BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
ĐÀO U N MỪNG
TỘI MU B N TR I PH P CHẤT M T
TRONG BỘ LUẬT H NH S VI T N M
CHU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
N NGÀNH LUẬT H NH S VÀ T TỤNG H NH S
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TỘI MU B N TR I PH P CHẤT M T
TRONG BỘ LUẬT H NH S VI T N M
C u nn
n
Luật H n s v T tụn
Địn ƣớn ứn dụn
Mã s : 60380104
n s
Người hướng dẫn khoa học: P s.Ts. N u ễn T ị P ƣơn Hoa
Họ tên học viên: Đ o u n Mừn
Lớp: Cao ọc Luật, Phú n Khóa 1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
LỜI C M ĐO N
Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất
kỳ cơng trình, luận văn nào trước đây. Các thông tin tham khảo trong luận văn đều
được tác giả trích dẫn một cách đầy đủ và cẩn thận.
Tác iả luận văn
Đ o u n Mừn
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. MỘT S DẤU HI U ĐỊNH KHUNG CỦ TỘI MU B N
TR I PH P CHẤT M T Y .................................................................................8
1.1. Lý luận v qu địn của p áp luật về một s dấu iệu địn k un của
tội mua bán trái p ép c ất ma tú ......................................................................8
1.2. T c tiễn áp dụn v kiến n ị o n t iện p áp luật về dấu iệu địn
k un của tội mua bán trái p ép c ất ma tú .................................................13
1.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về dấu hiệu định khung của tội mua bán
trái phép chất ma túy ........................................................................................13
1.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dấu hiệu định khung của tội mua bán
trái phép chất ma túy ........................................................................................21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................23
CHƢƠNG 2. QU ẾT ĐỊNH H NH PHẠT Đ I VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI
PH P CHẤT M T
..........................................................................................24
2.1. Lý luận v qu địn của p áp luật về qu ết địn
n p ạt đ i với tội
mua bán trái p ép c ất ma tú .........................................................................24
2.2. T c tiễn áp dụn v kiến n ị o n t iện p áp luật về qu ết địn
n
p ạt đ i với tội mua bán trái p ép c ất ma tú ..............................................27
2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyết định hình phạt đối với tội mua bán
trái phép chất ma túy ........................................................................................27
2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyết định hình phạt đối với tội mua
bán trái phép chất ma túy .................................................................................39
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................42
KẾT LUẬN ..............................................................................................................43
D NH MỤC TÀI LI U TH M KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do c ọn đề tài
Tệ nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa lớn của nhân loại. Hậu quả do
tệ nạn ma túy gây ra ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh – quốc phịng, làm tổn hại sức khỏe của con người, đồng thời là
nguyên nhân phát sinh tội phạm, đe dọa sự ổn định, phồn vinh và sự trường tồn của
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Trước tình hình đó, Liên Hợp quốc và các Tổ chức quốc tế cùng nhiều quốc
gia trên thế giới đã đầu tư công sức, tiền của cho nỗ lực phòng chống ma túy.
Ở Việt Nam, để ngăn chặn thảm họa ma túy và tích cực hưởng ứng chương
trình tồn cầu phịng chống ma túy của Liên Hợp quốc, trong những năm qua, Đảng
và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật quan
trọng kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với tội phạm ma túy, kiềm chế sự
lây lan phát triển của tội phạm, tệ nạn ma túy và tiến tới từng bước xóa bỏ tệ nạn ma
túy ra khỏi đời sống xã hội. Những năm qua, việc triển khai quyết liệt, đồng bộ các
biện pháp, giải pháp cơng tác phịng chống và kiểm soát ma túy đã đạt được những
kết quả quan trọng; nhận thức về ma túy và tác hại của tệ nạn ma túy, trách nhiệm
đối với cơng tác phịng chống ma túy đã có những chuyển biến tích cực góp phần
từng bước kiềm chế tệ nạn ma túy.
Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tình hình tội phạm và tệ nạn ma
túy trong khu vực, trên thế giới, tình hình hoạt động tội phạm ma túy ở nước ta vẫn
diễn biến hết sức phức tạp. Việc vận chuyển, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma
túy không ngừng gia tăng cả ở biên giới và trong nội địa với phương thức, thủ đoạn
hoạt động có nhiều thay đổi, tinh vi hơn. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân
tối cao, từ năm 2015 đến năm 2019, trung bình mỗi năm Tịa án nhân dân các cấp
trong cả nước đã xét xử khoảng 20.000 vụ phạm tội về ma túy với khoảng 30.000
người phạm tội. Trong đó, số vụ phạm tội mua bán trái phép chất ma túy là khoảng
12.000 vụ với khoảng 20.000 người phạm tội, chiếm khoảng 60% số vụ phạm tội và
66,6% số người phạm tội đã qua xét xử trong tổng cơ cấu tình hình các tội phạm về
ma túy, chiếm một tỷ lệ rất cao.
