Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Các bằng chứng về sự tồn tại của nền văn minh nhân loại thời kì trước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.49 MB, 72 trang )

Các bằng chứng về sự tồn tại của nền văn minh nhân loại
chu kỳ trước

Mục lục
Bằng chứng đầu tiên: Điện đã từng được biết đến và sử dụng trong nhiều nền văn minh tiền sử .. 2
Pin điện tiền sử. .................................................................................................................................... 2
Đèn điện thời tiền sử ............................................................................................................................ 3
Bằng chứng thứ 2: Kiến thức Toán học và Thiên văn siêu đẳng......................................................... 5
Lịch pháp Maya ................................................................................................................................... 5
Toán học và thiên văn học trình độ cao của người Maya ................................................................ 8
Bằng chứng thứ 3: Trình độ kiến trúc và xây dựng siêu đẳng .......................................................... 10
Từ những cơng trình cổ xưa mà hiện nay vẫn cịn nằm trên mặt đất …...................................... 10
Đến những cơng trình tiền sử hiện nay đang nằm dưới đáy biển sâu........................................... 23
Cấu trúc Kim tự tháp Yogaguni đang nằm dưới đáy biển Nhật Bản ....................................... 23
Bằng chứng về một thành phố cổ đại tìm thấy tại Cuba............................................................ 24
Thành phố 9500 năm tuổi được tìm thấy dưới đáy biển Ấn Độ ................................................ 27
Các khám phá tại Bimini, Bahamas............................................................................................. 29
Bằng chứng thứ 4: Kỹ thuật hàng không vũ trụ thời tiền sử............................................................. 32
Từ những tấm bản đồ cổ đại … ........................................................................................................ 32
Bản đồ Piri Re’is ............................................................................................................................ 32
Đến những mơ hình máy bay phi cơng và tàu vũ trụ ..................................................................... 38
Những hình chạm khắc tại Ai Cập 3000 năm trước................................................................... 38
Những chiếc máy bay bằng vàng cổ đại....................................................................................... 40
Tham chiếu về các Vimana trong Mahabharata và các cổ văn khác........................................ 52
Bằng chứng thứ 5: Chiến tranh trên không và chiến tranh hạt nhân thời tiền sử .......................... 64
Chiến tranh thời tiền sử dùng vimana như các máy bay chiến đấu.............................................. 64
Bằng chứng tại Rajasthan, Ấn Độ .................................................................................................... 66
Bằng chứng tại Harappa và Mohenjo-Daro, Pakistan ................................................................... 67
Lonar, hố sâu kỳ lạ gần Bombay, Ấn Độ ......................................................................................... 69
A Nuclear Catastrophe in Paleoindian Times? ............................................................................... 69
Mysterious Glass in the Egyptian Sahara........................................................................................ 70



1


Bằng chứng đầu tiên: Điện đã từng được biết đến và sử dụng trong nhiều nền văn minh tiền sử.

Pin điện tiền sử.
Tại I Rắc: Năm 1936, trong các cuộc khai quật một ngôi làng cổ 2000 năm tuổi ở phía Đơng Ai Cập
vài trăm km, ngày nay thuộc I Rắc, những người công nhân đã khám phá ra những bình gốm nhỏ kỳ lạ.
Những bình này có chứa các trụ đồng được ngâm trong một loại dung dịch đã đơng đặc, gắn vào bình
bằng nhựa đường, được định niên vào khoảng từ năm 248 trước công nguyên đến 226 sau cơng ngun.
Trong số này có một bình bằng đất nung cao 6 inch, màu vàng sáng có chứa một trụ đồng kích thước 5
inch chiều dài x 1,5 inch đường kính tiết diện. Ở giữa các trụ bằng đồng là một lõi thép cũng được gắn vào
bằng keo nhựa đường.
Nhà khảo cổ học nổi tiếng
người Đức Wilhelm Konig, đã
kiểm tra mẫu vật và đưa ra một
kết luận đáng ngạc nhiên : cái
bình gốm này khơng có gì khác
hơn chính là một pin điện thời
tiền sử.
Pin điện tiền sử, được trưng
bày tại Viện bảo tàng Baghdad
Pin điện tiền sử tại viện bảo
tàng Bát Đa, cũng giống như
những bình pin gốm khác được
đào lên, tất cả đều được định
niên từ năm 240 TCN đến năm
226 sau cơng ngun trong thời
chiếm đóng của đế chế Parthi.

