kì khởi
sự doanh nghiệp, một trong những khó khăn lớn nhất của DNNVV là tiếp cận
nguồn vốn. Điều 8 của Luật Hỗ trợ DNNVV 2017 qui định về hỗ trợ tiếp cận tín
dụng, cụ thể:
“Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách hỗ trợ tổ chức tín
dụng tăng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa; khuyến khích tổ chức
tín dụng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên xếp hạng tín nhiệm
doanh nghiệp và biện pháp phù hợp khác; khuyến khích thành lập tổ chức tư vấn
độc lập để xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp nhỏ và vừa” [Khoản 1, Điều 8, Luật
hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017].
DNNVV được cấp bảo lãnh tín dụng tại Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV
theo quy định của pháp luật. Để cụ thể hóa chính sách này, ngày 10/01/2011,
Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg về Quy
chế bảo lãnh cho DNNVV. Tuy nhiên, đánh giá của Ngân hàng Phát triển Việt
Nam (NHPTVN) cho thấy chính sách bảo lãnh tín dụng cho DNNVV vẫn chưa
phát huy hiệu quả trên thực tế. Tính đến nay tại NHPTVN vẫn chưa phát sinh
khoản bảo lãnh nào của NHPTVN theo Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg. Theo
Bộ Tài chính, nguyên nhân Quyết định 03/2011/QĐ-TTg chưa được triển khai
thực hiện là vì những lí do sau đây: (i) Về phía NHPTVN: NHPTVN lo ngại rủi
ro, tập trung xử lý các dự án đã bảo lãnh trước đây; NHPTVN cho rằng chưa có
cơ chế pháp luật hướng dẫn Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg, đặc biệt là cơ chế
hướng dẫn về quyền và trách nhiệm của các bên trong quan hệ bảo lãnh; (ii) Về
phía tổ chức tín dụng: tổ chức tín dụng khơng muốn cho DNNVV vay vốn được
16
NHPTVN bảo lãnh vì các DNNVV đó thường khơng có hoặc bị hạn chế về tài
sản bảo đảm, dẫn đến rủi ro cao hơn.
Một cơ chế hỗ trợ về tín dụng khác của Nhà nước dành cho DNNVV, đó là
hỗ trợ bảo lãnh tín dụng DNNVV. Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV là quỹ tài
chính nhà nước ngồi ngân sách, hoạt động khơng vì mục tiêu lợi nhuận, do Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh thành lập. Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV thực hiện chức
năng cấp bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.
“Việc bảo lãnh tín dụng cho DNNVV dựa trên tài sản bảo đảm hoặc
phương án sản xuất, kinh doanh khả thi hoặc xếp hạng tín nhiệm của DNNVV.
Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ bảo lãnh
đã cam kết; không được từ chối bảo lãnh cho DNNVV đủ điều kiện được bảo
lãnh” [Điều 9, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017].
Nhằm hỗ trợ DNNVV tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, Bộ Tài
chính đã hồn thiện cơ chế bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV thơng qua hệ
thống Ngân hàng Phát triển Việt Nam và các Quỹ bảo lãnh tín dụng của địa
phương. Theo đó, việc bảo lãnh tín dụng cho DNNVV qua hoạt động của các
ngân hàng, gồm: (i)Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV qua Ngân hàng Phát triển
Việt Nam; (ii) Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV tại địa phương.
Trên thực tế, trước khi Luật Hỗ trợ DNNVV năm 2017 được ban hành, Quỹ
bảo lãnh tín dụng cho DNNVV đã được hình thành và đi vào hoạt động. Bộ Tài
chính đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 58/2013/NĐ-CP
ngày 15/10/2013 về Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh
tín dụng cho DNNVV. Đồng thời, Bộ Tài chính đã có Thơng tư số 147/2014/TTBTC hướng dẫn một số điều của Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg và Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam cũng ban hành Thông tư số 05/2015/TT-NHNN ngày
04/5/2015 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các tổ chức tín dụng phối hợp
với Quỹ bảo lãnh tín dụng trong cho vay có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng
theo quy định tại Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg. Theo báo cáo của Bộ Tài
chính, tính đến nay, cả nước đã có 25 địa phương thành lập Quỹ với tổng số vốn
điều lệ đăng ký ước tính trên 1.300 tỷ đồng, doanh số bảo lãnh của các Quỹ bảo
lãnh tín dụng luỹ kế từ năm 2002 đến nay đạt trên 3.400 tỷ đồng với hàng ngàn
17
DNNVV được bảo lãnh vay vốn. Hà Nội, Hà Giang, Yên Bái, Ninh Thuận, Trà
Vinh, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Kiên Giang, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ,
Thanh Hóa, Sóc Trăng, Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Tháp, Hịa Bình, Đồng
Nai, Bình Định, An Giang, Lạng Sơn, Lâm Đồng, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam
(đang nghiên cứu giao cho Quỹ ĐTPT tỉnh triển khai), Thái Ngun.