Các quy định của Bộ luật Hình sự về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
cho đến nay đã phát huy được hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống ma
2
túy. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về loại
tội này trên thực tiễn cịn bộc lộ nhiều khó khăn, vướng mắc như việc xác định
dấu hiệu định khung “Đối với 02 người trở lên” trong thực tiễn cịn có các vụ án
áp dụng khác nhau. Đồng thời, khơng có sự thống nhất quan điểm về các căn cứ
để quyết định hình phạt. Hoặc bị cáo có nhiều căn cứ để quyết định hình phạt thấp
hơn nhưng khi quyết định hình phạt lại nặng hơn so với bị cáo khác có ít căn cứ để
quyết định hình phạt thấp hơn,…Từ đó, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, không
thống nhất trong việc áp dụng pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền con người của
bị cáo cũng như chưa đáp ứng kịp thời cơng tác đấu tranh phịng chống tội “Mua
bán trái phép chất ma túy” nói riêng, các tội phạm về ma túy nói chung.
Xuất phát từ những bất cập của vấn đề, cũng như từ thực tiễn xét xử, tác giả
chọn đề tài “Tội Mua bán trái phép chất ma túy trong Bộ luật Hình sự Việt Nam”
làm đề tài nghiên cứu Luận văn Thạc sĩ luật học của mình, nhằm góp phần nghiên
cứu những vấn đề lý luận cũng như quy định của pháp luật về 02 loại vấn đề là (i)
Một số dấu hiệu định khung của tội mua bán trái phép chất ma túy; (ii) Quyết định
hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy. Từ đó, mạnh dạn đề xuất
hướng áp dụng pháp luật trong thực tiễn để nhằm cho việc áp dụng pháp luật được
thuyết phục hơn, theo lẽ công bằng hơn, đáp ứng tốt hơn cơng tác phịng, chống loại
tội phạm này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội Mua bán trái phép chất ma túy là tội phạm có tính nguy hiểm cao nên có
khung hình phạt hết sức nghiêm khắc. Vì vậy, được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu về mặt lý luận. Đã có một số cơng trình liên quan tội phạm này được
công bố như:
- Về sách chuyên khảo:
+ Sách Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (tập III),
Nxb. Lao động, thành phố Hồ Chí Minh. Sách chun khảo này bình luận các thông
tin liên quan đến những vấn để chung về tội phạm ma túy, trong đó có tội “Mua bán
trái phép chất ma túy”. Các vấn đề được trình bày, đánh giá, phân tích có sự kết hợp
với lý luận, đối chiếu với pháp luật. Tài liệu này đưa đến cho tác giả hai lợi ích quý
báu. Thứ nhất, tác giả học được cách phân tích cấu thành tội phạm đối với tội này,
các dấu hiệu định tội. Điều này có giá trị là nguyên liệu để triển khai luận văn. Thứ
3
hai, những phân tích trong quyển sách này là sự tham khảo để triển khai dàn ý cũng
như những nội dung cơ bản của đề tài, đặc biệt liên quan đến một số dấu hiệu định
khung của tội mua bán trái phép chất ma túy.
+ Sách Đoàn Tấn Minh (2010), Phương pháp định tội danh và hướng dẫn
định tội danh đối với các tội phạm trong Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành, Nxb.
Tư pháp, Hà Nội. Cũng tương tự như Sách Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa
học Bộ luật Hình sự (tập III), Nxb. Lao động, thành phố Hồ Chí Minh quyển sách
này cũng đã phân tích các phương pháp định tội danh. Tài liệu này cũng là tài liệu
quan trọng để tác giả phân tích, đánh giá liên quan đến một số dấu hiệu định khung
của tội mua bán trái phép chất ma túy.
+ Sách Đinh Văn Quế (2009), Bình luận khoa học về các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Nxb tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, thành
phố Hồ Chí Minh. Với tài liệu chuyên khảo trên đây, tác giả đã phân tích, nghiên
cứu những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự làm căn cứ quyết
định hình phạt với mục đích phổ biến các quy định, cung cấp cho người đọc sự
nhìn nhận một cách tổng quan và sâu hơn về các quy định của pháp luật hình sự,
đồng thời cũng đưa ra những đánh giá về ưu, nhược điểm của các quy định tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong Bộ luật Hình sự. Ngồi ra, tác giả cịn lồng ghép sự
bình luận, phân tích thơng qua những vụ việc cụ thể. Đây là nền tảng để tác giả
tiếp tục nghiên cứu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự làm căn
cứ quyết định hình phạt đối với tội “Mua bán trái phép chất ma túy” trong quá
trình làm đề tài luận văn, đặc biệt tại chương 2 về quyết định hình phạt đối với tội
mua bán trái phép chất ma túy.
+ Sách Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh (2016), Phòng ngừa một số tội phạm về
ma túy trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Đại học quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. Với việc tổng hợp, xây dựng lý luận phòng
ngừa một số tội phạm về ma túy, trong đó có phịng ngừa về tội “Mua bán trái phép
chất ma túy”, quyển sách đã trang bị về mặt lý luận cho hoạt động phòng ngừa tội
phạm. Về mặt thực tiễn, quyển sách là cơng trình nghiên cứu trong hoạt động phịng
ngừa tội phạm về ma túy nói chung tại thành phố Hồ Chí Minh. Các nội dung này
được luận văn sử dụng làm nền kiến thức cơ bản cho phần nghiên cứu, đề xuất các
kiến nghị liên quan đến vấn đề quyết định hình phạt đối với tội “Mua bán trái phép
chất ma túy” để kịp thời đấu tranh phòng chống tội phạm.
