Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 52 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐƢỜNG QUYẾT THẮNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Đƣờng Quyết Thắng
Lớp: Cao học luật Phú n khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn Thạc sĩ Luật học “Việc thay đổi người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình
nghiên cứu do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Võ Thị
Kim Oanh. Các nội dung, thơng tin được trình bày trong luận văn là trung thực.


Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Tơi xin hồn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Đƣờng Quyết Thắng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

TỪ ĐẦY ĐỦ

01

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

02

CQĐT

Cơ quan điều tra

03

ĐTV

Điều tra viên


04

KSV

Kiểm sát viên

05

VKS

Viện kiểm sát

STT


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CĂN CỨ THAY ĐỔI NGƢỜI CÓ THẨM QUYỀN TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG ..................................................................................................................7
1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ thay đổi ngƣời có
thẩm quyền tiến hành tố tụng ..............................................................................7
1.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các căn cứ
thay đổi ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng .............................................13
1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về các căn cứ thay đổi ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng ........24
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................27
CHƢƠNG 2. QUYỀN ĐỀ NGHỊ, THẨM QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VÀ THỦ
TỤC THAY ĐỔI NGƢỜI CÓ THẨM QUYỀN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG .......28
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền đề nghị, thẩm quyền
quyết định và thủ tục thay đổi ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng........28

2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền đề
nghị, thẩm quyền quyết định và thủ tục thay đổi ngƣời có thẩm quyền tiến
hành tố tụng .........................................................................................................31
2.3. Giải pháp nâng cáo hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về quyền đề nghị, thẩm quyền quyết định và thủ tục thay đổi ngƣời
có thẩm quyền tiến hành tố tụng .......................................................................39
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................43
KẾT LUẬN ..............................................................................................................44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật tố tụng hình sự Việt Nam có nhiệm vụ bảo đảm cho việc phát hiện kịp
thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm,
khơng để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ cơng lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý
thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.1 Để thực hiện
các nhiệm vụ trên, BLTTHS năm 2015 quy định các cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng có trách nhiệm nhằm xác định sự thật của vụ án, bảo đảm giải
quyết đúng đắn, khách quan, tồn diện vụ án hình sự, góp phần bảo đảm quyền con
người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. Chất lượng của các hoạt động tố tụng
hình sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: sự hồn thiện của pháp luật tố tụng hình
sự, trình độ chun mơn, nghiệp vụ, kinh nghiệm của người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, sự phối hợp giữa các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ sở
vật chất phục vụ cho các hoạt động tố tụng… Trong đó, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng là yếu tố trung tâm quyết định hiệu quả, chất lượng của tồn bộ q
trình giải quyết vụ án. Vì vậy, pháp luật không những quy định chặt chẽ về điều

kiện, tiêu chuẩn, điều kiện đổ bổ nhiệm những người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng mà cịn có những quy định nhằm đảm bảo sự vô tư, khách quan của người có
thẩm quyền tiến hình tố tụng. Một trong những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự nhằm bảo đảm sự vơ tư khách quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
đó là chế định thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là một chế định quan
trọng trong pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia trên thế giới nhằm đảm bảo
sự độc lập, sự vơ tư, khách quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi làm
nhiệm vụ. Có thể nói rằng những giá trị của một nền tư pháp nói chung và của q
trình tố tụng hình sự nói riêng mang lại cho con người, cho xã hội phụ thuộc chủ
yếu vào sự vô tư, khách quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.2 Trong
q trình giải quyết vụ án hình sự, chỉ khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vô
Điều 2 BLTTHS năm 2015.
Trần Thu Hạnh (2013), “Vô tư và nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự”, Tạp chí Luật học, (2), tr.17.
1
2


