Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRỊNH HOÀI PHƢƠNG

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

CHUN NGÀNH
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TRỊNH HỒI PHƢƠNG

THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH : LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
KHĨA 30
TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 04 NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Trịnh Hoài Phƣơng
Lớp: Cao học Luật - Khóa 30



Thành phố Hồ Chí Minh, 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học thực sự của cá nhân tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Võ Thị Kim Oanh. Các số liệu trong
Luận văn có cơ sở rõ ràng, chính xác và trung thực. Kết luận của luận văn chưa từng
được công bố trong các công trình khác.
Tác giả luận văn

Trịnh Hồi Phƣơng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử


KSV

Kiểm sát viên

KSXX

Kiểm sát xét xử

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .................................... 5

1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ... 5
1.1.1. Khái niệm về quyền công tố và thực hành quyền công tố ................................... 5
1.1.1.1. Khái niệm về quyền công tố .......................................................................... 5
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố ............................................................. 9
1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ................. 11
1.2. Đặc điểm của thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
............................................................................................................................................ 13
1.3. Cơ sở quy định thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự ........................................................................................................................................ 15
Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................................. 18
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................................................................................................. 19
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành quyền cơng tố trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm ................................................................................................... 19
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .... 29
2.2.1. Việc thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự ................................... 29
2.2.2. Hạn chế, vướng mắc ............................................................................................ 39
2.2.3. Nguyên nhân ........................................................................................................ 48
Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................................. 51
CHƢƠNG 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ ......................................................................................................................... 52
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ................................................................................... 52
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ............................................................................................................ 54
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ........................................................................... 54
3.2.2. Các giải pháp khác............................................................................................... 58
Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................................. 66

KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 67


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số vụ VKS truy tố và Tòa xét xử
Bảng 2.2: Số vụ án Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của VKS
Bảng 2.3: Số vụ án Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước những địi hỏi, u cầu của cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm hiện
nay, việc nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật là một trong
những nội dung quan trọng được thể hiện ở nhiều nghị quyết của Đảng trong thời gian
qua. Trong đó có hoạt động thực hành quyền cơng tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp
của VKSND nhằm mục đích chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội, không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền
con người, quyền cơng dân trái luật. Với vị trí, vai trị quan trọng đó, Đảng ta đã dành sự
quan tâm lớn đến công tác thực hành quyền công tố của VKSND như: Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 01/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư
pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại
phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác...”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Viện
kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp”. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa
xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp".
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy cơ quan VKSND đã thực hiện tương đối

tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng
hình sự, đạt được những kết quả tích cực, góp phần tích cực vào đấu tranh chống tội
phạm, quyền tự do dân chủ của cơng dân, bảo vệ lợi ích của xã hội, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo
vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo đảm để
mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích của cơng dân
đều được xử lý theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được,
hoạt động thực hiện quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
VKS trong tố tụng hình sự cịn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như: vẫn còn một số vụ án
truy tố oan, sai; việc nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị các tài liệu, nội dung đề cương thẩm vấn
tại phiên tịa của KSV chưa được chú trọng; tình trạng bỏ lọt tội phạm, chất lượng xét
hỏi của KSV còn hạn chế, KSV chưa làm tốt công tác chuẩn bị cho hoạt động xét xử,
chất lượng tranh tụng trong nhiều phiên tòa chưa thực sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, trên tinh thần đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp,
việc nghiên cứu làm rõ về mặt lý luận cũng như thực trạng hoạt động thực hành quyền


2

cơng tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một yêu cầu cần thiết để nâng cao chất
lượng thực hành quyền cơng tố của VKS nói chung và trong giai đoạn xét xử vụ án sơ
thẩm vụ án hình sự nói riêng. Chính vì lẽ đó, tác giả chọn đề tài: “Thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo luật Tố tụng hình sự Việt
Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề quyền cơng tố và thực hành quyền công tố ở nước ta đã và đang được các
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể nêu
một số cơng trình tiêu biểu sau:
- Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Viện