4
- Tập bài giảng Nguyễn Trí Tuệ, Phạm Minh Tuyên, Nguyễn Thanh Mận
(2020), Tập bài giảng chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử kỹ năng giải quyết vụ
án hình sự, Học viện Tòa án, Hà Nội. Tài liệu này đã trình bày khái quát chung về
các tội phạm về ma túy, khái niệm về chất ma túy và các tội phạm về ma túy, các
dấu hiệu đặc trưng của tội phạm, các tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung
hình phạt. Ngồi ra, cịn phân tích việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường
hợp có nhiều hành vi phạm tội. Đồng thời, phân tích các yếu tố cấu thành tội mua
bán trái phép chất ma túy cũng như phân tích một số vướng mắc khi xét xử các tội
phạm về ma túy nói chung. Các nội dung này được luận văn sử dụng làm nền tảng
lý luận cho phần nghiên cứu chính của đề tài.
- Các luận văn:
+ Luận văn Thạc sĩ Luật của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Thùy (2017) “Các căn
cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng”, Học viện khoa học xã hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Luận
văn đã phân tích lý luận, quy định pháp luật về các căn cứ quyết định hình phạt, đối
chiếu thực tiễn áp dụng pháp luật tại thành phố Đà Nẵng. Qua đó, đề ra các yêu cầu
và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt. Tác giả đã sử
dụng các phân tích về mặt lý luận của luận văn nêu trên cũng để làm nền tảng lý
luận cho phần nghiên cứu chính của đề tài.
+ Luận văn Thạc sĩ của tác giả Hồ Công Phúc (2018) “Tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trong quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Hà Tĩnh”, Học viện khoa học xã hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
Luận văn này cũng đã phân tích lý luận, quy định pháp luật về tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trong quyết định hình phạt, đối chiếu thực tiễn áp dụng pháp luật tại tỉnh
Hà Tĩnh. Qua đó, đề ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng thống nhất tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong quyết định hình phạt. Tác giả cũng đã sử dụng các
phân tích về mặt lý luận của luận văn nêu trên để làm nền tảng lý luận cho phần
nghiên cứu chính của đề tài.
Hầu hết các tài liệu nêu trên đều đã thực hiện việc nghiên cứu chuyên sâu về
một khía cạnh nhất định. Các nội dung liên quan trực tiếp đến một số dấu hiệu định
khung và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy vẫn còn
vắng bóng. Tuy nhiên, các cơng trình này vẫn có những giá trị tham khảo cao khi
tác giả xây dựng dàn ý, triển khai nội dung và đưa ra các phân tích trong luận văn
5
của mình. Tuy chưa có cơng trình nào trực tiếp liên quan đến đề tài hẹp của luận
văn nhưng các kết quả nghiên cứu của luận văn đều được ảnh hưởng và rút kinh
nghiệm từ các giá trị tích lũy được trong các tài liệu tham khảo.
Với đề tài luận văn này, tác giả sẽ phân tích, bình luận các bản án liên quan
đến một số dấu hiệu định khung và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy. Tác giả hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ đem lại những
giá trị hữu ích nhất định cho việc áp dụng pháp luật để xử lý đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy, góp phần bảo vệ quyền con người của bị cáo theo lẽ công bằng
hơn nhưng đồng thời cũng góp phần kịp thời, đạt hiệu quả hơn trong cơng tác phịng
chống tội phạm. Ngồi ra, hoạt động nghiên cứu này cịn giúp tác giả học hỏi, nâng
cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đem lại hiệu quả cao nhất cho công
tác chuyên môn, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới.
Từ những lý do nêu trên, có thể khẳng định đề tài luận văn của tác giả mang
tính mới trong bối cảnh hiện nay cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Mục đíc , n iệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là qua phân tích quy định của pháp luật hình
sự và đối chiếu với thực tiễn xét xử tại tòa án, đề xuất hoàn thiện pháp luật về một
số dấu hiệu định khung và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất
ma túy.
Nhiệm vụ nghiên cứu là tác giả thực hiện việc so sánh, nhận định, phân tích
những bất cập, không thống nhất giữa các quy định trong văn bản pháp luật và thực
tiễn áp dụng, đưa ra những kiến nghị, đề xuất hướng khắc phục nhằm góp phần
hồn thiện quy định pháp luật hình sự liên quan đến đề tài mà tác giả nghiên cứu.
4. Đ i tƣợn và p ạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật Việt
Nam và thực tiễn áp dụng tại tòa án khi áp dụng quy định một số dấu hiệu định
khung và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thứ nhất, về phạm vi không gian ở Việt Nam, do luận văn phục vụ cho
vấn đề ứng dụng nên ngồi căn cứ lý thuyết cịn được viện dẫn dựa trên các sự
6
việc, bản án của một số địa phương để tạo tính thuyết phục về nội dung và quan
điểm sửa đổi, bổ sung. Các sự việc, bản án được đề cập trong phạm vi tồn quốc,
khơng giới hạn ở một địa phương cụ thể. Các tài liệu nghiên cứu chủ yếu là tài
liệu trong nước.
