MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
NỘI DUNG...................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ..................1
1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại.....................................................1
1.2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh thương mại................................................2
1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại....................................3
1.4. Đặc điểm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại......................................3
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ............................................................................................................ 4
2.1. Thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại trong tố tụng dân sự.............................................................................................4
2.1.1. Nguyên tắc cơ bản trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại
trong tố tụng dân sự................................................................................................4
2.1.2. Quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại trong tố tụng dân sự của Tòa án.......................................................................4
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại trong tố tụng dân sự.................................................................................9
2.2.1. Kết quả đạt được...........................................................................................9
2.2.2. Hạn chế, bất cập............................................................................................9
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ..........................................................................................................12
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại.....................................................................................................12
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại...........................................................................12
KẾT LUẬN................................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................14
1
MỞ ĐẦU
Ngày nay, hoạt động kinh tế ln có vai trò hết sức quan trọng, quyết định sự tồn
tại, phát triển của một quốc gia. Trong các quan hệ kinh doanh thương mại, doanh
nghiệp sẽ không thể nào tránh khỏi các tranh chấp mặc dù không hề mong muốn xảy
ra. Với việc nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế, các tranh chấp
về kinh doanh, thương mại diễn ra với chiều hướng ra tăng, nội dung tranh chấp đa
dạng, phức tạp. Nên các tranh chấp cần được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, hiệu
quả của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại có ý nghĩa quan trọng đảm
bảo quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại hiệu quả, công minh và đáng tin cậy là
nhân tố quan trọng trong việc xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh cho sự
phát triển của nền kinh tế. Do đó, trong điều kiện hiện nay, việc nghiên cứu về giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại là hoàn tồn cần thiết. Em xin trình bài đề tài
tiểu luận của mình: “Pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại trong tố tụng dân sự. Thực trạng và hướng hoàn thiện”.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ
1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại
Trước khi BLTTDS (2004) được ban hành, thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh
thương mại” chưa xuất hiện mà được gọi là “tranh chấp kinh tế”. tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng kinh tế và hoạt động tổ chức kinh donah của các doanh nghiệp, hoạt động
mua bán trái phiếu, cổ phiếu được coi là các tranh chấp kinh tế, được điều chỉnh chủ
yếu bởi Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế. Tranh chấp được hiểu là “đấu tranh, giằng co khi
có những mâu thuãn, bất đồng thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên”1.
Theo Điều 29 BLTTDS năm 2004 quy định rõ những tranh chấp về kinh doanh
thương mại là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại
giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Theo Điều 30 BLTTDS năm 2015 thì tranh chấp kinh doanh thương mại được quy
định theo hướng khái qt hóa thay vì sử dụng phương pháp liệt kê theo quy định tại
BLTTDS năm 2014 sửa đổi bổ sung năm 2011 và được hiểu là tranh chấp thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tịa án. Theo quy định trên có thể hiểu tranh chấp kinh doanh
1
Từ điển Tiếng Việt (2010), Nxb. Từ điển Bách Khoa, tr. 1024.
1
thương mại thực chất là tranh chấp kinh tế đã được mở rộng nội hàm cho phù hợp vơi
điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung của tranh
chấp kinh doanh thương mại được quy định tại Điều 30 BLTTDS năm 2015 thực chất
cũng là những tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại năm
2005.
Mặt khác, tranh chấp kinh doanh thương mại còn được hiểu là sự bất đồng về
một hiện tượng pháp lý phát sinh trong đời sống kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh
doanh và thông thường gắn liền với các yếu tố, lợi ích về mặt tài sản. Nhìn chung,
quan niệm về hoạt động thương mại và tranh chấp kinh doanh thương mại thể hiện qua
các quy định trong các văn bản pháp luật gần đây khá nhất quán, có thể hiểu tranh
chấp kinh doanh thương mại là sự bất đồng, mâu thuẫn, xung đột về quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên có liên quan trong q trình hoạt động kinh doanh thương mại.