Tuy nhiên, tiến sĩ Konig còn
phát hiện được những bình
đồng mạ bạc khác trong viện bảo tàng Bát Đa, được khai
quật từ những vùng đất cổ của người Sumer ở miền Nam I Rắc, qua giám định niên đại cho thấy ít nhất có
từ 2500 năm trước cơng ngun. Khi những cái bình này được dùi nhẹ vào, một lớp gỉ đồng tách ra từ bề
mặt, có đặc điểm của một vật được mạ điện bạc lên một vật bằng đồng. Điều này làm ta không thể không
nghĩ rằng những người Pathi đã thừa kế những Pin này từ nền văn minh Sumer, một trong những nền văn
minh sớm nhất được biết đến.
Vào năm 1940, Willard F.M. Gray, một kỹ sư từ General Electric High Volatage Laboratory tại
Pittsfield, Massachusetts, Mỹ, đã đọc những lý luận của Konig. Dùng những bản vẽ và các chi tiết được
cung cấp bởi nhà khoa học hỏa tiễn người Đức Willy Ley, Gray đã làm ra một bản sao từ Pin này. Dùng
dung dịch Đồng Sunphát, nó cho một dịng điện khoảng nửa vôn.
Vào thập kỷ 70 thế kỷ trước, Nhà Ai Cập học người Đức, Arne Eggebrecht đã làm ra một bản sao của
Pin Bát Đa và dùng dung dịch nước nho ép ngun chất mà ơng phỏng đốn những nhà khoa học tiền sử
đã dùng. Bản sao này đã sinh ra dịng điện 0,87V. Ơng đã dùng dịng điện này để mạ vàng cho một bức
tượng bằng bạc.
Thí nghiệm này đã chứng minh rằng những Pin điện đã được sử dụng khoảng 1800 năm trước khi viên
Pin đầu tiên được phát minh bởi Alessandro Volta năm 1799.
Cũng dễ nhận thấy việc sử dụng những pin tương tự có thể đã được những người Ai Cập cổ đại biết
đến, nơi mà vài mẫu vật với dấu vết mạ điện những kim loại quý được tìm thấy tại nhiều địa điểm khác

2


nhau. Có vài khám phá dị thường từ nhiều vùng khác nhau, cho phép khẳng định điện đã được sử dụng
trong một quy mô lớn.

Đèn điện thời tiền sử
Một chi tiết chủ chốt của luận đề điện tiền sử này là quả thật một số thứ đang bị thất lạc. Đó là câu đố
mà các sách khoa học thường thức phải đầu hàng. Bồ hóng. Hầu hết trong số nhiều ngàn ngơi mộ và kim

tự tháp khơng có dấu vết nhỏ nào của bồ hóng trên tường, như cách giải thích của tác giả luận đề, mặc dù
rất nhiều trong các ngôi mộ cổ này khắc đầy các bức họa tiết sinh động nhiều màu sắc. Nhưng những
nguồn ánh sáng thô sơ của người Ai Cập cổ đã biết (nến, đèn dầu, vv…) đều gây ra nhiều bồ hóng và tiêu
thụ ôxi. Như vậy, làm thế nào những người Ai Cập cổ lấy ánh sáng? Một vài nhà duy lý cho rằng họ đã
dùng gương phản chiếu ánh mặt trời, nhưng chất lượng của những cái gương đồng mà người Ai Cập cổ đã
dùng không thể dùng cho việc này được.

Trong ngôi đền cổ Hathor tại Dendera, vài chục km về phía Bắc Luxor, Ai Cập một vài chuyên gia
đã tìm thấy câu trả lời.
Một kỹ sư điện người Na Uy đã thơng cáo rằng một mẫu vật có thể làm được chức năng này. Một
đồng nghiệp người Áo đã có thể làm ra một mẫu, và 2 tác gia nổi tiếng tại AAS, Peter Krassa và Rainer
Habeck, có thể
cịn xây dựng nên
một thuyết thực sự
dựa trên nó. Cái
mà chúng ta nhìn
thấy khơng cần
hỏi nhiều đó chính
là một loại bóng
đèn, với 2 cánh
tay ở một đầu to
của bóng, và một
loại dây cáp ở đầu
bên kia, từ đó một
sợi dây tóc kéo
dài chạm vào mấy
cánh tay ở đầu
kia. Toàn bộ thực
tế trơng thấy là
một bóng đèn.