Thứ hai, về phạm vi thời gian, tập trung nghiên cứu các sự việc, bản án
kể từ khi Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực
pháp luật.
Thứ ba, về phạm vi nội dung, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu 02 vấn đề là (i)
một số dấu hiệu định khung và (ii) quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy.
5. P ƣơn pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu luận văn được xuyên suốt đúng với mục đích và phạm vi đã
đặt ra, trong q trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp, cụ thể
như sau:
Tại chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích để làm rõ lý luận và
quy định hiện hành của pháp luật về một số dấu hiệu định khung đối với tội mua
bán trái phép chất ma túy. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp bình luận
bản án để làm nổi bật những bất cập giữa thực tiễn áp dụng và lý luận. Đồng thời,
sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu với các quy định có liên quan khác.
Song song với phương pháp phân tích và bình luận bản án, tác giả cịn sử dụng
phương pháp tổng hợp tại phần kết luận của chương để khái quát những nội dung
đã trình bày và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của
pháp luật.
Tương tự nhưng chương 1, tại chương 2, tác giả cũng sử dụng phương pháp
phân tích để làm rõ các quy định hiện hành của pháp luật về quyết định hình phạt
đối với tội mua bán trái phép chất ma túy. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương
pháp bình luận bản án để làm nổi bật những bất cập giữa thực tiễn áp dụng và lý
luận. Đồng thời, sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu với các quy định có liên
quan khác. Song song với phương pháp phân tích và bình luận bản án, tác giả cũng
sử dụng phương pháp tổng hợp tại phần kết luận của chương để khái quát những nội
dung đã trình bày và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của
pháp luật.
7
6. B cục luận văn và địa c ỉ ứn dụn các kết quả nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn được kết cấu thành 02 chương:
C ƣơn 1. Một số dấu hiệu định khung đối với tội mua bán trái phép chất
ma túy.
C ƣơn 2. Quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy.
Đề tài nghiên cứu đều dựa trên tình hình hiện tại của xã hội, khi tệ nạn và tội
phạm ma túy càng trở nên phổ biến và phức tạp. Vì vậy, đây sẽ là một cơng trình có
thể giải quyết được các vướng mắc cịn tồn tại trong thực tiễn. Trong cơng trình
nghiên cứu của mình, tác giả cịn đi sâu phân tích những bất cập, vướng mắc từ thực
tiễn áp dụng pháp luật nên đề tài cịn có giá trị tham khảo trong q trình áp dụng
pháp luật tại Tòa án nhân dân các cấp và góp phần hồn thiện những quy định của
pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm
nguồn tài liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên ngành luật và được dùng để kiến
nghị Tòa án nhân dân tối cao tổng kết thực tiễn xét xử để hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật.
8
CHƢƠNG 1
MỘT S DẤU HI U ĐỊNH KHUNG
CỦ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Lý luận và quy định của pháp luật về một s dấu hiệu định khung
của tội mua bán trái phép chất ma túy
Khái niệm chất ma túy
Ma túy, theo gốc Hán – Việt, có nghĩa là “làm mê mẩn”. Chất ma túy ngay
lúc đầu dùng để chỉ các chất có tác dụng gây ngủ, gây mê; sau này khi khoa học
phát triển con người tổng hợp được các chất tự nhiên có khả năng gây nghiện, thì
chất ma túy được hiểu là những chất có tính chất gây nghiện, có khả năng bị lạm
dụng.1 Cho đến nay, các nhà nghiên cứu cũng như các văn bản pháp lý đưa ra nhiều
định nghĩa khác nhau về chất ma túy, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu. Có
trường hợp, khơng cần đưa ra định nghĩa về chất ma túy mà liệt kê ngay các chất
ma túy.
Theo điểm j Điều 1 Công ước Thống nhất về các chất ma túy năm 1961 của
Liên hợp quốc thì “ma túy là bất kỳ chất nào theo bảng I và bảng II kèm theo Công
ước này, dù dưới dạng tự nhiên hay tổng hợp”. Còn theo điểm e Điều 1 Công ước
Các chất hướng thần năm 1971 đã thống nhất “chất hướng thần là bất kỳ chất nào,
tự nhiên hay nhân tạo, hoặc bất kỳ nguyên liệu tự nhiên nào trong các bảng I, II, III
hay IV”. Ngoài ra, điểm n Điều 1 Công ước Liên hợp quốc về chống buôn bán bất
hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần năm 1988 quy định “ma túy có nghĩa
là bất kỳ các chất tự nhiên hay tổng hợp quy định trong các phụ lục II và II Công
ước Thống nhất về các chất ma túy năm 1961, sửa đổi theo Nghị định thư 1972”.