1.2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh thương mại
Mỗi loại tranh chấp đều mang những đặc điểm riêng, phụ thuộc vào tính chất của
mối quan hệ pháp luật vào chủ thể của các mối quan hệ đó cũng như lợi ích của mối
quan hệ đó mang lại. Tranh chấp kinh doanh thương mại có những đặc trưng cơ bản
sau:
Về chủ thể: các bên tranh chấp có đăng ký kinh doanh, chủ thể trong tranh chấp
kinh doanh, thương mại chủ yếu là các thương nhân. Trong một số trường hợp chủ thể
có thể là cá nhân, tổ chức khơng phải là thương nhân ví dụ tranh chấp giữa người bán
hàng (thương nhân) và người mua hàng (cá nhân).
Về nội dung: Đây là các tranh chấp phát sinh trong hoạt động như: mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý, ký gửi, thuê và cho thuê, thuê mua,
xây dựng…2
Về cách thức giải quyết tranh chấp: do các bên tranh chấp tự định đoạt theo các
phương thức như Hòa giải, thương lượng, trọng tài, tòa án. Việc lựa chọn phương thức
là quyền của các bên nhưng vẫn trên cơ sở tơn trọng lợi ích của nhau và lợi ích của
Nhà nước.
Về tính chất: Tranh chấp kinh doanh, thương mại mang tính tài sản, mang yếu tố
vật chất và thường có giá trị lớn. Chủ yếu liên quan đến những lợi ích vật chất có ảnh
hưởng lớn và trực tiếp đến lợi ích của các bên.
Lý Thị Thảo (2018), “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án và thực tiễn thi hành
tại Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 12.
2
2
1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại là việc thơng qua hình thức, thủ tục
thích hợp tiến hành các giải pháp nhằm loại bỏ mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi
ích kinh tế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại được hiểu là quá trình phân xử rõ
quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các bên, buộc bên vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện
trách nhiệm của mình đối với bên bị vi phạm. Việc giải quyết tranh chấp được tiến
hành khi có ít nhất một bên cho rằng mình có quyền lợi hợp pháp bị bên kia xâm phạm
và có yêu cầu được giải quyết. Kết quả là các quyền và nghĩa vụ của các bên được xác
định lại hoặc mâu thuẫn hay xung đột giữa các bên được dung hịa thơng qua các phán
quyết của người đứng ra giải quyết tranh chấp hoặc chính của các bên.
1.4. Đặc điểm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Thứ nhất, bản chất của giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại là các cách
thức để tháo gỡ các xung đột, bế tắc về lợi ích kinh tế giữa các bên tranh chấp.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại phải đảm bảo nhanh
chóng, kịp thời, hạn chế tối đa sự gián đoạn trong quá trình kinh doanh.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại phải đảm bảo tôn trọng tối
đa quyền tự định đoạt của các bên.
Thứ tư, yếu tố bí mật, duy trì quan hệ tốt đẹp giữa các bên tranh chấp là yếu tố
cần cân nhắc khi giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
Thứ năm, về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại: Hiện nay tranh
chấp kinh doanh thương mại ở nước ta hiện nay được giải quyết bằng các phương
thức: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án.
3
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. Thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại trong tố tụng dân sự
2.1.1. Nguyên tắc cơ bản trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại trong tố
tụng dân sự
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự:
đây là nguyên tắc chung, cơ bản nhất chỉ đạo mọi hoạt động của tố tụng dân sự, được
thực hiện trong tất cả các giai đoạn, việc thực hiện đúng nguyên tắc này bảo đảm cho
việc giải quyết các vụ án chính xác, đúng pháp luật, ngăn ngừa những hành vi vi phạm
pháp luật mà còn đảm bảo cho đương sự thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ tố
tụng.
Thứ hai, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật: Quyền bình đẳng trước pháp luật
là quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp, quyền này được cụ thể
hóa trong nhiều văn bản pháp luật trong đó có BLTTDS. Việc cụ thể hóa quyền bình
đẳng trước pháp luật trong tố tụng vụ án KDTM có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể
hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh doanh khi tham gia tố
tụng đều có quyền và nghĩa vụ như nhau và được pháp luật bảo vệ.
Thứ ba, nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự: Nguyên tắc
này xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Quyền
tự do kinh doanh khơng có nghĩa là các cá nhân, tổ chức khi tham gia kinh doanh có
thể làm bất cứ điều gì cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của mình; mà khi tham gia vào
hoạt động sản xuất kinh doanh, các bên đều phải tuân theo những quy tắc nhất định
của pháp luật.