Có thể thấy rằng: Mơ hình thể chế và hành lang pháp lý về bảo lãnh tín
dụng đã từng bước được hồn thiện. Tuy nhiên, cả hoạt động bảo lãnh tín dụng
qua hệ thống NHPT và các Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương đều chưa hiệu
quả, chưa đáp ứng được kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp. Nguyên nhân của
tình trạng này là do quy định cịn nhiều vướng mắc gây khó khăn cho việc triển
khai bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Hiện nay, Bộ Tài chính đã phối hợp với
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có những đánh giá, rà sốt tình hình triển khai
thực hiện các Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg và Quyết định số 58/2013/QĐTTg, để báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ nhằm có những điều chỉnh kịp thời,
nâng cao hiệu quả thi hành trên thực tế của công cụ bảo lãnh tín dụng cho
DNNVV.
Quỹ bão lãnh tín dụng sẽ thực hiện một hoặc một số biện pháp: “Cơ cấu lại
nợ (điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ); khoanh nợ; xử lý tài sản bảo đảm; bán
nợ, xóa nợ lãi; xóa nợ gốc trường hợp các khách hàng bị thiệt hại về: tài chính,
tài sản do thiên tai, mất mùa, dịch bệnh, hỏa hoạn, rủi ro chính trị, chiến tranh
gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến khách hàng không
trả được nợ (gốc, lãi) đúng hạn theo hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký; khách
hàng bị phá sản; Nhà nước thay đổi chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của khách hàng, dẫn đến khách hàng không trả được nợ (gốc,
lãi) đúng hạn theo hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký; khách hàng gặp rủi ro do
nguyên nhân khách quan khác ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dẫn đến khách hàng không trả được nợ (gốc, lãi) đúng hạn theo hợp đồng
nhận nợ bắt buộc đã ký; khách hàng có khoản nợ xấu (từ nhóm 3 đến nhóm 5)
theo kết quả phân loại nợ.”7
Thạc sĩ Bùi Bảo Tuấn: “Hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính
điện tử đăng ngày 23/01/2020.
7
18
Qua những phân tích ở trên, có thể thấy rằng: Quy định của pháp luật về hỗ
trợ DNNVV đã thể hiện nhiều điểm tiến bộ so với các quy định trước đây về hỗ
trợ tín dụng cho các DNNVV. Tuy nhiên, từ thực tiễn cũng có thể nhận thấy
nhiều quy định chưa thực sự minh bạch, thống nhất, dẫn đến sự cản trở phát triển
của DNNVV:
Một là, vay vốn tại ngân hàng đòi hỏi nhiều thủ tục, tiêu tốn thời gian, cơng
sức, chi phí và thậm chí vượt q năng lực của DNNVV, chẳng hạn như các quy
định về yêu cầu phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong khi đây
là điểm yếu của DNNVV. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính cịn phức tạp, gây
phiền hà cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh như: thủ tục đất
đai, giải phóng mặt bằng, BHXH, đăng ký kinh doanh/đầu tư...
Hai là, yêu cầu về tài sản thế chấp cho các khoản vay hay hạn mức tín dụng
của doanh nghiệp. Nhiều DNNVV có tài sản nhưng khơng có đủ giấy tờ hợp
pháp, hợp lệ để làm các thủ tục thế chấp như: doanh nghiệp được giao đất sử
dụng nhưng chưa được cấp giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, hay doanh
nghiệp có hợp đồng thuê đất trả tiền hàng năm nhưng lại không được thế chấp
đất đai để vay vốn ngân hàng... Bên cạnh đó, một số tài sản vơ hình của DN chưa
có cơ chế/hướng dẫn cụ thể cho phép được sử dụng làm tài sản thế chấp vay vốn
ngân hàng như: Nhãn hiệu doanh nghiệp, tài sản sở hữu trí tuệ...
Ba là, bất bình đẳng trong cạnh tranh, hỗ trợ giữa DNNVV với doanh
nghiệp nhà nước. Tỷ lệ tín dụng của khu vực doanh nghiệp nhà nước và khách
hàng cánhân chiếm tỷ trọng cao, lấn át khu vực doanh nghiệp tư nhân. Các
doanh nghiệp nhà nước thường dễ tiếp cận vốn hơn, do được Nhà nước bảo lãnh,
dễ tiếp cận tín dụng ưu đãi và đất đai hơn, trong khi đó, nhiều doanh nghiệp nhà
nước lại làm ăn kém hiệu quả. Đáng nói hơn, là nguồn lực kinh tế vẫn chưa dịch
chuyển tích cực sang khu vực tư nhân, khu vực doanh nghiệp này khó tiếp cận
nguồn vốn ODA.
Bốn là, một số quy định hiện nay về mức hỗ trợ vẫn bộc lộ bất cập. Cụ thể,
tại Nghị định số 39/2018/NĐ-CP có quy định về hỗ trợ cho hình thức tổ chức
kinh doanh chuyển đổi từ hộ kinh doanh nhưng chưa có quy định riêng, tách
bạch riêng về mức hỗ trợ riêng đối với từng hình thức tổ chức kinh doanh khác