2
tư, khách quan họ mới xác định sự thật của vụ án và ra các quyết định tố tụng, bản
án để giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án. Ngược lại, nếu người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng không vô tư, khách quan trong khi làm nhiệm vụ sẽ
dẫn đến việc thiên vị, làm sai lệch sự thật của vụ án. Điều này không chỉ ảnh hưởng
đến hiệu quả của cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm mà cịn xâm phạm đến
quyền con người, quyền cơng dân trong tố tụng hình sự, làm giảm niềm tin của
nhân dân vào hoạt động tư pháp.
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã có những quy định nhằm đảm bảo sự vơ
tư khách quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng từ các nguyên tắc cơ bản
(như nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người

tham gia tố tụng; nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật) đến các quy định cụ thể về việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam đã quy định cụ thể về các trường hợp
thay đổi, quyền đề nghị thay đổi, thẩm quyền và thủ tục thay đổi người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng. Có thể khẳng định, các quy định này đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, cụ
thể cho việc áp dụng chế định về thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trên
thực tiễn. Tuy nhiên, qua nghiên cứu tác giả nhận thấy một số quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cịn hạn chế, bất cập
như: các trường hợp thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chưa đầy đủ, chưa
có văn bản hướng dẫn cụ thể; quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng cịn chưa được quy định hoàn thiện, thủ tục và thời hạn xem xét, quyết định còn
chưa được quy định… Những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật là một
trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình
sự về thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong thời gian qua cịn gặp nhiều
khó khăn, lúng túng. Vì vậy, việc nghiên cứu để làm rõ những hạn chế, vướng mắc
trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thay đổi người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng và thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng. Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã
chọn vấn đề “Việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát, tìm hiểu về các cơng trình khoa học pháp lý có liên quan đến
việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, tác giả nhận thấy có một số
cơng trình nghiên cứu có liên quan như sau:


3
- Nhóm giáo trình, sách bình luận, sách chun khảo:
Về giáo trình, sách chun khảo, có các cơng trình liên quan như: Nguyễn
Ngọc Chí (2014), Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Đại học quốc gia

Hà Nội; Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), (2018), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam, Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh, NXB Hồng Đức; Trường Đại
học Luật Hà Nội, (2017), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, (2017), NXB
Công an nhân dân. Qua nghiên cứu các cơng trình này tác giả nhận thấy việc thay
đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là một nội dung được đề cập, nghiên cứu
trong các sách, giáo trình này. Tuy vậy, với tính chất là các tài liệu phục vụ cho việc
đào tạo của cơ sở đào tạo luật, nên nội dung của các giáo trình này chỉ nghiên cứu ở
mức độ cơ bản nhất về các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Việc thay đổi
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khơng được nghiên cứu chun sâu, các giáo
trình này khơng đánh giá quy định, thực tiễn áp dụng pháp luật và đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Về bài viết tạp chí, hội thảo khoa học, có các cơng trình liên quan như sau:
Đỗ Thị Phượng, Trần Thị Liên, “Bàn về việc phải từ chối hoặc thay đổi người tiến
hành tố tụng”, (2020), Tạp chí Kiểm sát (17); Phan Thanh Mai, (1998), “Một số ý
kiến về việc thay đổi người tiến hành tố tụng”, Tạp chí Luật học, (01); Vũ Việt
Hùng, (2005), “Về việc từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng”, Tạp chí
Kiểm sát, (11); Nguyễn Ngọc Chí, (2008), “Đảm bảo sự vơ tư của người tiến hành
tố tụng, người phiên dịch, người giám định trong tố tụng hình sự, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, (8); Trần Thu Hạnh, (2013), “Vô tư và nguyên tắc đảm bảo sự
vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ
án hình sự”, Tạp chí Luật học, (2); Trần Thu Hạnh, (2013), “Nghiên cứu khái quát
về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người
tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, (29)… Qua
nghiên cứu tác giả nhận thấy các bài viết này có đề cập đến việc thay đổi người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng ở những phạm vi, mức độ khác khau. Các bài viết
này sẽ mang lại cho tác giả những thông tin hữu ích trong việc nghiên cứu đề tài
của mình.
Về đề tài nghiên cứu, khóa luận, luận văn, luận án, có một số cơng trình
nghiên cứu có liên quan như sau: Trần Thu Hạnh (chủ trì), , (2013) Nguyên tắc bảo
đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong



4
luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học nhóm B cấp Đại học
Quốc gia; Lê Hồng Trang, (2002), Thay đổi người tiến hành tố tụng trong pháp luật
tố tụng hình sự. Lý luận - thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, Trường Đại
học Luật TP. HCM; Lê Thị Nguyệt, (2012), Căn cứ thay đổi người tiến hành tố
tụng. Lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, Trường Đại học Luật
TP.HCM; … Các cơng trình này nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của pháp
luật và thực tiễn áp dụng về việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, so với đề tài của tác giả thì các cơng trình này hoặc là có phạm vi nghiên
cứu tương đối rộng; hoặc là thời gian thực hiện của các cơng trình này đã tương đối
lâu và việc nghiên cứu quy định, thực tiễn áp dụng theo BLTTHS năm 2003 (khơng
phải BLTTHS năm 2015).
Nhìn chung, các cơng trình này chỉ nghiên cứu một hoặc một số vấn đề liên
quan đến việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong đó, có một số
bài viết nghiên cứu trực tiếp về việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
nhưng vẫn cịn tồn tại những hạn chế, vướng mắc nhất định như chỉ tập trung phân
tích, đánh giá quy định của pháp luật, việc khảo sát thực tiễn chưa được thực hiện
hoặc còn hạn chế… Tuy vậy, những cơng trình nghiên cứu này sẽ là nguồn tài liệu
tham khảo hữu ích cho tác giả trong việc thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm sáng tỏ quy định của pháp luật tố tụng hình sự về việc thay đổi
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
Luận văn làm sáng tỏ những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và thực
tiễn áp dụng;
Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn xác định các nhiệm vụ sau:
+ Phân tích, quy định của quy định của pháp luật tố tụng hình sự về việc thay
đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;


5
+ Phân tích, khảo sát thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trên cơ sở đó, đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn này tập trung nghiên cứu những quy định của quy định của
BLTTHS năm 2015 về việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (có so
sánh với quy định của BLTTHS năm 2003) và thực tiễn áp dụng; nghiên cứu để xác
định các khó khăn, vướng mắc trong quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật; đưa
ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: để đảm bảo tính khách quan, tồn diện và đầy đủ
trong việc nghiên cứu, tác giả sẽ tiến hành khảo sát, đánh giá số liệu, báo cáo của
các cơ quan có thẩm quyền và các vụ việc điển hình về thay đổi người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng trên phạm vi cả nước.
Về thời gian: đề tài nghiên cứu, khảo sát, đánh giá các số liệu và vụ việc điển
hình liên quan đến thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng từ năm 2016 - 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả vận dụng tư tưởng của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm thế giới quan, phương pháp luận. Ngồi ra,
các phương pháp điển hình, đặc trưng trong nghiên cứu khoa học pháp lý được sử

dụng trong luận văn gồm:
Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để làm sáng tỏ và đánh giá
các nội dung, vấn đề cần nghiên cứu, trình bày khái quát kết quả nghiên cứu đã đạt
được của luận văn;
Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh quy định của BLTTHS năm
2015 và BLTTHS năm 2003 về thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Phương pháp thống kê được luận văn sử dụng để tổng hợp các số liệu và các
vụ việc điển hình trên thực tế.


6
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đối với hoạt động lập pháp: kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được tham
khảo trong hoạt động lập pháp nhằm góp phần vào việc hồn thiện quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
Đối với thực tiễn áp dụng pháp luật: đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu quả áp
dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thay đổi người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong thực tiễn;
Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo: đề tài sẽ cung cấp cho
khoa học pháp lý các nội dung về quy định của pháp luật tố tụng hình sự về việc
thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đề tài cũng có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các giảng viên, người học và những
người khác có quan tâm đến vấn đề này.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm hai chương như sau:
Chƣơng 1. Căn cứ thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Chƣơng 2. Quyền đề nghị thay đổi, thẩm quyền quyết định và thủ tục thay
đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.