Bóng đèn điện thời tiền sử
3


So sánh các ống lót

Hình ảnh trụ đỡ rất giống như loại chân sứ của các thiết bị điện
ngày nay

Một hình chạm khác

4


Một loại bóng đèn khác?
Xem thêm hình ảnh tại đây

Bằng chứng thứ 2: Kiến thức Toán học và Thiên văn siêu đẳng
Lịch pháp Maya
Người Maya khơng có các phương tiện kỹ thuật
khoa học hiện đại như chúng ta, nhưng họ tinh
Một người đàn ơng
thơng đối với thiên văn lẫn tốn học khiến chúng ta
Maya trong tư thế
vô cùng thán phục và kinh ngạc. Ngoài ra, nền văn
thiền định
minh của họ ẩn chứa rất nhiều điều bí mật. Họ có
những con đường phát triển, nhưng lại không sử
dụng bánh xe trong các phương tiện đi lại, nhưng họ lại biết đến bánh xe, vì
người đời sau phát hiện những đồ chơi cho trẻ em của họ có hiện diện bánh

xe! Họ đem bản đồ mặt sau của mặt trăng khắc trên cửa miếu Thần mặt
trăng để trang trí, khiến các nhà khoa học ban đầu khơng đốn được đó là
hình vẽ gì, đến khi chứng thực được đó là hình vẽ mơ tả phía sau mặt trăng
thì thực sự sốc: Làm thế nào họ có thể thấy được như vậy? Mặt trăng luôn
hướng về địa cầu chỉ một mặt không thay đổi theo thời gian. Qua rất nhiều
những dữ liệu có được về họ cho đến nay, rất có thể khoa học trong nền văn
minh của họ đi theo một hướng khác, không giống như loại khoa học thực
chứng dựa chỉ trên 5 giác quan hạn hẹp của chúng ta đương đại.
Vào năm 1521, người Tây Ban Nha xâm lăng vùng đất của người Maya,
nhưng thành phố hoang vắng không một bóng người, người Mayan đã bỏ lại
thành phố đi đâu không ai biết từ thế kỷ 9 và 10. Người Tây Ban Nha đã hủy
hoại đại đa số văn tự ghi chép của người Mayan để lại, chỉ còn lại ba cuốn
sách khiến người đời sau khó lịng hiểu rõ về văn hoá của họ.

5


Nền văn minh Mayan tuy đã biến mất, nhưng họ để lại lịch Pháp của họ, mà cịn đo tính được mấy
ngàn năm sau điểm chung kết của văn minh kỳ này - ngày 21 tháng 12 năm 2012. Họ đã cố tình để lại cho
ai xem vậy?

Chichen Itza do nền văn minh Maya xây dựng, nằm ở trung tâm phía bắc Bán đảo Yucatan, Mexico
ngày nay, vừa là đàn tế thần, vừa là đài quan sát thiên văn. Đài thiên văn ở Chichén Itzá là đài thiên văn
số Một do người Maya xây dựng nên cũng là đài thiên văn cổ nhất. Đỉnh chóp của đài thiên văn này cao
trội hẳn lên trên các ngọn cây trong rừng rậm, bên trong có một cầu thang trịn lên tận đỉnh chóp của đài
quan sát. Trong đỉnh chóp có các cửa sổ để quan trắc các tinh tú. Bên ngoài vách đá của tháp có trang trí
hình khắc thần mưa, cịn có cả hình khắc phù điêu hình người vươn cánh tay bay vào Vũ trụ
Căn cứ vào lịch Pháp dài của người Mayan, ngày 21
tháng 12 năm 2012 là cái Baktun thứ mười ba của ngày
cuối cùng, người Mayan đã ghi 13.0.0.0.0. Trưóc hết chúng

ta nên học tập một ít về phương pháp ghi số của người
Mayan:
Số ngày / Thuật ngữ
1 / Kin (ngày)
20 / Unial (con số then chốt quan trọng của lịch Pháp
Mayan là 20)
360 / Tun
7200 / Katun
144000 / Baktun
Thí dụ; 6.19.19.0.0 tương đương 6 cái Baktun, 19 cái
Katun, 19 cái Tun, 0 cái Unial, 0 cái Kin, tính tốn ra là
bằng 6 x 144000 + 19 x 7200 + 19 x 360 = 1007640 ngày.
13.0.0.0.0 = 13 x 144000 = 1872000 ngày, tính ra là
5125.26 năm. Căn cứ vào sự tính tốn của Eric S.Thomson,

6


0.0.0.0.0. của người Mayan tương đương với thứ 584283 ngày của Julian, tức là ngày 11 tháng 8 năm
3114 trước Cơng ngun. 13.0.0.0.0 thì là cái ngày sau 5125 năm, tức là Cơng ngun ngày 21 tháng 12
năm 2012.
Vì người Mayan là những chuyên gia quan sát bầu trời (Skywatchers), những học giả nghiên cứu văn
hóa Maya đã kỹ lưỡng nghiên cứu thiên tượng sẽ xuất hiện vào ngày 21 tháng 12 năm 2012, đã hiểu rõ
ràng tại sao người Mayan đã đem ngày này đặt là ngày chung kết của nền văn minh kỳ này. Ngày này là
ngày Đông chí (Winter Solstice). Đây là ngày mặt trời sẽ hồn tồn trùng hợp với giao điểm hình thành
bởi Hồng Đạo (Ecliptic) và Xích Đạo (Equator) của Hệ Ngân Hà chúng ta.
Căn cứ vào lịch Pháp Mayan. Năm 1992 là năm thứ nhất của cái 20 năm cuối cùng (20 năm là một cái
unial, lịch pháp Mayan gọi 20 năm cuối cùng này là “Thời kỳ canh tân địa cầu”) của cái Baktun cuối cùng
(cái thứ 13).
Công nguyên năm 755, dự ngôn của một vị tăng