nghiên cứu nhà nước và pháp luật.
- Trần Đình Tú (2008), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử
sơ thẩmcác vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các quận ở thành
phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Bùi Văn Hưng (2006), Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, Luận văn thạc sĩ, Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hồng Thị Ngọc Diệp (2017), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học luật Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Hương (2018), Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sở thẩm án hình sự ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Phan Thị Sa (2018), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự từ thực tiễn huyện Mộ Đức, tỉnh Quãng Ngải, Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
- Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Những giải pháp nâng cao chất lượng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà
Nội.
- TS.Lê Cảm (2001), Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố (nhìn nhận
từ góc độ nhà nước pháp quyền), Tạp chí chuyên ngành Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
- Võ Thị Kim Oanh (2006), Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình
cải cách tư pháp, Hội thảo khoa học, Hà Nội.


3


Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã tập trung vào nội dung thực
hành quyền công tố của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình, đề cập tới
một số khía cạnh của quyền cơng tố và thực hành quyền cơng tố, song chưa có cơng
trình nào nghiên cứu một cách tồn diện và hệ thống về năng lực thực hành quyền công
tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển
những kết quả nghiên cứu nêu trên, luận văn này nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề
năng lực thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật và nghiên
cứu thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
tác giả đánh giá thực trạng cũng như những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành
và đưa ra giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý và
vai trò, trách nhiệm, thẩm quyền của VKSND khi thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
Khảo sát, đánh giá các hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự và chỉ ra những bất cập vướng mắc trong thực
tiễn.
Đề ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền
công tố, năng lực thực hành quyền cơng tố, phân tích các quy định của BLTTHS về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự theo BLTTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật về vấn đề này.
- Phạm vi nghiên cứu: Các quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên cơ sở các quy định của pháp luật, luận

văn nghiên cứu quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về thực hành quyền công
tố của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong thời gian từ năm 2015
đến năm 2020 trên phạm vi toàn quốc.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng


4

và Nhà nước về nhà nước và pháp luật; về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay và đặc
biệt là quan điểm chỉ đạo về đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
- Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về mặt lý luận: Kết quả luận văn có ý nghĩa tương đối về mặt khoa học pháp lý
góp phần hồn thiện một phần lý thuyết về chức năng cơng tố của VKS, đồng thời thấy
được vai trị, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong thời gian vừa qua.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn sẽ là tài liệu có giá trị; những đề xuất, kiến nghị của
luận văn sẽ cung cấp các luận cứ khoa học, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về lý luận thực hành quyền công tố cũng như hoạt
động thực tiễn của cơ quan VKS tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, các đề mục với cơ cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Chương 2: Quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.


5

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
1.1.1. Khái niệm về quyền công tố và thực hành quyền công tố
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Theo từ điển tiếng Việt thì quyền cơng tố là quyền của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền dùng để điều tra, truy tố và buộc tội đối tượng phạm pháp trước Tòa án hay
là quyền truy tố, buộc tội cá nhân, tổ chức trước pháp luật.
“Công tố” theo Đại từ điển tiếng Việt, “cơng” có nghĩa là “thuộc về Nhà nước, tập
thể, trái với tư ”, cịn “tố” có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi của người khác
một cách cơng khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người”, “Cơng tố” có
nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tịa án”.1
Ở nước Việt Nam “quyền cơng tố”, “thực hành quyền công tố” lần đầu tiên được
qui định tại Điều 138 Hiến pháp năm 1980 và được phát triển hóa trong BLTTHS, Luật
tổ chức VKSND. Trong khoa học luật tố tụng hình sự, việc xác định khái niệm quyền
cơng tố và theo đó là thực hành quyền cơng tố có ý nghĩa về lí luận và thực tiễn rất quan
trọng. Giúp cho việc xác định vai trị, vị trí của VKS trong hệ thống cơ quan nhà nước
nói chung và trong các cơ quan tư pháp nói riêng; xác định rõ chức năng của VKS, đặc
biệt là trong tố tụng hình sự. Song, cho đến nay, khi chúng ta đang trong giai đoạn đẩy
mạnh cải cách tư pháp, vẫn chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức thế nào là quyền