Thứ tư, nguyên tắc hòa giải: đây là một nguyên tắc quan trọng của pháp luật tố
tụng, xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự và trách nhiệm của Tòa án trong
việc bảo vệ quyền lợi của công dân; giúp các bên giải quyết mâu thuẫn một cách ổn
thỏa; góp phần hạn chế thiệt hại khơng đáng có do hậu quả của các tranh chấp gây ra.
Thứ năm, nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, cơng bằng, cơng
khai: Xuất phát từ nhu cầu kinh doanh, việc giải quyết tranh chấp khơng những phải
đảm bảo đúng pháp luật mà cịn phải nhanh chóng, dứt điểm, tránh dây dưa, kéo dài.
4
2.1.2. Quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
trong tố tụng dân sự của Tòa án
Khi xảy ra một tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại, cần xác định rõ nó
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nào, cấp nào. Việc xác định thẩm quyền giải
quyết tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc thụ lý, chuẩn bị hồ sơ và giải quyết
tranh chấp kinh tế cũng như thi hành quyết định, bản án của Tòa án.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền của Tòa án theo
hướng tất cả những tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại và lao động đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ trường hợp
theo quy định của luật thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác. Quy
định này nhằm tạo điều kiện để Tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân theo quy định của Hiến
pháp năm 2013, tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận cơng lý; đồng
thời, để phù hợp với ngun tắc “Tịa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự
vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”.
Theo quy định tại Bộ luật Tố dụng dân sự năm 2015, thẩm quyền giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án được thể hiện với các nội dung sau: Thẩm
quyền theo vụ việc, thẩm quyền theo cấp xét xử, thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm
quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
2.1.2.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của tòa án theo vụ
việc
Điều 30 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 đã quy định những tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:
Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về
chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công
ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội
đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp
5
nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của cơng ty, chuyển đổi hình thức tổ
chức của cơng ty.
Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Xuất phát từ hoạt động kinh doanh, thương mại ngày càng đa dạng, thiết yếu,
phức tạp trong nền kinh tế thị trường phát triển nên khóa có thể liệt kê đầy đủ dược
mọi tranh chấp về kinh doanh thương mại. Các tranh chấp khác về kinh doanh thương
mại trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy
định của pháp luật.
Căn cứ quy định trên, tranh chấp này phải đủ ba yếu tố: phát sinh giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau; các bên tranh chấp đều có mục đích lợi
nhuận; phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Khái niệm mục đích lợi
nhuận được hiểu là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà khơng
phân biệt có thu được hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương
mại đó trên thực tế hay khơng3. Hoạt động kinh doanh, thương mại là việc thực hiện
một hoặc nhiều hành vi thương mại. Đây không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký
kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thương mại.
Ngồi ra, tịa án cũng có thẩm quyền thụ lý giải quyết theo thủ tụng tố tụng dân
sự các việc về kinh doanh, thương mại như yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của hội đồng cổ
đông, nghị quyết của hội đồng thành viên theo quy định của pháp luật về doanh
nghiệp; yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển theo quy định của pháp luật về hàng không
dân dụng Việt Nam, về hàng hải Việt Nam;…
2.1.2.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của tòa án theo
cấp
Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tịa án
nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp kinh doanh thương
mại quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó Tịa án
nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp phát
sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh
doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, đại lý, ký gửi…Nếu những tranh chấp trên có đương sự hoặc tài sản ở nước
Nguyễn Thị Thủy (2020), “Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân tỉnh
Gia Lai”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Học viện Khoa học Xã hội, tr. 25.
3
6
ngoài hoặc cần ủy thác cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngồi thì khơng
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Qua đó, cho thấy Tịa án
cấp huyện khơng có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu về kinh doanh, thương mại
có yếu tố nước ngồi.
Tịa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết yêu cầu về kinh doanh
thương mại quy định tại Điều 31 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Có thể thấy, Luật
đã mở rộng thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện so với Luật năm 2004, Tòa án
nhân dân cấp huyện được phân cơng xét xử sơ thẩm tồn bộ các loại tranh chấp kinh
doanh thương mại mà khơng phân biệt tính phức tạp, độ khó của từng loại tranh chấp
cụ thể. Điều này phù hợp chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta.
Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh như sau:
“1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những vụ việc sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và
khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này;
2. Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện
quy định tại Điều 35 của Bộ luật này mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để
giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện.”
Như vậy, Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh
chấp kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 37 và 38 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên
trong trường hợp cần thiết như vụ án có nhiều tình tiết phức tạp; vụ án có nhiều đương
sự trên địa bàn thuộc các huyện khác nhau và xa nhau; Tịa án nhân dân cấp huyện
chưa có Thẩm phán để phân cơng giải quyết vụ án hoặc có Thẩm phán nhưng thuộc
một trong các trường hợp phải thay đổi Thẩm phán mà khơng có Thẩm phán thay thế
thì Tịa án nhân dân cấp tỉnh được lấy vụ án để giải quyết.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh được cơ cấu bởi các Tịa chun trách khác nhau như:
Tịa Hình sự, Tịa Dân sự, Tòa Kinh tế…Do vậy để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của mình, các Tịa chun trách có thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự khác nhau.
7
Khoản 3 Điều 38 quy định thẩm quyền của các Tòa chuyên trách – Tòa án nhân dân
cấp tỉnh như sau:
“Tịa kinh tế Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền:
a) Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh quy định tại Điều 37 của
Bộ luật này;”
Ngoài thẩm quyền sơ thẩm, Tịa án nhân dân cấp tỉnh cịn có quyền phúc thẩm
đối với những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tịa
án cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị. Đối với những bản án hoặc quyết định của tòa
án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị thì Ủy ban Thẩm phán của tịa án cấp tỉnh xem
xét và giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
2.1.2.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án theo
lãnh thổ
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanhn thương mại của Tòa theo lãnh thổ
được quy định tại khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó, thẩm
quyền theo lãnh thổ của Tịa án được xác định là Tòa án nơi bị đơn là cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh doanh,
thuông mại quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Các đương sự có
quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của
nguyên đơn giải quyết nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn
nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết các tranh chấp đó. Trong trường hợp
tranh chấp chỉ liên quan đến bất động sản thì Tịa án nơi có bất động sản giải quyết.
Quy định này nhằm bảo đảm tính khả thi của quyền khởi kiện và giúp quá trình
giải quyết tranh chấp được thuận lợi, tiết kiệm thời gian, công sức và tiền bạc cho các
bên tranh chấp. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ là giới hạn cho pháp luật quy
định xác định chức năng giải quyết vụ việc kinh doanh, thương mại của Tòa án theo
đơn vị hành chính lãnh thổ. Nhìn chung pháp luật tố tụng nước ta quy định về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo lãnh thổ của Tòa án khá
tương đồng với pháp luật của các nước trên thế giới.
2.1.2.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn là giới hạn do Luật định
cho các chủ thể trong việc lựa chọn Tịa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại. Điều 40 Thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn,
người yêu cầu BLTTDS quy định có thể xác định thẩm quyền của tòa án theo sự lựa
8
chọn của nguyên đơn. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn là hình
thức pháp luật đưa ra các quy định về các Tịa án có thẩm quyền giải quyết và nguyên
đơn được lựa chọn theo ý chí của mình. Quy định này hướng tới mục tiêu là tạo sự
thuận lợi cho nguyên đơn bảo vệ quyền của họ. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa
chọn của nguyên đơn được quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự được chia thành hai
loại: lựa chọn có điều kiện và lựa chọn khơng có điều kiện. Việc pháp luật quy định như
vậy nhằm tăng cường quyền chủ động của công dân trong bảo vệ quyền và lợi ích của
mình trước Tịa án, đồng thời giúp Tịa án áp dụng thống nhất các quy định về thẩm
quyền xét xử.
Khi xác định thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, nguyên
đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, lao động
trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm
2015.
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại trong tố tụng dân sự
2.2.1. Kết quả đạt được
Hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành quy định khá đầy đủ, tương đối phù
hợp với thực tiễn làm cơ sở cho các Tòa án nhân dân phân định thẩm quyền giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại.