7
CHƢƠNG 1
CĂN CỨ THAY ĐỔI NGƢỜI CÓ THẨM QUYỀN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ thay đổi ngƣời có
thẩm quyền tiến hành tố tụng
Việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là một chế định quan
trọng nhằm cụ thể hóa tinh thần của một số nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
hình sự như nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án (Điều 15 BLTTHS
năm 2015), nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng (Điều 21 BLTTHS năm 2015), nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 23 BLTTHS năm 2015). Sự vơ tư của người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo giải
quyết vụ án khách quan, công bằng, góp phần đảm bảo quyền con người, quyền
cơng dân trong tố tụng hình sự. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm: người tiến hành tố tụng
(Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, ĐTV, Cán bộ điều tra; Viện trưởng, Phó
Viện trưởng VKS, KSV, Kiểm tra viên; Chánh án, Phó Chánh án Tịa án, Thẩm
phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên) (khoản 2 Điều 34 BLTTHS năm
2015) và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (cấp
trường, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra tại khảon 2 Điều 35 BLTTHS năm 2015). Người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng là những chủ thể được pháp luật tố tụng hình sự quy
định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng
nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để gaiir quyết vụ án. Họ là các chủ thể
mang quyền lực nhà nước và được quyền ra các văn bản tố tụng có ý nghĩa quyết
định đối với việc giải quyết vụ án. Những văn bản tố tụng do các chủ thể này ban
hành thể hiện ý chí, quyền lực nhà nước và là biểu hiện của công lý, công bằng, lẽ
phải, đồng thời các văn bản tố tụng này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người
của các chủ thể tham gia tố tụng. Vì vậy, việc bảo đảm sự vơ tư, khách quan của

họ trong q trình tiến hành tố tụng là một đòi hỏi tất yếu. Chỉ khi nào người có
thẩm quyền vơ tư khi làm nhiệm vụ họ mới có thể thượng tơn pháp luật, tn thủ
và thực hiện đúng đắn, đầy đủ các quy định của pháp luật và ra các văn bản tố
tụng để giải quyết vụ án hình sự trên cơ sở quy định của pháp luật. Khi đó sự thật
khách quan của vụ án được xác định, các quyền, lợi ích của các chủ thể bị tội


8
phạm xâm hại sẽ được bảo vệ, khôi phục, niềm tin của nhân dân vào hoạt động
giải quyết vụ án hình sự được tăng cường và củng cố.
Để đảm bảo sự vơ tư của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, BLTTHS
năm 2015 đã quy định cụ thể các căn cứ người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị đề nghị thay đổi tại Điều 49, Điều 51, Điều 52,
Điều 53 và Điều 54. Trong đó Điều 49 quy định những “căn cứ chung” cho việc
thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bên cạnh những căn cứ chung về
thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tại Điều 49 thì cịn có những “căn
cứ riêng” về thay đổi từng người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc quy định
các căn cứ thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ tạo cơ sở pháp lý rõ
ràng, chặt chẽ trong việc hiểu và áp dụng thống nhất các căn cứ thay đổi người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trên thực tế.
- Quy định về căn cứ chung thay đổi ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Tại Điều 49 BLTTHS năm 2015 quy định các căn cứ người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi (đây được coi là
“căn cứ chung” để thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng) bao gồm:
Căn cứ thứ nhất: Họ đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người
thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy
tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Đương sự trong vụ án hình sự bao gồm
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án. Đây

là những chủ thể tham gia tố tụng có quyền và lợi ích bị ảnh hưởng trong q trình
giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, nếu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đồng
thời là bị hại, đương sự thì họ sẽ giải quyết vụ án mà có quyền, lợi ích của chính họ
trong vụ án. Điều này rõ ràng sẽ làm mất đi sự vô tư của họ trong khi làm nhiệm vụ.
Đồng thời, quy định này cũng cấm người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị đề nghị thay đổi nếu là “người đại diện” của
bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo. BLTTHS năm 2015 không quy định cụ thể
về người đại diện của người tham gia tố tụng bao gồm những ai. Để xác định người
đại diện của bị hại, đương sự bị can, bị cáo phải căn cứ vào quy định của Bộ luật
Dân sự và một số văn bản hướng dẫn thi hành. Ví dụ: để xác định người đại diện