Mayan: Sau năm 1991, nhân loại phải xảy ra hai sự việc
trọng đại - Sự tỉnh giác ý thức về vũ trụ của nhân loại và sự
tịnh hóa và tái sinh của Địa cầu. Trên thực tế, người Mayan
đã đem hai mươi năm cuối cùng của cái Baktun thứ mười
ba (cuối cùng nhất của cái Unial, tức là năm 1992 đến năm
2012) gọi là Địa Cầu tái sinh hoặc Thời kỳ làm sạch Địa
Cầu (Earth Regeneration or Earth Purification Period).
Thật ra, trong sinh hoạt hằng ngày chúng ta thường
xuyên có thể thấy được sự nhắc nhở đối với tương lai, chỉ
bất quá con người không quan tâm đến. Chúng ta sử dụng
mỗi ngày tờ giấy bạc một đơ la ở mặt sau cũng có một dự
ngơn
giống
nhau,
mời
tham
khảo:
. Trong đó có một ấn chương
(seal) là hình Kim Tự Tháp, Kim tự Tháp này có 13 tầng,
trên ngọn cuối của tầng 13 Kim Tự Tháp có một con mắt
tỏa ra ánh sáng rực rỡ, ở đây đã dự báo sự tỉnh giác của
nhân loại sau khi đi hết 13 cái Baktun. Nghĩa của Annuite Coeptis là : Thần đang quan tâm đến những gì
chúng ta đã làm; Novus Ordo Seclorum có nghĩa là: Thứ tự mới của Tân Thế Kỷ.
Hiện giờ chúng ta sinh hoạt ở thời đại tôn sùng vật chất,
người thời nay chủ yếu quan tâm là tiền bạc, người đẹp, dục
vọng, hưởng lạc, thành tựu, quyền lực và địa vị. Những người
khơng có hứng thú đối với những thứ đó cũng đành phải vẫy
vùng khổ cực trong đời sống ô trọc này. Do vậy mà dẫn đến sự
băng hoại của thế giới tinh thần, làm cho con người càng ngày
càng trở nên tầm thường, đứng trước tà ác, tàn bạo, chiến tranh,

thiên tai, ôn dịch, nghèo đói, chủ nghĩa khủng bố và sự điên
cuồng của hiện tượng hỗn loạn xã hội người ta cũng dần dần tê
liệt, khơng cịn ý muốn đối kháng, thuận theo dịng chảy và thối
hóa theo. Rất ít người có thể ý thức được nhân loại xã hội đã
đang đi hướng tới con đường tự hủy diệt.
Với xã hội ham muốn thể xác lẫn vật chất như vậy, lực lượng
nào có thể tịnh hóa địa cầu được? Khẳng định khơng phải nhờ
vào sự cưỡng ép quản chế của luật pháp, vì luật pháp do con
người đặt ra, là có sơ hở, những kẻ làm trái pháp luật có thể nhờ
vào địa vị, quan hệ và tiền bạc mà lẩn trốn sự trừng phạt, thậm
chí lợi dụng quyền lực của luật lệ để thỏa mãn các dục vọng cá
7