công tố, nội dung và phạm vi quyền công tố như thế nào. Về vấn đề này, theo nghiên
cứu của tác giả, thì có nhiều quan điểm về quyền cơng tố nhưng trong đó có một số quan
điểm nổi bật như sau:
Quan điểm thứ nhất, xuất hiện trước khi Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung
năm 2001, quan điểm này đã hợp nhất hóa khái niệm quyền cơng tố với khái niệm kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của VKS. Quan điểm này cho rằng các hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật cũng là thực hành quyền công tố: khi VKS ban hành kiến nghị
yêu cầu các Cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội bị kiểm sát sửa chữa, khắc
phục vi phạm pháp luật của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế cũng là thực hành
quyền công tố. Dựa trên nền tảng chủ đạo chính là quy định của các Điều 137 và 138

1

Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội


6

Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức VKSND các năm 1981 và 1992 2. Biểu hiện tiêu biểu
của quan điểm này quy định tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND 1992 3.
Theo ý kiến của tác giả thì hiểu khái niệm quyền cơng tố theo quan điểm trên là
chưa chính xác, đã đồng nhất hoạt động thực hành quyền công tố với hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật, đồng thời cũng không phù hợp với Hiến pháp. VKS có hai chức
năng chiếu theo Hiến pháp 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001 là: “Thực hành quyền
công tố và Kiểm sát các hoạt động tư pháp” 4. Điều này được tái khẳng định một cách
vững chắc trong Hiến pháp 2013 như sau: khoản 1 Điều 107 quy định: “Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” 5. Sự quy định rõ ràng,
cụ thể hai chức năng của VKSND đã bác bỏ quan điểm này.
Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa
các vụ việc trái với các quy định của pháp luật (chống đối lại ý chí nhà cầm quyền) ra cơ

quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật 6 . Quan điểm này
được đưa vào như là quan điểm chính trong học phần của Trường cao đẳng kiểm sát Hà
Nội và rất hay được nhắc đến trong các văn bản giải đáp các vấn đề vướng mắc, tổng kết
các chuyên đề trước đây của VKSND. Quan điểm này cho rằng: “quyền công tố xuất
hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố
tụng hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội, của các ngành luật, quyền công tố được
mở rộng sang lĩnh vực dân sự, tố tụng dân sự và ngày nay tiếp tục mở rộng sang các lĩnh
vực tố tụng tư pháp khác” 7. Nội dung quyền công tố là tổng kết các biện pháp pháp lý
đặc trưng theo quy định của pháp luật tương đương mà VKS có trách nhiệm thực hiện
trong hoạt động kiểm sát các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Quyền công
tố là một nội dung của hoạt động thực hiện chức năng của VKSND trong lĩnh vực tố
tụng dân sự, TTHS và các lĩnh vực tư pháp khác nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm
pháp luật, hành vi phạm tội đều bị phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất 8.

2
3
4
5
6

Quốc hội (1981), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, ban hành ngày 04/7/1981, Hà Nội.
Quốc hội (1992), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, ban hành ngày 08/10/1992, Hà Nội.
Nxb Lao động - Xã hội (2013), Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, Hà Nội, tr.211.
Quốc hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban hành ngày 28/11/2013, Hà Nội.
Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình cơng tác kiểm sát (tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,

tr.87.
7
TS. Lê Hữu Thể (2008) Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,

Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.25.
8
Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình cơng tác kiểm sát (tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.88.