Điểm r Điều 1 Công ước này cũng đã quy định các chất hướng thần có nghĩa là bất
kỳ chất tự nhiên hay tổng hợp nào hoặc bất kỳ nguyên liệu tự nhiên nào có trong
bảng I, II, III và IV của Công ước về các chất hướng thần năm 1971. Như vậy, theo
tinh thần của các cơng ước quốc tế này thì ma túy là các chất tự nhiên hay tổng hợp
được liệt kê theo Công ước năm 1961; chất hướng thần là chất tự nhiên, nhân tạo
hay nguyên liệu tự nhiên được liệt kê theo Cơng ước năm 1971.2
Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (tập III), Nxb. Lao động, thành phố Hồ Chí
Minh, tr.267.
2
Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh (2016), Phòng ngừa một số tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb. Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, tr.1-2.
1
9
Theo khoản 1 Điều 2 Luật phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung
năm 2008) quy định “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được
quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành”. Hiện nay, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 quy định các danh
mục chất ma túy và tiền chất, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 60/2020/NĐCP ngày 29/5/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung danh mục các chất ma túy và
tiền chấp ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm
2018 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất. Vì tính chất
chất gây nghiện và độc hại của chất ma túy, Luật phòng, chống ma túy năm 2000
(sửa đổi, bổ sung năm 2008) đã nghiêm cấm 09 nhóm hành vi, trong đó có hành vi
mua bán chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần. Đồng thời, căn
cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, Nhà nước đã hình sự hóa hành
vi này là tội phạm và được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017).
Khái niệm dấu hiệu định khung của tội mua bán trái phép chất ma túy
Trong hình sự, để xác định một tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải thực
hiện nhiều hoạt động theo những trình tự, thủ tục quy định. Theo đó, hoạt động định
khung có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở chủ yếu để quyết định hình phạt tương
ứng với hành vi phạm tội.3
Định khung hình phạt (Definition Penalty framework) là một hoạt động
trong quá trình áp dụng luật hình sự, được thực hiện trên cơ sở kết quả của hoạt
động định tội và là cơ sở cho việc quyết định hình phạt.
Dấu hiệu định khung là dấu hiệu theo quy định pháp luật phản ánh mức độ
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phù hợp với một khung hình phạt
nhất định và là cơ sở pháp lí để định khung hình phạt đối với hành vi đó. Dấu hiệu
định khung là dấu hiệu phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên hoặc giảm
xuống, có thể phân dấu hiệu định khung thành dấu hiệu định khung tăng nặng và
dấu hiệu định khung giảm nhẹ. Những dấu hiệu định khung có thể là dấu hiệu thuộc
về mặt khách quan như dấu hiệu mức độ hậu quả hoặc thuộc về mặt chủ quan như
tính chất của động cơ hoặc thuộc về nhân thân như dấu hiệu tái phạm nguy hiểm.
Đoàn Tấn Minh (2010), Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong
Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.9.
3
10
Trên cơ sở khái niệm về dấu hiệu định khung, cho thấy dấu hiệu định khung
đối với tội mua bán trái phép chất ma túy là dấu hiệu theo quy định pháp luật phản
ánh mức độ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mua bán trái phép chất ma túy
phù hợp với một khung hình phạt nhất định và là cơ sở pháp lí để định khung hình
phạt đối với hành vi đó.
Quy định về một số dấu hiệu định khung của tội mua bán trái phép chất ma túy
Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định
nhiều dấu hiệu định khung tăng nặng của tội mua bán trái phép chất ma túy. Trong
phạm vi luận văn này, tác giả chỉ phân tích, đánh giá một số dấu hiệu định khung cụ
thể là dấu hiệu phạm tội 02 lần trở lên, đối với 02 người trở lên, có 02 chất ma túy
trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối
lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định các điểm tương ứng:
(i) Phạm tội 02 lần trở lên. Đây là trường hợp đã có từ 02 lần phạm tội trở lên
mà mỗi lần phạm tội đều có đầy đủ yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma
túy, đồng thời trong số các lần mua bán đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm
hình sự hoặc chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Thực tiễn xét xử cho
thấy, khi đã áp dụng dấu hiệu định khung tăng nặng cao hơn so với dấu hiệu định
khung phạm tội 02 lần trở lên thì dấu hiệu này khơng cịn sử dụng để làm tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật
Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Ví dụ: Khoảng năm 2012, N bắt đầu sử dụng ma túy, nguồn ma túy N mua
của một người tên Luân (không rõ họ, địa chỉ). Đến khoảng đầu tháng 5/2019, N
sống chung như vợ chồng với Nguyễn Thị Ngọc Nh. Để có tiền tiêu xài và ma túy
sử dụng, N đã thực hiện hành vi mua ma túy nhiều lần, bán cho nhiều người, cụ thể:
Khoảng cuối tháng 5/2019 đến tháng 8/2019, thông qua những người khác giới
thiệu, N mua ma túy của Đinh Văn Thống 06 lần 08 hộp/10 số ma túy (tương đương
80 gam), giá 6.000.000 đồng/01 hộp, thành tiền 48.000.000 đồng. Khoảng đầu
tháng 9/2019 đến ngày 10/10/2019, N mua ma túy của một người đàn ơng dân tộc
Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh 04 lần 08 lạng (tương đương 800 gam), giá
40.000.000 đồng/01 lạng, thành tiền 320.000.000 đồng và 50 viên ma túy tổng hợp,
giá 150.000 đồng/01 viên, thành tiền 7.500.000 đồng. Số ma túy mua được, N phân
lẻ để sử dụng và bán cho.