nhân. Ngồi ra, luật pháp chỉ có thể chế tài hành vi trông thấy được của con người, nhưng không thể nào
ràng buộc nội tâm không thấy được của con người. Đương nhiên càng không thể nào nhờ vào cái gọi là
đột phá của khoa học, tại vì chính nền khoa học thực chứng dựa trên cơ sở 5 giác quan cảm thụ khiến nhân
loại và cả nền khoa học thực chứng này càng ngày càng theo đuổi mục đích hưởng thụ vật chất cá nhân,
xa rời lương tâm đạo đức. Khơng có sự ước chế của tiêu chuẩn đạo đức cao, các thành tựu khoa học thậm
chí cịn gây nhiều tổn thất lớn hơn cho nhân loại, điển hình là Hiroshima và Nagasaki.
Theo một số nhà thiên văn học của nền văn minh hiện đại chúng ta, thì cũng vào ngày này hệ Mặt Trời
của chúng ta sẽ đi qua mặt phẳng xích đạo của thiên hà, một điều chỉ xảy ra theo mỗi chu kì 26.000 năm.
Lịch của người Mayan bắt đầu từ năm 3114 trước công nguyên, tức là họ chưa hề có cơ hội kiểm chứng
điều nêu trên. Người Mayan gọi sự kiện này là cái cây thánh, nó sắp xếp sự thẳng hàng của Hệ Mặt Trời
với trung tâm thiên hà theo mặt phẳng chính, điều đó có nghĩa là hấp dẫn tác động lên Hệ Mặt Trời khi đó
sẽ là cực đại. Nhưng làm thế nào người Maya có thể biết trước được, tính tốn được chính xác tất cả
những điều phức tạp đó trước đây hàng ngàn năm?
Theo những thông tin về động đất tại cục địa lý Hoa Kì, các trận động đất của chúng ta ngày càng lớn
hơn do hậu quả của những chuỗi chấn động trong những năm 1890 đến 1899 và từ 2000 đến 2004, độ lớn
của những trận động đất này đang tiếp tục tăng lên khi chúng ta tiến đến gần mặt phẳng chính của thiên

hà. NASA dự đoán rằng một trận bão Mặt Trời vào năm 2012 sẽ gây ra những chấn động lên Trái Đất lớn
gấp 30 đến 50 phần trăm so với bất cứ sự tác động nào trước đây ta đã biết. Yulish tin rằng việc này sẽ
làm nóng hành tinh của chúng ta và nó có liên quan trực tiếp đến sự xuất hiện của các vết đen Mặt Trời,
Mặt Trời sẽ nóng hơn và sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp tới Trái Đất. Một vụ nổ bất chợt trên Mặt Trời vào
thời điểm 2012 đó có thể phóng 1 khối lượng lớn đến va chạm với Trái Đất giống như việc chúng ta va
chạm với một tiểu hành tinh hay sao chổi. Khi việc đó xảy ra, có thể một lần nữa trục của Trái Đất sẽ thay
đổi và hiển nhiên sẽ ảnh hưởng đến sự quay của Trái Đất. Nếu như điều đó sẽ xảy ra vào ngày 21 tháng 12
năm 2012 sắp tới, đó sẽ là một ngày rất đáng nhớ, với tất cả chúng ta!

Toán học và thiên văn học trình độ cao của người Maya
Người Maya sáng tạo được một nền toán học phát triển vượt bậc, để có thể ghi chép các sự kiện theo
năm tháng nhằm quyết định thời gian gieo trồng và thu hoạch, tính tốn một cách chính xác thời tiết và
những ngày mưa nhiều nhất trong năm. Kỹ thuật toán học của họ trong các dân tộc thời cổ đại nguyên
thủy khiến các nhà khảo cổ không khỏi kinh ngạc, nhất là việc họ rất thành thạo khái niệm về số "0". So
với các nhà buôn Ả Rập vượt sa mạc đưa khái niệm số "0" truyền từ Ấn Độ sang châu Âu thì người Maya
sớm hơn 1000 năm.
Người Maya tính ra mỗi tháng có 20 ngày, mỗi năm có 18 tháng cộng thêm mỗi năm có 5 ngày kiêng
kỵ khơng đưa vào tháng nào. Nhờ vậy số ngày thực chất trong một năm là 365 ngày. Số đó vừa vặn trùng
hợp với nhận thức quay về thời gian Trái đất tự quay và quay quanh Mặt trời hết một chu trình. Người
Maya ngoài sự hiểu biết về lịch Trái đất chuẩn xác, họ còn rất am hiểu về lịch năm của sao Kim. Một năm
của sao Kim, tức là thời gian để sao Kim quay quanh Mặt trời hết một chu trình, người Maya tính ra một
năm sao Kim dài 584 ngày. Cịn ngày nay tính ra một năm sao Kim dài 583,92 ngày. Đó là một con số
chuẩn xác đến kinh ngạc mà người Maya đã có phương pháp tính lịch từ mấy ngàn năm trước.
Trong thực tiễn xã hội và sản xuất, phần đông các dân tộc căn cứ vào con số ngón tay để sáng tạo ra
phép đếm cơ số 10. Còn người Maya lại căn cứ vào số ngón tay và ngón chân cộng lại để sáng tạo ra phép
đếm cơ số 20. Ngồi ra họ cịn sử dụng thêm cả phép đếm cơ số 18, phép đếm này gợi ý về cái gì? Lấy cái
gì làm căn cứ? Người Maya còn là dân tộc đầu tiên trên thế giới nắm vững khái niệm cơ số "0", nhận thức
và vận dụng số "0" trong toán học đánh dấu trình độ nhận thức của một dân tộc. Về vấn đề này, người
Maya so với người Trung Quốc và người châu Âu đã sớm hơn được 3800 năm và 1000 năm.