Theo báo cáo tổng kết công tác năm 2020 và nhiệm kỳ 2016 – 2020 phương
hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2021 của các Tòa án 4: “Việc giải quyết các
vụ việc dân sự về cơ bản đảm bảo đúng pháp luật, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích
chính đáng của các bên đương sự. Trong nhiệm kỳ, các Tòa án đã thụ lý 1.894.472 vụ
việc; đã giải quyết, xét xử được 1.842.684 vụ việc, đạt tỷ lệ 97,3%, vượt chỉ tiêu Nghị
quyết của Quốc hội đề ra…Đã thụ lý 19.256 vụ việc kinh doanh thương mại; giải
quyết 15.245 vụ việc; đạt tỷ lệ 79,2%”. Thống kê của Tòa án nhân dân Tối cao cho
thấy, các vụ tranh chấp kinh doanh thương mại, các vụ án kinh doanh thương mại mà
tòa án phải thụ lý trong năm qua tăng mạnh. Điều đó cho thấy, cơ chế giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại đang dần trở nên quen thuộc đối với các chủ thể khi có
phát sinh tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
2.2.2. Hạn chế, bất cập
Để xác định đúng thẩm quyền giải quyết của Tòa án khi giải quyết các vụ án kinh
doanh thương mại, Tòa án phải xác định được yêu cầu của đương sự thuộc nhóm quan
hệ tranh chấp kinh doanh thương mại trong quan hệ tranh chấp dân sự để từ đó có sự
Cổng thơng tin điện tử Tòa án nhân dân Tối cao: [truy cập ngày 1/3/2022]
4
9
phân định thẩm quyền giữa các Tòa chuyên trách hay giữa Tòa án các cấp với nhau.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định rõ về thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp về kinh doanh thương mại của Tòa án nhân dân các cấp. Tuy nhiên trên thực tế
việc xác định thẩm quyền còn nhiều quan điểm chưa thống nhất.
Ví dụ: Vụ án TAND tỉnh Cao Bằng thụ lý số 01/2018/KDTM-ST ngày 17/5/2018
giữa nguyên đơn: Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại
Dương – bị đơn: Cơng ty Than cốc và khống sản Việt Trung về việc “Tranh chấp hợp
đồng tín dụng”. Giai đoạn đầu sau khi nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, TAND cấp
tỉnh chuyển đơn cho TAND cấp huyện. Sau quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ xác
định bị đơn là cơng ty có yếu tố nước ngồi với 20% số vốn góp là cơng ty Tân
Trường Thành ở Trung Quốc thì TAND cấp huyện lại chuyển hồ sơ vụ án cho TAND
cấp tỉnh thụ lý.
Việc chuyển hô sơ như vậy làm chậm quá trình giải quyết, ảnh hưởng đến quyền
lợi của các đương sự.
BLTTDS 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhằm làm rõ các tranh chấp về kinh doanh
thương mại phù hợp với Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp..., phân biệt giữa tranh
chấp thương mại với tranh chấp dân sự. Tại khoản 4 điều 30 BLTTDS 2015 quy
định: “Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”. Quy định
này đã mở rộng thẩm quyền của Tòa Kinh tế so với quy định tại BLTTDS 2004 là chỉ
những tranh chấp khác về kinh doanh thương mại mà pháp luật quy định là Tòa án giải
quyết. Tuy nhiên, hiện nay trong thực tiễn xét xử có những khó khăn vướng mắc sau:
Ví dụ: Trong vụ án cơng ty khởi kiện thành viên công ty, công ty đã chuyển cho
ông X – giám đốc chi nhánh của công ty một số tiền ông B, sau đó phát sinh tranh
chấp công ty yêu cầu ông phải trả lại cho công ty số tiền trên
Hiện nay vấn đề này vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau:
Ý kiến nhất cho rằng, tranh chấp là “tranh chấp cơng ty với thành viên cơng ty,
địi tài sản” nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh. Bởi vì, số tiền
mà cơng ty chuyển cho ông B là nhằm phục vụ hoạt động của cơng ty nói chung. Cho
nên, căn cứ vào khoản 4 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 37 và điểm b khoản 1 Điều 35
BLTTDS 2015, tranh chấp này thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh.