9
của người bị buộc tội dưới 18 tuổi thì tại Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLTVKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của VKS nhân dân
tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương
binh và xã hội về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố
tụng đối với người dưới 18 tuổi có quy định như sau: Người đại diện của người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực pháp
luật, năng lực hành vi dân sự và có đủ điều kiện làm người đại diện theo quy định
tại các Điều 134, 135 và 136 Bộ luật Dân sự và được xác định theo thứ tự như sau:
cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; người giám hộ; người do tòa án chỉ định. Như vậy, việc
quy định chủ thể nào là “người đại diện” không được quy định hoặc có quy định
nhưng khơng cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng, dẫn đến tình
trạng mỗi cơ quan tiến hành tố tụng hiểu và áp dụng khác nhau. Trong tố tụng hình
sự người đại diện của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo được hiểu là người
thay mặt đương sự, bị can, bị cáo, người bị tạm giữ và bị hại tham gia các giai đoạn
tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử, hoà giải tại phiên toà,…) để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp.3 Trong căn cứ này nếu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khơng bị
thay đổi thì họ sẽ giải quyết vụ án có quyền, lợi ích của những người mà họ có quan
hệ đại diện và như vậy sẽ làm mất đi sự vô tư, khách quan trong khi làm nhiệm vụ.

Bên cạnh đó, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng phải từ chối tiến
hành tố tụng hoặc bị đề nghị thay đổi nếu là người thân thích của bị hại, đương sự
hoặc của bị can, bị cáo. Theo quy định tại điểm e, khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm
2015 thì người thân thích của người tham gia tố tụng, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng là người có quan hệ với người tham gia tố tụng, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng gồm vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ,
bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,
chị ruột, em ruột; cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột,
cháu ruột. Trong căn cứ này nếu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khơng bị
thay đổi thì họ sẽ giải quyết vụ án có quyền, lợi ích của những người mà họ có quan
hệ thân thích.
Như vậy, những người tham gia tố tụng như bị hại, đương sự, bị can, bị cáo
là những người có quyền và lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án. Nếu để người có
PTQ, Bất cập xung quanh quy định về “người đại diện” trong tố tụng hình sự và dân sự, nguồn: https://tks.
edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/120/760, truy cập 3/3/2021.
3


10
thẩm quyền tiến hành tố tụng giải quyết vụ án trong các căn cứ này sẽ không thể vô
tư khi xem xét, giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền lợi của họ, của người
thân thích hoặc của người mà họ đại diện hợp pháp.4
Căn cứ thứ hai: Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm
chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật
trong vụ án đó.
Khác với căn cứ thứ nhất, căn cứ thứ hai quy định người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay đổi nếu đã tham gia vụ án với các tư cách của
những người tham gia tố tụng như: người bào chữa, người làm chứng, người giám
định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật. Việc giải quyết vụ
án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, nếu ở giai đoạn tố tụng trước người

có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã tham gia vụ án với một trong các tư cách của
những chủ thể tham gia tố tụng này thì đến giai đoạn tố tụng tiếp theo nếu họ được
phân công tiến hành tố tụng thì phải chủ từ chối hoặc bị thay đổi nhằm đảm bảo sự
tư khi làm nhiệm vụ.
Đối với người bào chữa, đây là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa
hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Họ tham gia tố tụng
với mục đích để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, góp phần xác
định sự thật khách quan của vụ án. Pháp luật tố tụng hình sự quy định cho người
bào chữa các quyền và nghĩa vụ pháp lý phù hợp với vị trí, vai trị tố tụng của họ.
Họ đã tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho người bị buộc tội thì khơng thể trở thành người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng để xác định sự thật khách quan của vụ án.
Đối với người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người
phiên dịch, dịch thuật, đây là những người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý,
họ tham gia tố tụng theo triệu tập, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng nhằm cung cấp các nguồn chứng cứ như lời khai, kết luận giám định,
kết luận định giá tài sản, thực hiện việc phiên dịch, dịch thuật để giúp cơ quan,
người có thẩm quyền giải quyết vụ án nếu họ lại trở thành người có thẩm quyền tiến

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB. Hồng
Đức, tr.146.
4


11
hành tố tụng trọng vụ án thì chính họ sẽ kiểm tra, đánh giá các chứng cứ do mình
cung cấp, vì vậy khơng đảm bảo tính khách quan.5
Căn cứ thứ ba: Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể khơng vơ tư
trong khi làm nhiệm vụ.