8


Một “Tinh quan Maya” ("Maya Stargate") ở Chicanna tại bán đảo Yucatan với nhiều nét hoa mỹ kỳ lạ
Nền văn minh Maya có một kiến thức khơng thể tin được về thiên văn. “Bản chép tay Dresden” là một
trong số vài sách chép tay cịn sót lại trước sức tàn phá của những kẻ xâm lược Tây Ban Nha. Những bản
chép tay này mơ tả chính xác các dữ liệu quỹ đạo của tất cả các hành tinh trong Thái Dương Hệ chúng ta
trong mối quan hệ tham chiếu lẫn nhau. Điều này chỉ được chứng minh bằng các kỹ thuật khoa học tối tân
của chúng ta hiện nay!

(Trích trong bảng Venus – Sao Kim)
Một chứng minh khác về hiểu biết cổ đại về các ngôi sao của họ là tri thức của họ về sự dịch chuyển
của trục trái đất lặp lại theo chu kỳ cứ mỗi 25920 năm một lần, và vì vậy kéo theo sự dịch chuyển hằng
năm của các chòm sao khoảng 14/1000 độ. Điều này nghĩa là mỗi năm các ngôi sao mọc sớm hơn 3,4 giây
so với cùng thời điểm đó của năm trước. Những truyền thuyết cổ xưa kể lại rằng những kiến thức này
được trao cho họ từ các “taskmasters" – “người giao việc” đến từ các ngôi sao khác!

9


Dải Ngân Hà (mà người Maya gọi là
“zac beh” nghĩa là “Con đường trắng”)
được họ tơn thờ vì họ cho rằng nơi đó là
quê hương các vị Thần của họ
Kim tự tháp mà người Maya căn cứ
vào lịch pháp của mình để xây dựng nên,
thực chất là một đàn cúng tế thần linh
kiêm đài quan trắc thiên văn. Cửa sổ đài
thiên văn Chichén Itzá của họ không phải
hướng về những vì sao sáng nhất mà họ

hướng về nơi màn đêm trầm lặng bên
ngồi dải Ngân Hà. Cịn lịch pháp của họ
thì có thể duy trì được đến 400 triệu năm
sau, nó được dùng để làm gì? Ngồi ra họ
tiếp thu kiến thức từ đâu mà tính ra được
năm Mặt trời và năm sao Kim với độ chính xác chỉ sai ở những con số sau dấu phẩy?
Rất hiển nhiên, tất cả những kiến thức đó đã vượt ra ngồi nhu cầu thực tế của người Maya (theo như
hiểu biết hạn chế của chúng ta về họ) đang sống trong thời kỳ xã hội nông nghiệp và khiến cho các nhà
khảo cổ chưa thể giải thích được.

Bằng chứng thứ 3: Trình độ kiến trúc và xây dựng siêu đẳng, vượt trội nền văn minh
hiện đại của nhân loại
Từ những cơng trình cổ xưa mà hiện nay vẫn còn nằm trên mặt đất …

Trong đống đổ nát của Puma Puncu tại Nam Mỹ andesit có những khối nằm rải rác, được chế tạo
giống như hệ thống khối xây dựng. Các nhà khảo cổ liên hệ thành phố này với người thổ dân Anh
Điêng Aymara bản địa. Tuy nhiên khơng có văn bản chứng minh nào nói đến điều này và cũng chẳng
có kim loại ở đây để chế tác những chi tiết xây dựng chính xác đến như thế.

10


Kim tự tháp Mặt trời tại Teotihuacan , Mexico. Đây là Kim tự tháp lớn nhất thế giới.Những chấm
trắng nhỏ xíu trên đỉnh của nó là các khách du lịch tham quan. Không ai biết những người đã xây
dựng công trình vĩ đại này là ai? Ngay cả những người Aztec cổ xưa đã phát hiện ra những cơng trình
này cũng khơng biết gì về nguồn gốc của chúng.

11



Kim tự tháp Mặt trăng, nhìn từ đỉnh của Kim tự tháp Mặt trời, nằm trong tổ hợp các đền thờ và
kim tự tháp tại Teotihuacan, Mexico

12


Kim tự tháp Euseigne, Pháp. Là một kỳ quan đáng chú ý nhất trên dãy Alps. Trông tựa như là do
tự nhiên tạo ra, nhưng hình dạng của chúng thật kỳ lạ. Chưa kể trên chóp của 2 ngọn tháp là 2 tảng
đá khổng lồ nằm thăng bằng bất kể thời gian. Rốt cuộc, nó là tự nhiên hay nhân tạo ?