7

Đặc trưng của TTHS là phát sinh, tồn tại và chấm dứt khơng phụ thuộc vào ý chí
của những người tham gia tố tụng; còn tố tụng dân sự được tiến hành với nguyên tắc đặc
trưng là: quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự nên hoạt động tố tụng này phát
sinh, tồn tại và chấm dứt phụ thuộc vào ý chí của đương sự. Đồng thời, quan điểm nêu
trên đã đồng nhất quyền công tố trong vụ án hình sự với những nhiệm vụ, quyền hạn
khác của VKS trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế,
lao động.
Quan điểm thứ ba cho rằng, “quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho VKSND
nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung sử dụng để truy cứu TNHS và áp
dụng các chế tài hình sự để trừng trị các pháp nhân, người có hành vi vi phạm pháp luật
hình sự”. 9
Theo quan điểm nghiên cứu của tác giả thì quan điểm này chưa chính xác bởi đã
đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc TTHS: tội phạm khi được thực hiện
đều xâm phạm đến lợi ích chung hoặc riêng, vì vậy người phạm tội phải bị truy cứu
TNHS và bị xử lý bằng các chế tài hình sự. Hiểu khái niệm quyền cơng tố như quan
điểm nêu trên, theo tác giả là quá rộng đã dẫn đến sự nhầm lẫn giữa các chức năng cơ
bản trong TTHS: buộc tội, bào chữa và xét xử. Như trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự, cả CQĐT và VKS đều là cơ quan tiến hành tố tụng đối với một cá nhân cụ thể.
Nhưng những hoạt động buộc tội của CQĐT không phải là thực hiện quyền công tố mà
đó chỉ là những hoạt động nhằm hỗ trợ cho cơ quan được Nhà nước giao thực hiện
quyền công tố là VKS thực hiện sự buộc tội đối với cá nhân bị khởi tố.
Quan điểm thứ tư cho rằng, “quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thông

qua cơ quan VKSND thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Đây là
quyền đặc trưng của Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước
ta là cơ quan VKS) để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người phạm tội”.10
Điều đó thể hiện rõ nhất trong các nguyên tắc của TTHS và nguyên tắc của tố tụng
dân sự. Chúng ta đều thấy rằng, do có đối tượng điều chỉnh khác nhau (hành vi có dấu
hiệu tội phạm và các tranh chấp dân sự) nên hoạt động TTHS và hoạt động tố tụng dân
sự được tiến hành theo những nguyên tắc đặc thù khác nhau. Một trong những nguyên
tắc đặc thù của hoạt động TTHS là nguyên tắc công tố (nguyên tắc mọi hoạt động tố
tụng được tiến hành trước hết và chủ yếu vì lợi ích nhà nước, lợi ích chung của toàn xã
hội), nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Người
9

TS. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,

Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.26.
10
TS. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.40.


8

phạm tội có thể là người xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, hoặc cũng có thể
là xâm hại lợi ích của người bị hại. Vì vậy, Nhà nước là người nhân danh xã hội và Toà
án nhân dân sẽ nhân danh Nhà nước để thực hiện việc trừng phạt người phạm tội, giữ
vững an ninh cũng như các mối quan hệ xã hội mà Nhà nước ban hành. Khác hẳn với các
nguyên tắc TTHS; trong hoạt động tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh trước hết và chủ
yếu thuộc về đương sự chứ không phải là nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng.
Các quan điểm trên đều có các cơ sở đề cập đến quyền cơng tố ở các góc độ khác
nhau, tuy nhiên ở góc độ nghiên cứu, quan điểm cá nhân tác giả đồng tình với quan điểm

thứ tư vì quan điểm này phù hợp với kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn chức
năng, nhiệm vụ của VKSND ở Việt Nam. Trong điều kiện cụ thể, quan điểm này giúp ta
xác định được: Quyền công tố là quyền thuộc về Nhà nước, quyền nhân danh Nhà nước
thực hiện nhiệm vụ chức năng riêng biệt ủa Nhà nước giao cho VKS; quyền công tố chỉ
tồn tại trong lĩnh vực tố tụng hình sự; nội dung của quyền cơng tố là truy cứu trách
nhiệm hình sự và buộc tội đối với người phạm tội; quyền công tố gắn liền với một tội
phạm cụ thể; nó bắt đầu từ khi có hành vi phạm tội xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu
lực pháp luật. Trong thực tế quyền công tố bắt đầu từ khi tiếp nhận xử lý tố giác, tin báo
về tội phạm và kết thúc khi Tịa án tun bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về quyền công tố là: “Quyền
công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nhằm truy tố người phạm tội ra trước Tòa
án nhân dân để xét xử và thực hiện việc buộc tội đối với người đó tại phiên tòa đảm bảo
đúng qui định của pháp luật ”.
Xuất phát từ khái niệm quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực nhà nước thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nên thực hành quyền cơng
tố chính là thực hiện hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của BLTTHS để truy cứu
trách nhiệm hình sự người phạm tội ra xét xử trước Tịa án và bảo vệ sự buộc tội đó. Tại
Điều 3 Luật tổ chức VKSND 2014 thì: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.
- Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền cơng tố:
Trong q trình tiếp cận tri thức khoa học pháp lý về quyền công tố, để chứng minh
cho luận điểm của mình, các nhà nghiên cứu đều có những lý luận riêng để đưa ra những
luận điểm về đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền cơng tố. Theo quan điểm của tác
giả đã chọn thì đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố được hiểu như sau:


9


+ Đối tượng của quyền công tố được hiểu là cái mà quyền công tố tác động vào
nhằm đạt được mục đích cụ thể nào đó, ví dụ như để nhằm buộc được tội của người
phạm tội để trừng phạt; để nhằm khôi phục trật tự pháp luật đã bị xâm hại…. Với quan
điểm cho rằng, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện sự buộc tội (thực
hiện việc truy cứu TNHS) đối với người phạm tội, tác giả quan niệm đối tượng của
quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội.11
+ Nội dung của quyền cơng tố: Trên cơ sở quan điểm của mình về quyền công tố
đã được nêu ở trên, tác giả thống nhất với lý luận cho rằng, nội dung của quyền công tố
là sự buộc tội của Nhà nước thông qua cơ quan VKSND đối với người đã thực hiện hành
vi tội phạm (trái pháp luật hình sự).12
Về nội dung thực hành quyền cơng tố, có những ý kiến như nó được hiểu là tổng
hợp tất cả các quyền năng pháp lý do luật định nhằm bảo đảm cho việc mọi hành vi
phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý theo đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan sai. Đây quan niệm gây nhầm lẫn giữa nội dung quyền
công tố với nội dung hoạt động thực hành quyền công tố.
+ Về phạm vi của quyền công tố: Xuất phát từ quan điểm coi quyền công tố là
quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi
phạm tội, tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng, quyền cơng tố chỉ có trong lĩnh vực tố
tụng hình sự 13. Khi có hành vi phạm tội xảy ra, nhiệm vụ của VKSND là phải tiến hành
ngay các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện tội phạm và
người phạm tội, xác định các căn cứ, đặc trưng tội phạm phù hợp để buộc tội.
1.1.1.2 Khái niệm thực hành quyền công tố
Từ điển tiếng Việt ghi nhận “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý thuyết vào
thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện”.14
Như vậy, thực hành quyền cơng tố có thể được hiểu là áp dụng quyền công tố vào
thực tế. Thực hành quyền công tố cũng được hiểu là “Hoạt động của VKS trong việc truy
cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội và buộc tội họ trước Tòa án” 15. Từ điển Luật
học đưa ra khái niệm: “Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền
11


TS. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,

Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.44.
12
TS. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.44.
13

TS. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.46.
14
15

Trung tâm từ điển học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.973.
Nguyễn Hải Phong (chủ biên) (2014), Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều

tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, tr.12.


10

năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử” 16. Như vậy, để đảm bảo
thực hiện quyền công tố trong việc đấu tranh phịng chống tội phạm thì Nhà nước ta ban
hành các văn bản pháp luật, trong đó quy định cụ thể các quyền năng pháp lý thuộc nội
dung quyền công tố. Các quyền năng này được giao cho cơ quan có trách nhiệm thực
hành quyền cơng tố thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người
phạm tội. Từ năm 1960 đến nay, VKSND là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực
hành quyền công tố. Để thực hiện chức năng này, VKSND phải sử dụng tất cả quyền

năng pháp lý về TTHS nhằm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm
tội, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội cũng như không làm oan người vô
tội. Luật Tổ chức VKSND năm 2014 cũng đã có quy định về bản chất của chức năng
này, theo đó, thực hành quyền cơng tố “Là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự
để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ
khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự ”. 17
Tác giả đồng ý với lập luận rằng: “Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung của quyền công tố để thực hiện việc truy cứu
TNHS đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử ”.18
Về phạm vi thực hành quyền công tố: cho đến giai đoạn hiện nay thì phạm vi của
thực hành quyền cơng tố cũng cịn nhiều ý kiến khác nhau do chưa có sự thống nhất về
khái niệm quyền công tố. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, tác giả đồng ý với quan
điểm cho rằng: phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội
phạm và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng nghị, hoặc vụ án
được đình chỉ theo quy định của pháp luật của pháp luật tố tụng hình sự. Trong thực tiễn,
khơng phải tất cả hành vi vi phạm pháp luật hình sự đều được phát hiện và xử lý nên
quyền công tố luôn sẵn sàng được áp dụng đối với những người đã thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật nhưng chưa bị phát hiện và xử lý. Hơn nữa, không phải mọi trường hợp
quyền công tố đều kéo dài đến tận khi Bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo,
kháng nghị mà có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn theo quy định của pháp