Nếu như quy định việc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong các căn cứ ở trên thể hiện rõ sự thiếu vô tư khách quan một cách “hiển
nhiên” của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong mối quan hệ với những
chủ thể tham gia tố tụng khác hoặc đã tham gia tố tụng trong vụ án đó với tư cách
của một số người tham gia tố tụng. Việc xác định người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng thiếu vô tư khách quan theo các căn cứ ở trên là thuận lợi và dễ dàng. Tuy
nhiên, trong q trình tố tụng cịn tồn tại những căn cứ người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng thiếu vơ tư theo suy đốn - lúc này buộc phải tìm chứng cứ để kết
luận về tính thiếu vơ tư của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng6 để quyết định
việc có thay đổi họ hay khơng? Quy định tại khoản 3 Điều 49 về thay đổi người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng là biểu hiện của sự thiếu vơ tư theo “suy đốn”. Đây
là một quy định chung chung, mang tính định tính, vì vậy có thể dẫn đến việc hiểu
và áp dụng thiếu thống nhất nếu không có văn bản hướng dẫn thi hành. Từ khi
BLTTHS năm 2015 được ban hành và có hiệu lực đến nay chưa có văn bản hướng
dẫn để áp dụng đối với căn cứ này. Tuy nhiên, đây là quy định mang tính kế thừa
của khoản 3 Điều 42 BLTTHS năm 2003 và theo Nghị quyết số 03/2004/NQ HĐTP ngày 02 tháng 10 năm 2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong
phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTHS năm 2003 thì những căn cứ
khác để cho rằng người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khơng vơ tư khi làm
nhiệm vụ như: giữa những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với những
người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích pháp lý trong vụ án (bị hại, đương sự,
bị can, bị cáo) có các mối quan hệ ràng buộc khác ngoài quan hệ đại diện, quan hệ
thân thích, chẳng hạn quan hệ tình cảm, thơng gia, kinh tế, cơng tác, tơn giáo...;
hoặc có căn cứ cho rằng người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bị mua chuộc, bị
đe dọa...; hoặc trong cùng một phiên tịa những người tiến hành tố tụng là người
thân thích với nhau. Đây là những căn cứ khác ngoài căn cứ được quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều 49 BLTTHS năm 2015, những mối quan hệ xã hội này
5
6

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (4), tr.147.

Trần Thu Hạnh (2013), tlđd (2), tr.20.


12
có thể làm cho người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không vô tư, khách quan
khi làm nhiệm vụ7.
- Quy định về các căn cứ cụ thể để thay đổi đối với từng ngƣời tiến hành
tố tụng
Ngoài những căn cứ chung về thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng như đã phân tích ở trên. BLTTHS năm 2015 còn quy định những căn cứ riêng
để đối với từng người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tại các Điều 51, 52, 53, 54
BLTTHS năm 2015 như sau:
Căn cứ Thay đổi ĐTV, Cán bộ điều tra: ngoài các căn cứ được quy định tại
Điều 49, ĐTV, Cán bộ điều tra sẽ bị thay đổi nếu đã tiến hành tố tụng trong vụ án
đó với tư cách là KSV, Kiểm tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên hoặc
Thư ký Tòa án;
Căn cứ thay đổi KSV, Kiểm tra viên: ngoài các căn cứ được quy định tại Điều
49, KSV, Kiểm tra viên sẽ bị thay đổi nếu: Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với
tư cách là ĐTV, Cán bộ điều tra, Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên hoặc Thư ký
Tòa án.
Căn cứ Thay đổi Thẩm phán và Hội thẩm: ngoài các căn cứ được quy định
tại Điều 49 BLTTHS, Thẩm phán và Hội thẩm sẽ bị thay đổi nếu thuộc một trong
hai trường hợp sau đây: Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích
với nhau; Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố tụng vụ án
đó với tư cách là ĐTV, Cán bộ điều tra, KSV, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên, Thư ký
Tịa án.
Căn cứ thay đổi Thư ký Tịa án: ngồi các căn cứ được quy định tại Điều 49
BLTTHS, Thư ký Tòa án sẽ bị thay đổi nếu: Đã tiến hành tố tụng vụ án đó với tư
cách là KSV, Kiểm tra viên, ĐTV, Cán bộ điều tra, Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra
viên, Thư ký Tịa án.