Ý kiến thứ hai cho rằng, yêu cầu kiện của công ty liên quan đến hoạt động nội bộ
của công ty nên không phải là “tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty” mà là
“tranh chấp dân sự đòi tài sản” nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp
10
huyện khơng phải Tịa án cấp tỉnh do ngun đơn có đơn chọn Tịa án cấp huyện nơi
cư trú của bị đơn giải quyết theo quy định tại theo khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1
Điều 35 và khoản 1 Điều 40 BLTTDS 2015.5
Theo quan điểm của em, quan điểm thứ nhất phù hợp hơn với quy định pháp luật,
căn cứ khoản 4 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 37 và điểm b khoản 1 Điều 39 BLTTDS
năm 2015 thì trường hợp này thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh.
Ngoài ra, về xác định thẩm quyền theo lãnh thổ, trên thực tế còn vướng mắc
trong việc xác định thẩm quyền giữa công ty với thành viên công ty như ở trường hợp
công ty khởi kiện thành viên cơng ty thì sẽ khởi kiện tại Tịa nơi thành viên cư trú hay
Tịa nơi đặt trụ sở bì bị đơn là thành viên công ty.
Theo Điều 30 Bộ luật TTDS năm 2015 thì tranh chấp phát sinh trong hoạt động
kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là các tranh chấp giữa
cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Tuy
nhiên, tại Điểm b Điều 2 Nghị quyết 03/2012 của HĐTPTANDTC, quy định: “Toà
kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh
doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS năm 2005 (Điều 30,
Điều 31 BLTTDS năm 2015); các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc
các bên khơng có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận”. Như vậy,
Nghị quyết 03/2012 hướng dẫn về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đã mâu thuẫn,
vượt quá và trái với quy định tại Điều 29 Bộ luật TTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011
(Điều 30 BLTTDS năm 2015), nhưng vẫn được Tòa án các cấp áp dụng trong thực tế.
Việc xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp có ý nghĩa quan trọng đối với việc
xác định thẩm quyền của Tòa án cũng như việc áp dụng pháp luật nội dung để giải
quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án, việc xác định không đúng quan hệ pháp
luật tranh chấp dẫn đến việc giải quyết và áp dụng pháp luật thiếu thống nhất và bất
cập.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 30 BLTTDS có thể xảy ra hai trường hợp sau:
trường hợp tranh chấp giữa các bên có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích sử
dụng lợi nhuận nhưng chưa đuộc quy định tại khoản 1 Điều 30 và trường hợp tranh
chấp giữa các bên mà cả hai cùng có mục đích lợi nhuận nhưng chỉ có một bên đăng
ký kinh doanh hoặc cả hai bên đều khơng có đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên dù thuộc
trường hợp nào thì văn bản đó phải chỉ rõ đó là tranh chấp kinh doanh thương mại. Khi
Nguyễn Bích Như (2021), Tạp chí Tịa án nhân dân, “Giải quyết tranh chấp giữa công ty với thành viên cơng
ty tại Tịa án và một số kiến nghị”, [truy cập ngày 2/3/2022].
5
11
chưa có hướng dẫn cụ thể của Tịa án nhân dân cấp trên thì việc áp dụng thống nhất
quy định này trong thực tiễn vẫn cịn nhiều khó khăn, vướng mắc.
12
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM
QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại
Thứ nhất, thống nhất cách hiểu và vận dụng các quy định của BLTTDS năm
2015 và các văn bản liên quan trong hệ thống Tòa án nhân dân.
Thực tiễn cho thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến có sai lầm trong các
bản án, quyết định là việc thẩm phán hiểu và vận dụng pháp luật khi xét xử. Trong thời
gian tới, cần sửa đổi, thống nhất về luật nội dung và luật hình thức (thủ tục tố tụng)
trong cơng tác xét xử để các ngành, các cơ quan, các thẩm phán hiểu và áp dụng theo
một thể thống nhất, tránh tình trạng mỗi đơn vị lại có cách hiểu khác nhau.