16

Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
tr.188.
17
18

Quốc hội (2014), uât tổ chức Viện kiểm sát nhân dân


, Hà Nội, tr.8.

TS. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.57.


11

luật tố tụng hình sự. Khi quyền cơng tố bị triệt tiêu thì cũng có nghĩa là khơng cịn việc
thực hành quyền công tố đối với tội phạm và người phạm tội đó nữa.
Về nội dung của thực hành quyền công tố tác giả cho rằng: nội dung của hoạt động
thực hành quyền công tố là việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng độc lập
nhằm truy cứu TNHS đối với người phạm tội, không để lọt người, lọt tội, được thực hiện
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng.
Về đối tượng của thực hành quyền công tố tác giả cho rằng: đó chính là tội phạm
và người đã thực hiện hành vi phạm tội.
1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Từ điển Tiếng Việt “Xét xử là việc xem xét và xử các vụ án” 19. Đây là một trong
những hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án, các Tòa án là những
cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng xét xử, chức năng này còn
được gọi là chức năng bảo vệ pháp luật có mối quan hệ trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của con người, quyền của công dân.
Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý cho rằng: “ t ử là hoạt động em
t, đánh giá ản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán t về tính chất, mức
độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một pháp quyết tương ứng với
bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc t ử vụ án hình sự, dân sự,
kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính...)”.20
Như vậy, có thể hiểu xét xử là q trình áp dụng các biện pháp cần thiết do luật
định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà CQĐT,

VKS đã thơng qua trước khi chuyển vụ án hình sự sang Tòa án, nhằm loại trừ các những
hậu quả tiêu cực do sơ suất, sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bỏ lọt tội trong ba giai đoạn tố
tụng hình sự trước đó (khởi tố, điều tra và truy tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả
lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ án.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, hiện nay khái niệm xét xử sơ thẩm có nhiều cách
tiếp cận khác nhau. Theo từ điển Luật học giải thích: “Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa
vụ án ra xét xử tại một Tịa án có thẩm quyền” 21. Phạm vi xét xử sơ thẩm bao gồm các
vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao động... đặc trưng của xét xử sơ thẩm là lần đầu
tiên xét xử đối với vụ án, do Tòa án có thẩm quyền xét xử.
Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, là một trong những hoạt động trung tâm
của hoạt động tố tụng hình sự. Hoạt động truy tố của VKS là căn cứ pháp lý cho hoạt
19

Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, tr.148.

20

Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.869.
Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.870.

21


12

động xét xử, bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án khi ban hành đúng pháp
luật và là cơ sở để tiến hành hoạt động thi hành án.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của TTHS trong đó tịa án có thẩm quyền
tiến hành xem xét giải quyết vụ án, ra bản án, trả tự do hoặc các quyết định khác theo
quy định của pháp luật 22. Định nghĩa này chưa làm rõ bản chất của phiên tịa hình sự sơ