Nhìn chung các quy định này đều cấm những người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng nếu đã tham gia giải quyết vụ án với tư cách của một trong số
những người có thẩm thẩm quyền tiến hành tố tụng khác thì khơng được trở
thành người tiến hành tố tụng trong vụ án đó. Nếu được phân cơng giải quyết vụ
7

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (4), tr.147.


13
án thì phải từ chối hoặc bị đề nghị thay đổi. Việc đã tiến hành tố tụng trong vụ
án đó với tư cách của những người tiến hành tố tụng khác có thể làm cho họ
khơng khách quan, độc lập khi giải quyết lại vụ án vì trước đó họ đã thể hiện lập
trường, quan điểm, nhận thức và thái độ của mình về vụ án hoặc có thể họ đã có
những vi phạm, sai lầm trong việc giải quyết vụ án nên không thể vô tư khi tiến
hành tố tụng đối với vụ án đó8.
Riêng đối với Thẩm phán và Hội thẩm xuất phát từ việc đảm bảo nguyên tắc
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nên BLTTHS năm 2015 còn quy định
thêm một số căn cứ để thay đổi họ như: Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là
người thân thích với nhau; Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm vụ án đó.
Có một điểm khác biệt trong quy định về thay đổi Thầm phán, Hội thẩm so với thay
đổi ĐTV, Cán bộ điều tra, KSV, Kiểm tra viên đó là: đối với Thầm phán, Hội thẩm
nếu đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm vụ án thông được trở thành Thẩm
phán, Hội thẩm để giải quyết lại vụ án đó nhưng đối với ĐTV, Cán bộ điều tra,
KSV, Kiểm tra viên nếu trước đó đã giải quyết vụ án với tư cách của ĐTV, Cán bộ
điều tra, KSV, Kiểm tra viên thì vẫn được quyền giải lại vụ án với cùng tư cách của
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (luật chỉ cấm, không cho phép tiến hành tố
tụng với tư cách của người tiến hành tố tụng khác).
1.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các căn
cứ thay đổi ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng

- Những kết quả đạt được trong thực tiễn áp dụng
Hiện nay các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chưa số liệu thống kê
riêng đối với việc áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ thay đổi
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhưng qua báo cáo tổng kết của VKS nhân
dân tối cao về kết quả giải quyết vụ án hình sự trong các giai đoạn tố tụng có thể
nhận định rằng: thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ
thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong thời gian qua (từ năm 20162020) đã được đảm bảo đúng quy định của pháp luật, điều này góp phần đảm bảo
hiệu quả hoạt động giải quyết các vụ án hình sự, góp phần có hiệu quả vào cơng tác
đấu tranh phịng chống tội phạm. Theo số liệu thống kê của VKS nhân dân tối cao
(từ năm 2016-2020) cho thấy kết quả giải quyết các vụ án hình sự trong phạm vi cả
8

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (4), tr.149.


14
nước luôn vượt chỉ tiêu đề ra. Kết quả giải quyết án trong các giai đoạn tố tụng phụ
thuộc vào nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó những người tiến hành tố tụng đã
đảm bảo được sự vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án. Kết quả giải
quyết án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền trong các giai đoạn tố tụng được
thể hiện qua bảng số liệu sau đây9:
Năm

2016

2017

2018

2019


2020

Kết giải quyết nguồn tin về tội
phạm của CQĐT (%)

92

93

93

92

93

Kết quả giải quyết án trong giai
đoạn điều tra (%)

84

84

83

84

83

Kết quả giải quyết án quyết

trong giai đoạn truy tố (%)

99

99

99

99

99

Kết quả giải quyết án trong giai
đoạn XXST (%)

85

85

92

91

90

Kết quả giải quyết án trong giai
đoạn XXPT (%)