Thứ hai, TANDTC nên ban hành văn bản hướng dẫn trong việc xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty liên quan đến hoạt động của
công ty căn cứ vào quy định tại khoản 4 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 37 và điểm b
khoản 1 Điều 39 BLTTDS 2015 thì đây là tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc
thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh và văn bản hướng dẫn trong trường hợp xác định thẩm
quyền đối với tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty khi công ty khởi kiện
thành viên cơng ty thì sẽ khởi kiện tại Tịa án nơi thành viên cơng ty cư trú như vậy sẽ
phù hợp với thẩm quyền nơi cư trú của bị đơn hơn.
Thứ ba, việc quy định theo hướng loại trừ những tranh chấp không phải là tranh
chấp kinh doanh thương mại sẽ tạo một phạm vi mở cho việc xác định những tranh
chấp hợp đồng kinh doanh thương mại và nội hàm của khái niệm này trong văn bản
pháp luật. Trong trường hợp một tranh chấp phát sinh và khơng được coi là tranh chấp
kinh doanh thương mại vì không thỏa mãn dấu hiệu của tranh chấp kinh doanh thương
mại thì sẽ được coi là tranh chấp về dân sự và thuộc thẩm quyền của Tòa án đối với
một vụ án dân sự. Quy định như trên sẽ tạo thuận lợi cho đương sự khi khởi kiện, tạo
thuận lợi cho Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại, cần thực hiện các giải pháp cụ thể sau:
13
Thứ nhất, tiếp tục củng cố đội ngũ công chức ngành Tòa án nhân dân đảm bảo về
số lượng, chuẩn về chất lượng.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán các cấp cần được tổ chức, tiến
hành thường xuyên, liên tục thông qua nhiều biện pháp nhằm đáp ứng yêu cầu trong
tình hình các tranh chấp kinh doanh thương mại gia tăng về số lượng cũng như ngày
càng phức tạp, trong đó có những tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, tăng cường kiểm tra, giám sát đối với hoạt động tố tụng của Tòa án
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động xét xử, giải quyết của
Tịa án là việc làm hồn tồn cần thiết. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đảm bảo
quá trình tố tụng được diễn ra đúng pháp luật, giảm tối đa số lượng án oan, sai. 6
Thứ ba, tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tổ chức trong việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
Sự phối hợp giữa Tịa án với chính quyền cơ sở và các cơ quan hữu quan là rất
quan trọng giúp quá trình giải quyết tranh chấp diễn ra thuận lợi, kết quả giải quyết vụ
việc được dứt điểm, nhanh chóng, hiệu quả. Bên cạnh đó, hoạt động bổ trợ tư pháp
góp phần đảm bảo chất lượng xét xử của Tịa án.
Thứ tư, đẩy mạnh cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Để nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của casc chủ thể kinh doanh, nhận thức
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của mình và hạn chế vi phạm pháp luật, cần cơ chế
phối hợp giữa Tịa án, cơ quan Cơng an, Viện kiểm sát, các văn phịng luật sư…đẩy
mạnh cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
cho người dân. Bồi dưỡng doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh mở các lớp tập huấn giúp
các đối tượng này có khả năng vận dụng kiến thức để hạn chế thấp nhất những tranh
chấp kinh doanh thương mại.
KẾT LUẬN
Trong hoạt động kinh doanh thương mại thì khơng thể tránh khỏi những tranh
chấp phát sinh, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại như thể nào cho đúng,
cho hợp lý ln là câu hỏi đối với ngành Tịa án nói chung và tại các Tịa án các cấp nói
riêng. Thẩm quyền của tòa án về giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại được
pháp luật phân đinh theo vụ việc, theo cấp tòa án, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của
nguyên đơn. Để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thì việc
hoàn thiện pháp luật về thẩm quyết giải quyết tranh chấp trên là hoàn toàn cần thiết, bảo
Trần Vân Anh (2018), “Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại từ thực tiễn xét xử
tại Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai”, luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 64.
6
14
đảm việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và lợi ích của Nhà
nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004.
2. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
3. Từ điển Tiếng Việt (2010), Nxb. Từ điển Bách Khoa.
4. Lý Thị Thảo (2018), “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại
Tòa án và thực tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng”, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Thủy (2020), “Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Học viện Khoa
học Xã hội.
6. Nguyễn Bích Như (2021), Tạp chí Tịa án nhân dân, “Giải quyết tranh chấp giữa
cơng ty với thành viên cơng ty tại Tịa án và một số kiến nghị”,
/>
15