13


Kim tự tháp Kukulkan tại Chichen Itza, Pêru
Ở đây trên đỉnh của một ngơi đền ta nhìn bao qt xung quanh

Những kiến trúc lớn tại đây cao đến 70 m lên trên những ngọn cây . Ngay cả đến ngày hơm nay, chỉ có
một phần nhỏ trong khu vực rộng lớn ở Tikal được khám phá và nghiên cứu vì lý do kinh phí. Chúng ta
vẫn đang ở điểm xuất phát trong công cuộc khám phá những nền văn minh đầu tiên của khu vực Nam Mỹ.
Ngay cả những văn bản hiếm hoi của người Maya còn lưu lại vẫn chưa được giải mã hoàn toàn, trái ngược
với suy nghĩ của một số chuyên gia!

14


Tại địa điểm chính, nơi mà những kiến trúc vĩ đại tập trung lại với nhau là nơi tiến hành những nghi lễ
của người Maya. Tại sao người ta lại xây dựng một thành phố khổng lồ như thế? Những bể chứa nước lớn
cung cấp cho dân chúng, chỉ cách hồ Peten Itza có 40 km. Tikal được xây dựng như là chốn thiên đường
cho những người thời đó.
Người ta tìm thấy dịng chữ sau được khắc trên một bia đá: “Tại đây những vị Thần đã từ những vì sao

xuống Trái Đất!” (“Here came the gods from the stars down to the earth!”)

Một góc trong tổ hợp các cơng trình cổ đại tại Totonaco, Mexico

15


Kim tự tháp Lớn – Kim tự tháp Giza
Kỳ quan của thế giới mọi thời đại, Kim tự tháp Giza là một ví dụ đặc biệt điển hình rằng lịch sử của
loài người cho đến nay được biết và được học đã sai lầm trầm trọng. Một số chuyên gia đã tránh đề cập
đến thuyết “Hitat” từ một nhà sử học A Rập tên là Ahmed Al Makrizi (1364- 1442). Trong cuốn sách
“Capital of the Pyramids” – “Thủ đô của các Kim tự tháp”, Al Makrizi đã đưa ra các hiểu biết và các tài
liệu về thời của ông vào trong tác phẩm. Kim tự tháp đã được xây dựng sau thời của vị vua Saurid. Thần
đã cho Saurid
“hiểu biết của
các vì sao” và
cho ơng biết
về thảm họa sẽ
xảy ra trên
tồn Trái đất.
Vì thế, Saurid,
cịn được biết
đến dưới cái
tên
Hermes
hay là Idris, đã
xây dựng nên
Kim tự tháp:
“Có
những

người đã nói:
Hermes (thần
Thoth
của
người
Ai
Cập), là một
nhà tiên tri,
một vị vua,
một nhà hiền
triết, người đã
16


đọc các vì sao rằng một Thiên Cơ sẽ đến. Ông xây dựng kim tự tháp và cứu thoát tất cả những gì ơng
muốn khỏi bị đắm, những thứ lẽ ra phải bị mất đi”.
Nhà sử học A Rập Abd Al-Hakam đã viết:
“Tôi tin rằng những kim tự tháp đã được xây dựng trước khi được biết đến bởi người Ai Cập sau này;
nếu chúng được xây dựng sau, hẳn mọi người đều đã biết về nó rồi”.
Một số nhà khoa học xác định niên đại của Kim tự tháp này vào khoảng 12000 năm. Tức là sớm trước
các Kim tự tháp khác nhiều ngàn năm. Kim tự tháp lớn nhất lại được xây dựng sớm hơn các Kim tự tháp
nhỏ những vài ngàn năm, tại sao lại như thế ?

Tại LiBăng, tại 1150 m so với mực nước biển, tọa lạc những đống đổ nát những ngôi đền lớn nhất của
thế giới. Baalbek là thành phố của thần Mặt trời Baal hay còn được biết đến là Heliopolis, vị thần Hy
Lạp Helios.
Tổ hợp này bao gồm các ngôi đền cịn sót lại, ví dụ, đền Bacchus Temple, có tỉ lệ lớn hơn nhiều so với
đền thờ Acropolis ở Athens, Hy Lạp

17



6 cột trụ cịn lại của ngơi đền lân cận Jupiter Temple và nền móng của nó có các kích thước bên ngồi
lớn như thể nó được xây dựng cho những “Người khổng lồ”. Nó nhắc ta nhớ lại một đoạn trích trong
Genesis :
On some days these giants were on earth, and even later, after the sons of the gods! mated with the
daughters of men! and these gave birth to children. These are the heroes of the eons, the famous
men.(Genesis Chap. 6 Old Testament)