66


64

67

65

66

Bên cạnh đó, một số vụ việc trên thực tế khi tiếp nhận đề nghị thay đổi người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng, các chủ thể có thẩm quyền đã căn cứ vào quy định
của BLTTHS năm 2015 để chấp nhận hoặc từ chối đề nghị thay đổi người có thẩm
quyền đúng quy định của pháp luật. Điều này có thể được minh chứng qua một số
vụ án sau:
Vụ án 1: Ngày 15-3-2021 TAND TP.HCM xử sơ thẩm vụ sai phạm liên quan
đến ơng Nguyễn Thành Tài (cựu Phó Chủ tịch UBND TP.HCM) cùng tám đồng
phạm thiếu trách nhiệm trong vụ hoán đổi khu "đất vàng" Trung tâm ca nhạc nhẹ
TP.HCM. Tại phần thủ tục, chủ tọa thông báo sức khỏe nữ đại gia Dương Thị Bạch
Diệp (Giám đốc Công ty Diệp Bạch Dương) bị truy tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản đảm bảo bởi đội ngũ cán bộ y tế có mặt tại tồ.
Thống kê kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của ngành kiểm sát nhân dân
từ năm 2016 – 2020.
9


15
Sau phần làm thủ tục phiên tòa, các luật sư đã có kiến nghị đề nghị HĐXX
triệu tập nhiều người liên quan mà trong quyết định xét xử vẫn chưa được triệu
tập. Cụ thể, nhóm luật sư bào chữa cho bị cáo Dương Thị Bạch Diệp đề nghị triệu
tập đại diện Văn phòng đăng ký đất đai (thuộc Sở Tài nguyên - môi trường) và hội
đồng định giá trong tố tụng hình sự TP.HCM, ơng Nguyễn Hữu Tín (ngun phó

chủ tịch TP), cơng chứng viên và một số người có lời khai đã được thu thập trong
hồ sơ vụ án.
Bị cáo Dương Thị Bạch Diệp đã đề nghị HĐXX thay đổi KSV Trịnh Thị Lan
Anh. Bà Diệp cho rằng trong q trình điều tra, bà Lan Anh có hành vi bao che cho
người khác và có sai sót trong cáo trạng, và cho rằng trong q trình điều tra có nhiều
giấy tờ hồ sơ giả để kết tội mình. Bà Diệp cũng cho rằng bà Lan Anh có họ hàng
người bên ngân hàng và ngân hàng đã cố tình đưa bà Diệp vào tù. Chủ tọa cho rằng
VKS đã nhận được đơn tố cáo của bà Diệp, tuy nhiên VKS đã bác đơn của bà. Cịn tại
phiên tịa hơm nay, HĐXX sẽ xem xét các căn cứ và lý do mà bà Diệp yêu cầu. Sau
khi họp xem xét kiến nghị của bà Diệp về việc yêu cầu thay đổi KSV Trịnh Thị Lan
Anh, kết quả thống nhất với tỉ lệ 5/5 thành viên không chấp nhận yêu cầu của bị cáo vì
khơng có căn cứ pháp luật.10
Vụ án 2: Ngày 27-12-2016, TAND Cấp cao tại TPHCM đưa ra xét xử phúc
thẩm vụ sai phạm xảy ra tại Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (gọi tắt
VNCB), nay là Ngân hàng Thương mại TNHH MTV Xây dựng Việt Nam (gọi tắt
CB). Kết thúc phiên xử sơ thẩm, ngày 9-9-2016 TAND TPHCM đã tuyên phạt các
bị cáo Phạm Công Danh (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị VNCB, Chủ tịch Hội
đồng thành viên kiêm Tổng Giám đốc Công ty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh)
mức án tổng hợp 30 năm tù; Phan Thành Mai (nguyên Tổng Giám đốc VNCB) 22
năm tù; Mai Hữu Khương (nguyên thành viên Hội đồng quản trị, nguyên Giám
đốc VNCB chi nhánh Sài Gịn) 20 năm tù; Hồng Đình Quyết (ngun Phó Giám
đốc phụ trách VNCB chi nhánh Sài Gòn, Giám đốc VNCB chi nhánh Lam Giang)
19 năm tù về hai tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng” và “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các
tổ chức tín dụng”. Liên quan trong vụ án, 32 bị cáo khác bị tuyên từ 3 năm tù
nhưng cho hưởng án treo đến 16 năm tù giam. Ngồi ra, chủ tọa phiên tịa cũng
Hồng Điệp, Bị cáo Dương Thị Bạch Diệp yêu cầu thay đổi kiểm sát viên, nguồn: truy cập 21/3/2021.
10




×