11
Tại bản án số 16/2020/HS-ST ngày 12 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân
dân tỉnh An Giang nhận định hành vi của các bị cáo đã phạm vào dấu hiệu “phạm
tội 02 lần trở lên”. Tuy nhiên, đồng thời hành vi của bị cáo đã phạm vào dấu hiệu
định khung tăng nặng đó là mua bán “02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng
hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy
quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này” được quy định tại
điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm
2017 nên đối với trường hợp này áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
(ii) Phạm tội đối với 02 người trở lên. Đây là dấu hiệu được hiểu là trong một
lần phạm tội, người phạm tội đã mua bán trái phép chất ma túy đối với từ 02 người
trở lên. Nội dung này cũng phù hợp với hướng dẫn tại tiểu mục 2.4 Phần I Thông tư
liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP, sửa đổi bổ sung năm
2015 là “phạm tội đối với nhiều người” quy định tại khoản 2 các điều 197, 198 và
200 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được hiểu là trong một lần phạm tội, người
phạm tội đã thực hiện tội phạm đối với từ hai người trở lên”. Tuy nhiên cần lưu ý,
hướng dẫn này đã hết hiệu lực pháp luật theo khoản 4 Điều 156 Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
Ví dụ:4 Trong một lần phạm tội, Nguyễn Văn A vừa bán ma túy cho Nguyễn
Văn C, vừa bán ma túy cho Nguyễn Văn D. Trường hợp này, A bị áp dụng dấu hiệu
“đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Ngày 12-8-2019, Nguyễn Văn A bán ma túy cho Nguyễn Văn C. Ngày 01-102019, A bán ma túy cho Nguyễn Văn D. Trường hợp này, A bị áp dụng dấu hiệu
“phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Ngày 12-4-2020, Nguyễn Văn A vừa bán ma túy cho Nguyễn Văn C, vừa bán
ma túy cho Nguyễn Văn D. Ngày 10-5-2020, A bán ma túy cho Nguyễn Thị H.
Trường hợp này, A bị áp dụng dấu hiệu “phạm tội 02 lần trở lên” và dấu hiệu “đối
với 02 người trở lên” quy định tại điểm b và c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
(iii) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất
đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các
Mục I.3 Văn bản số 89/TANDTC-PC V/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong
xét xử ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân tối cao.
4
12
điểm cụ thể (từ điểm h đến điểm o khoản 2; từ điểm a đến điểm g khoản 3; từ điểm
a đến điểm g khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017)). Đối với trường hợp này cần lưu ý, trường hợp thu được 02 chất ma túy trở
lên, nhưng đều được quy định trong một điểm của điều luật (ví dụ Heroine và
MDMA) thì có cộng tổng các chất ma túy và xử lý theo điểm đó hay xử lý theo
điểm “có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó
tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy”. Theo đó, trường hợp này đã
được quy định tại Điều 4 và hướng dẫn tại Mục 1 Phụ lục của Nghị định số
19/2018/NĐ-CP ngày 02-2-2018, cụ thể: “Trường hợp các chất ma túy đó đều được
quy định trong cùng một điểm của khoản 2, 3, 4 Điều 248; hoặc trong cùng một
điểm của khoản 1, 2, 3, 4 Điều 249; hoặc trong cùng một điểm của khoản 1, 2, 3, 4
Điều 250; hoặc trong cùng một điểm của khoản 2, 3, 4 Điều 251; hoặc trong cùng
một điểm của khoản 1, 2, 3, 4 Điều 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015, thì cộng
khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy lại với nhau và đối chiếu với quy định
về khối lượng hoặc thể tích của nhóm chất ma túy đó trong các khoản của điều luật
được áp dụng để xác định tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy thuộc
trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật được áp dụng.”
Ví dụ: Một người mua bán trái phép 03 gam Heroine, 03 gam Cocaine, 03
gam Methamphetamine, 20 gam Amphetamine và 20 gam MDMA. Tổng khối
lượng các chất ma túy trong trường hợp này được xác định như sau:
Căn cứ quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Tội mua bán trái
phép chất ma túy), thì Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine và
MDMA là các chất ma túy được quy định trong cùng một điểm tại các khoản của
Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (cụ thể gồm: điểm i khoản 2; điểm b khoản
3; điểm b khoản 4 Điều 251), vì vậy sẽ áp dụng quy định tại Điều 4 của Nghị định số
19 để tính tổng khối lượng của Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine
và MDMA như sau:
- Cộng khối lượng của từng chất lại với nhau để xác định tổng khối lượng của
05 chất ma túy Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA là: 03
gam + 03 gam + 03 gam + 20 gam + 20 gam = 49 gam.