Ở đây chúng ta có thể nhận thấy các kích thước to lớn khác thường của nền móng mà Đền thờ Jupiter
Temple đang tọa lạc. Cho đến bây giờ khơng ai có thể hiểu được làm thế nào những tảng đá nặng hàng
ngàn tấn mà ngay cả các cần trục khỏe nhất của người hiện đại chúng ta cũng khơng nhấc nổi này, lại có
thể được tách ra, đẽo gọt vuông vắn và vận chuyển từ khu mỏ cách đó nhiều km, rồi được xây dựng vào vị
trí chính xác của chúng, tại cơng trường có độ cao 1150m như thế này. Ngay cả với công nghệ hiện đại
ngày nay đây cũng là một bài toán hết sức nan giải, gần như không thể thực hiện được. Không thể hiểu
người xưa đã dùng các công cụ thiết bị cũng như các phương tiện vận chuyển gì để dựng nên bí ẩn vĩ đại
này?

18


"Hòn đá phương Nam" tại Baalbek (Li Băng) nặng 1300 tấn! Khơng có chiếc cần trục nào có thể
nhấc nổi nó. Thành phố của thần mặt trời Baal ở Li Băng, mọi thứ đều có kích thước to lớn khác
thường.
Vào những ngày đó những người khổng lồ đã ở trên mặt đất, và về sau, sau khi những con trai của các
vị thần lấy những con gái của con người và sinh con đẻ cháu. Đó là những người anh hùng của các thời
đại, những người nổi tiếng. (On some days these giants were on earth, and even later, after the sons of
the gods! mated with the daughters of men! and these gave birth to children. These are the heroes of the
eons, the famous men) (Genesis, Chương 6, Cựu Ước)


Tảng đá to nhất (tảng khối xây dựng lớn nhất hành tinh) có kích thước 21,36m chiều dài, cao 4,33m,
rộng 4,6m và cân nặng khoảng từ 1200 tấn đến 2000 tấn. Nó được vận chuyển đến nền đất cao của
Baalbek và có cái tên là “Hajar el Gouble”- “Tảng đá phương Nam” hay là “Hajar el Hibla” – “Tảng
đá người thai phụ”. Tảng đá này cùng với các tảng khối khác đã đem lại cho các nhà khảo cổ, các nhà
khoa học và các kỹ sư nhiều bí ẩn to lớn.

Địa hình Baalbek dốc, mấp mơ và lởm chởm đá, hồn tồn bất lợi cho việc xây dựng. Khơng thể chứng
minh rằng vùng đất này xưa kia bằng phẳng trong thời tiền sử lúc nó được xây dựng. Hơn nữa, các
tảng đá nặng 1000 tấn phải được nhấc bổng lên và đặt chồng lên nhau làm nền móng.
19


Có giả thuyết cho rằng các mặt phẳng nghiêng, rịng rọc và hệ thống giàn đã được sử dụng, cùng với
hàng ngàn công nhân và sức thú. Đài kỷ niệm Ai Cập phía trước Hồng Cung của St. Peter ở La Mã làm
một ví dụ. Kiến trúc sư Domenico Fontana đã xây dựng tảng đá 327 tấn ở thời kỳ Phục Hưng với sự giúp
sức của 40 ròng rọc lớn, 800 công nhân, 140 con ngựa. Tuy nhiên ông ta có một khoảng đất bằng phẳng
trống trải. Những thuận lợi này khơng thể tìm thấy tại Baalbek. Có thể thấy rõ rằng Baalbek không phải
được dựng nên vào thời kỳ của đế quốc La Mã.
Cũng khơng có nguồn thơng tin nào của La Mã đề cập đến các phương pháp xây dựng, hoặc các dữ
liệu và tên gọi của những người chủ, các kỹ sư, các kiến trúc sư và các cơng nhân của cơng trình này.
Tảng ghép ngun khối của 3 khối mỗi khối hơn 1000 tấn, ghép nối với 6 tảng khác tại phía Tây của cơng
trường khơng có nét kiến trúc hay họa tiết điêu khắc mỹ thuật nào tương tự với những cơng trình
trong thời đại La Mã. Những khối đá vơi có các dấu vết rõ ràng của sự xói mịn cát cho thấy đây là một
cơng trình đã được xây dựng sớm hơn thời đó.

Tiahuanaco, Bolivia là một huyền thoại bởi tuổi của nó được ước tính lên tới 17000 năm, cùng với kỹ
thuật chế tác đá kỳ lạ khơng tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác.

20




×