thẩm và chưa phân biệt giữa xét xử vụ án hình sự sơ thẩm và xét xử vụ án hình sự phúc
thẩm. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động tố tụng dựa trên chức năng xét xử của
tòa án dưới hình thức phiên tịa xem xét và giải quyết các vụ án mang yếu tố hình sự, có
nghĩa là tòa án trên cơ sở các chứng cứ được kiểm tra tại phiên tòa đưa ra phán quyết về
bị cáo có tội hay khơng có tội cũng như mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo. Đây là
vấn đề cơ bản để phân biệt phiên tịa hình sự sơ thẩm với phiên tịa hình sự phúc thẩm.
Phiên tịa hình sự sơ thẩm chỉ có thể mở ra khi có quyết định truy tố, bản cáo trạng của
VKS và có đủ các điều kiện cần thiết khác để tiến hành phiên tòa. Đối tượng của phiên
tòa sơ thẩm là cáo trạng của VKS đối với bị cáo về việc đã thực hiện hành vi trái pháp
luật hình sự (hành vi tội phạm). Tịa án sơ thẩm có trách nhiệm xem xét những nội dung
cáo buộc này, bên buộc tội có căn cứ và hợp pháp hay không và thể hiện quyết định của
mình trong bản án, phạm vi của xét xử sơ thẩm bắt đầu khi VKS chuyển hồ sơ cùng bản
cáo trạng sang tòa và kết thúc khi Tòa ra bản án, quyết định. Đối tượng xem xét của
phiên tịa hình sự phúc thẩm khơng phải là cáo trạng của VKS mà là chính bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị về tính hợp pháp, tính
có căn cứ và mức độ hình phạt của nó. Từ đó cho thấy xét xử sơ thẩm là một giai đoạn
của tố tụng hình sự có những đặc điểm riêng biệt. Giai đoạn xét xử sơ thẩm có vai trị
quan trọng trong tiến trình tố tụng, có tính chất quyết định so với các giai đoạn tố tụng
trước đó. Nó kết thúc bằng một bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án như đình chỉ vụ
án. Giai đoạn xét xử sơ thẩm được chia thành hai giai đoạn nhỏ là giai đoạn chuẩn bị xét
xử và phiên tòa sơ thẩm. Hoạt động tố tụng hình sự là một tiến trình với nhiều giai đoạn
khác nhau. Mỗi giai đoạn tố tụng có tính độc lập riêng như tính đặc trưng về chủ thể, đặc
trưng về hành vi tố tụng, hình thức tố tụng, thời hạn tố tụng, văn bản kết thúc giai đoạn
tố tụng, nguyên tắc tố tụng… nhưng các giai đoạn tố tụng đều có mối quan hệ hữu cơ,
tác động lẫn nhau, giai đoạn trước làm tiền đề cho giai đoạn sau, giai đoạn sau bổ sung,
kiểm tra giai đoạn trước tạo thành tiến trình tố tụng thống nhất.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt
động Nhà nước do Tồ án thực hiện ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn
diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự được thu thập ở những giai đoạn tố tụng
22


Trường Đại Học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.


13

trước, trên cơ sở đó ra bản án, quyết định để xác định có hành vi phạm tội hay khơng,
người thực hiện hành vi phạm tội và các vấn đề liên quan khác.
Vậy khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm: là việc
VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để buộc tội
người phạm tội tại phiên Tòa ở cấp xét xử thứ nhất, được thực hiện từ khi VKS chuyển
bản cáo trạng cùng hồ sơ vụ án hình sự sang tịa và kết thúc khi Tịa án ra quyết định,
bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo kháng nghị.
1.2. Đặc điểm của thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
Thứ nhất, thực hành quyền cơng tố bao gồm các hành vi và quyết định của người
có thẩm quyền. Chủ thể thực hành quyền cơng tố đối với vụ án hình sự là VKS. Hiến
pháp và pháp luật của Nhà nước ta qua các thời kỳ đều khẳng định trong bộ máy các cơ
quan nhà nước Việt Nam, VKS là cơ quan duy nhất thực hành quyền công tố.
Thứ hai, thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là
sự tiếp nối, kế tục của thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, truy tố nhưng
thể hiện rõ nét và đầy đủ hơn bản chất của quyền công tố là quyền đại diện Nhà nước để
buộc tội người phạm tội trước Tòa và bảo vệ sự buộc tội đó. Một trong những nguyên
tắc đặc thù của hoạt động TTHS là nguyên tắc công tố (nguyên tắc mà mọi hoạt động tố
tụng được tiến hành trước hết và chủ yếu vì lợi ích nhà nước, lợi ích chung của toàn xã
hội), nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng 23. Chính
lợi ích chung của Nhà nước, lợi ích chung của xã hội là động lực làm cho hoạt động tố
tụng hình sự xuất hiện và phát triển từ giai đoạn này đến giai đoạn khác, hoạt động đó
được tiến hành trước hết là để trừng trị kẻ phạm tội đã xâm phạm đến trật tự, an ninh
chung của xã hội, sau đó là lợi ích của cá nhân. Chính vì vậy, thực hành quyền công tố