- Đối chiếu tổng khối lượng của 05 chất ma túy với quy định tại điểm i khoản
2; hoặc điểm b khoản 3; hoặc điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm
2015, thì trong trường hợp này tổng khối lượng của 05 chất ma túy tương đương với
13
khối lượng Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine hoặc MDMA được
quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Xác định điểm, khoản, điều luật: Như vậy trong trường hợp này tổng khối
lượng của 05 chất ma túy Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine và
MDMA thuộc trường hợp quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình
sự năm 2015, cụ thể: “h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể
tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định
tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này”.
Như vậy, trường hợp thu được 02 chất ma túy trở lên mà đều được quy định
trong một điểm của điều luật thì áp dụng khoản tương ứng “có 02 chất ma túy trở
lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng
hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm…”5
Tóm lại, pháp luật đã quy định khung hình phạt đối với tội mua bán trái phép
chất ma túy. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội khác nhau
sẽ định khung ở những khung hình phạt tương ứng. Điều này cũng có ý nghĩa trong
việc phân hóa trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
1.2. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dấu hiệu định
khung của tội mua bán trái phép chất ma túy
1.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về dấu hiệu định khung của tội mua bán
trái phép chất ma túy
Thứ nhất, về áp dụng đối với dấu hiệu định khung có 02 chất ma túy trở lên
mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc
thể tích chất ma túy chất ma túy quy định tại các điểm tương ứng.
Vấn đề này được đánh giá, phân tích thơng qua vụ việc sau:
Vụ án 1: Quá trình điều tra, Trần Nhựt T khai nhận bắt đầu sử dụng ma túy từ
khoảng tháng 08/2018. Qua sự giới thiệu của bạn bè ngoài xã hội, Trần Nhựt T
quen biết một người tên T (không rõ lai lịch) và biết T bán ma túy. Do vậy, Trần
Nhựt T đã liên hệ với T, mua ma túy của T đế bán lại kiếm lời. Trần Nhựt T đã 2
lần mua ma túy của T, cụ thể như sau:
Mục I.6 Văn bản số 89/TANDTC-PC V/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong
xét xử ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân tối cao.
5
14
Lần thứ 1: Vào khoảng 11 giờ 00 phút ngày 04/8/2018, Trần Nhựt T điện thoại
hỏi mua của T 200g ma túy đá, 30g Ketamine. T cho biết 200g ma túy đá giá
74.000.000 đồng, còn 30g Ketamine giá 21.000.000 đồng; Trần Nhựt T đồng ý mua.
Lần thứ 2: Vào khoảng 21 giờ 00 phút ngày 05/8/2018, có một người tên D
(không rõ lai lịch) điện thoại cho Trần Nhựt T hỏi mua 200g ma túy đá. Trần Nhựt
T báo giá là 87.000.000 đồng, D đồng ý mua. Ngay sau đó, Trần Nhựt T điện thoại
liên hệ với T2 và mua 200g ma túy đá của T2 với giá 74.000.000 đồng. T2 mang
ma túy đến chỗ ở của Trần Nhựt T và giao cho Trần Nhựt T.
Tại Bản án sơ thẩm số 62/2019/HS-ST ngày 19 tháng 3 năm 2019 của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã tuyên xử: Tuyên bố bị cáo Trần Nhựt T phạm
tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251,
điểm g và h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Trần Nhựt T tù chung thân.
Sau đó, bị cáo có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu đề nghị Hội đồng xét xử
bác kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuy nhiên, Luật sư bào chữa cho Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm g khoản 1
Điều 52 và điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo mức án tù
chung thân là nặng cho bị cáo không phù hợp với Nghị quyết số 01/2001/NQHĐTP ngày 15 tháng 3 năm 2001 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 Bộ
luật Hình sự năm 1999 (gọi chung là Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP).
Tại bản án số 402/2019/HS-PT ngày 17/7/2019 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã khơng chấp nhận ý kiến của Luật sư. Cấp phúc
thẩm nhận định, Nghị quyết 01/2001/NQ-HĐTP, trong đó có nội dung căn cứ vào
khối lượng ma túy ở thể rắn mà người phạm tội mua bán để lượng hình. Tuy
nhiên, bị cáo phạm tội sau ngày 01/01/2018 (là ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 có
hiệu lực) nên phải áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 để giải quyết. Đối với việc
xử lý người mua bán trái phép chất ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, Bộ
luật Hình sự năm 2015 quy định có tính nghiêm khắc hơn so với quy đinh của Bộ
luật Hình sự năm 1999. Theo đó, người mua bán (100g Methamphetamine phải bị
xử lý theo khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015). Do vậy, không thể căn cứ
15
Nghị quyết 01/2001/NQ-HĐTP để xử lý đối với bị cáo theo như đề nghị của luật
sư Nguyễn Trung C.
Nhận xét: Tác giả đồng tình với cách nhận định của cấp phúc thẩm, bởi lẽ,
Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP. Theo đó, tại mục 3.2 của Nghị quyết này có
hướng dẫn đối với dấu hiệu “từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các
chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm
từ...”, để xử lý người mua bán trái phép chất ma túy ở thể rắn. Tuy nhiên, giống như
cấp phúc thẩm nhận định, hành vi của bị cáo T thực hiện sau ngày 01/01/2018, tại
điểm h khoản 4 Điều 251 quy định khác so với quy định trước đây. Do đó, việc áp
dụng định khung “có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của
các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy chất ma túy quy
định…” là có căn cứ.
Bất cập: Thông qua vụ việc nêu trên cho thấy, đang có sự mâu thuẫn trong
quan điểm áp dụng pháp luật của người bào chữa cho bị cáo với chủ thể tiến hành
tố tụng. Nguyên nhân dẫn đến sự không thống nhất là do hiện nay chưa có một
văn bản chính thức nào để thay thế, sửa đổi bổ sung Nghị quyết số 01/2001/NQHĐTP dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Một khi việc áp dụng pháp luật không
đúng sẽ làm cho pháp chế không được thực thi đúng bản chất vào những thời điểm
tương ứng.
Thứ hai, xác định dấu hiệu định khung phạm tội “Đối với 02 người trở lên”,
“Đối với 02 người trở lên”. Trong thực tiễn còn có các vụ án áp dụng khác nhau.
Vấn đề này được phân tích, đánh giá thơng qua các vụ án sau đây:
Vụ án 2: Xét xử đối với bị cáo Lê Văn Th.
Tóm tắt nội dung vụ việc: Đào Khương Đ và Lữ Văn Th1 khai nhận: Khoảng
đầu tháng 3/2019, Lữ Văn Th1 được một người tên S (không rõ lai lịch) giới thiệu
số điện thoại của Đào Khương Đ và cho biết Đ bán ma túy đá, cần mua thì liên lạc.
Khoảng trưa ngày 07/4/2019, Lữ Văn Th1 đến nhà Đào Khương Đ thử ma túy rồi
đặt mua 01 hộp ma túy đá khoảng 10g với giá 4.000.000 đồng để sử dụng. Do
khơng có đủ số ma túy để giao cho Lữ Văn Th1, nên Đ đã dẫn Lữ Văn Th1 đến địa
chỉ T, Phường 4, Quận 4 gặp Lê Văn Th để mua ma túy. Tại đây, Lữ Văn Th1 đưa
cho Đào Khương Đ 4.000.000 đồng tiền mua 10g ma túy, còn Đào Khương Đ bỏ
thêm 8.000.000 đồng để mua 02 hộp khoảng 20g ma túy của Lê Văn Th. Sau khi
16
mua được ma túy, Lữ Văn Th1 điều khiển xe máy chở Đ ra về, khi đi đến cầu K thì
bị Cơng an u cầu kiểm tra, Đào Khương Đ ném gói nylon chứa ma túy đang cầm
trên tay xuống đường để phi tang nhưng bị phát hiện thu giữ.
Mở rộng điều tra vụ án, vào lúc 23 giờ ngày 07/4/2019 Công an Quận 4 đã
tiến hành khám xét nơi ở của Lê Văn Th đã thu giữ được một số ma túy như sau:
Tại chân cầu thang trước cửa phịng của Th 01 túi vải màu xanh, bên trong
có: 03 gói nylon chứa tinh thể khơng màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối
lượng 83,2244g, loại Ketamine; 12 gói nylon chứa tinh thể khơng màu, qua giám
định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 348,1168g, loại Methamphetamine; 07 viên
nén hình trịn màu đỏ, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,7078, loại
Methamphetamine; 02 gói nylon chứa chất bột màu trắng, qua giám định là ma túy
ở thể rắn, khối lượng 3,6674g, loại Heroine; 34 viên nén hình trịn màu xanh, qua
giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 10,2508g, loại MDMA; 09 viên nén
hình trịn màu cam, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 2,7248g, loại
MDMA; 01 gói chất bột màu trắng, 234 viên nén hình đầu lâu, 65 viên nén hình
trịn màu nâu.
Thu tại khoảng trống vách tường giữa hai căn nhà T và T1, Phường 4, Quận 4
một túi nylon màu vàng in chữ GUANYINWAN bên trong có 01 bịch nylon chứa
tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 1000,28g, loại
Methamphetamine.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2020/HSST ngày 20 tháng 02 năm 2020
của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định: Căn cứ điểm h khoản 4,
khoản 5 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 40 của Bộ luật hình sự năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Văn Th: Tử hình về tội “Mua bán trái
phép chất ma túy”.
Tại Tòa án cấp phúc thẩm đã xuất hiện tình tiết mới đó là sau khi xét xử sơ
thẩm, ngày 30/03/2020 bị cáo Lê Văn Th đã có đơn tố giác tội phạm về đối tượng
Tấn P là đồng phạm có liên quan trong vụ án.
Tại bản án số 34/2021/HS-PT ngày 14/01/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại thành phố Hồ Chí Minh đã hủy một phần bản án sơ thẩm số 30/2020/HS-ST
ngày 20/02/2020 của Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Lê
Văn Th do có tình tiết mới nêu trên.