của VKS được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố cho đến khi có bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật. Mặc dù cùng
hướng tới mục đích chung là đảm bảo việc truy cứu TNHS người phạm tội có căn cứ,
đúng pháp luật nhưng hoạt động thực hành quyền công tố của VKS ở mỗi giai đoạn tố
tụng là khác nhau. Trong giai đoạn điều tra và truy tố, hoạt động thực hành quyền công
tố của VKS là để thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ nhằm đi đến kết luận về việc
có quyết định truy tố người phạm tội ra trước Tịa án hay khơng? Thực hành quyền công
tố của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là sự tiếp nối của giai đoạn
điều tra, truy tố nhưng ở thang bậc cao hơn, không chỉ là hoạt động áp dụng pháp luật
23

Lê Hữu Thể (chủ biên), Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.38.


14

nhằm thực hiện việc buộc tội người phạm tội mà còn là sự bảo vệ quan điểm buộc tội
trước Tòa án. Hơn nữa, chỉ trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mới có sự xuất
hiện đầy đủ của ba chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử. Điều này tạo điều kiện cho
hoạt động thực hành quyền cơng tố của VKS có sự “cọ xát” với hoạt động bào chữa và
được kiểm chứng bởi hoạt động xét xử, qua đó thể hiện rõ nét vai trò của VKS trong
việc đại diện cho Nhà nước để thực hiện việc buộc tội đối với người có hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định. Cũng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, tính tranh tụng, đối kháng giữa bên buộc tội và bên bào chữa được thể hiện công
khai tại phiên tòa. VKS muốn bảo vệ được quan điểm buộc tội của mình thì phải chứng
minh, lập luận một cách cơng khai, có căn cứ, có sức thuyết phục đối với HĐXX, người
tham gia tố tụng và đảm bảo uy tín của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích chung của
tồn xã hội. Quyền cơng tố của Nhà nước nói chung và thực hành quyền cơng tố của

VKS nói riêng vì thế cũng được thể hiện cụ thể và đẩy đủ hơn so với các giai đoạn tố
tụng hình sự trước đó.
Thứ ba, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có nhiệm vụ chứng minh tồn bộ sự
thật vụ án một cách khách quan, toàn diện, bao gồm cả các chứng cứ buộc tội và gỡ tội;
quyết định hạn chế các quyền của công dân như bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp
ngăn chặn khác. Do đó thực hành quyền cơng tố cũng phải ln gắn liền với nhiệm vụ
trên. Mục đích của thực hành quyền cơng tố là nhằm xem xét có quyết định truy cứu
TNHS đối với người phạm tội hay không, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội.
Thứ tư, thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự được tiến hành theo các trình
tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. VKS phải tuyệt đối
tuân thủ, thi hành, sử dụng và áp dụng các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm
vụ của mình (Luật tổ chức VKSND, BLTTHS…) để giải quyết đúng đắn vụ án.
Thứ năm, hoạt động thực hành quyền cơng tố có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt
động kiểm sát điều tra, KSXX (kiểm sát việc tuân theo pháp luật). Tuy nhiên, mặc dù
đều là chức năng của VKS trong tố tụng hình sự nhưng chúng có đối tượng, phạm vi và
nội dung hoạt động khác nhau. Đối tượng của thực hành quyền cơng tố là tội phạm và
người phạm tội cịn đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hành vi, quyết
định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng.
Mục đích và nhiệm vụ của thực hành quyền công tố là làm sáng tỏ tội phạm đã xảy ra để
truy cứu TNHS cịn mục đích, nhiệm vụ của kiểm sát việc tuân theo pháp luật là phát
hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể trong tố tụng hình sự, chủ
thể có liên quan để kịp thời yêu cầu khắc phục vi phạm hoặc yêu cầu phòng ngừa các
nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm. Nội dung hoạt động của thực hành quyền công



×