Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
---------

QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Dân sự
Niên khóa: 2015 - 2019

Giảng viên hướng dẫn: THS. TRẦN THỊ HƯƠNG
Sinh viên thực hiện: PHAN THỊ TRÚC PHƯƠNG
MSSV: 1553801012193
Lớp: Dân sự 40B1

TP. HỒ CHÍ MINH - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan những nội dung trong khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu
của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Ths. Trần Thị Hương, đảm
bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Sinh viên thực hiện
PHAN THỊ TRÚC PHƯƠNG


LỜI CẢM ƠN
Con xin gửi lời cảm ơn đến gia đình đã ln u thương, động viên và ủng hộ con.


Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Ths. Trần Thị Hương – Giảng viên khoa
Luật Dân sự, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Em xin cảm ơn sự tận tâm
của cô đã truyền cho em nguồn động lực lớn. Cô đã chỉ bảo cho em từng chút một trong
việc góp ý, hướng dẫn, phản biện để giúp em hồn thành khóa luận tốt nghiệp một cách
trọn vẹn.
Ngoài ra, em cũng xin cảm ơn quý thầy, cơ trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh. Thầy, cô đã dạy dỗ cho em trong suốt bốn năm qua.
Cuối cùng mình xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tập thể lớp Dân sự 40B1. Cảm ơn
các bạn đã ln ủng hộ và giúp đỡ mình.


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLDS

Bộ Luật Dân sự

Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20.01.1988 của Hội
NQ 01/NQ-HĐTP

đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình

NĐ70/2001/NĐ-CP

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03.10.2001 của Chính

phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hơn nhân và gia đình
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31.12.2014 của

NĐ126/2014/NĐ-CP

Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Hơn nhân và gia đình

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG ............................................................................................................. .6
1.1. Khái niệm .................................................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng ................................................................ 6
1.1.2. Khái niệm quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng ..................................... 6
1.2. Ý nghĩa quy định pháp luật về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng .... 6
1.3. Sự phát triển của pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam qua các giai đoạn
về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng ........................................................... 8
1.3.1. Giai đoạn từ tháng 8.1945 đến trước ngày 13.01.1960 ....................................... 8
1.3.2. Giai đoạn từ tháng 13.01.1960 đến trước ngày 03.01.1987 ................................ 9
1.3.3. Giai đoạn từ tháng 03.01.1987 đến trước ngày 01.01.2001 .............................. 11
1.3.4. Giai đoạn từ tháng 01.01.2001 đến trước ngày 01.01.2015 .............................. 12
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................................. 14
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ

CHỒNG ............................................................................................................................. 15
2.1. Nguyên tắc quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng .................................. 15
2.2. Nội dung quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo quy định của pháp
luật hôn nhân và gia đình hiện hành ........................................................................... 16
2.2.1. Việc định đoạt tài sản chung nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình ..... 16
2.2.2. Việc định đoạt tài sản chung là bất động sản, động sản mà theo pháp luật phải
đăng ký quyền sở hữu, tài sản là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu cho gia đình ........... 19
2.2.3. Việc định đoạt tài sản chung đưa vào kinh doanh ............................................. 21
2.2.4. Việc định đoạt tài sản chung là tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và
động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu,
quyền sử dụng .............................................................................................................. 22
2.2.5. Việc định đoạt tài sản chung là quyền sử dụng đất ........................................... 25
2.2.6. Việc định đoạt tài sản chung trong một số trường hợp khác ............................. 25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................................. 35
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM
HỒN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HƠN NHÂN GIA VÀ ĐÌNH VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ..... 36


3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành về quyền định
đoạt tài sản chung của vợ chồng .................................................................................. 36
3.1.1. Việc định đoạt tài sản chung nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình ..... 37
3.1.2. Việc định đoạt tài sản chung là bất động sản, động sản mà theo pháp luật phải
đăng ký quyền sở hữu, tài sản là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu cho gia đình ........... 40
3.1.3. Việc định đoạt tài sản chung được đưa vào kinh doanh .................................... 46
3.1.4. Việc định đoạt tài sản chung là tài khoản ngân hàng ....................................... 46
3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình hiện
hành về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng ............................................... 47
3.2.1. Việc định đoạt tài sản chung là bất động sản, động sản mà theo pháp luật phải
đăng ký quyền sở hữu, tài sản là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu cho gia đình ........... 47

3.2.2. Việc định đoạt tài sản chung được đưa vào kinh doanh .................................... 48
3.2.3. Việc định đoạt tài sản chung là tài khoản ngân hàng ....................................... 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................................. 51
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 52


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là nền tảng cho sự phát triển của xã hội. Muốn xã hội phát triển thì trước
hết phải xây dựng gia đình bền vững và hạnh phúc. Trong ba mối quan hệ hơn nhân,
huyết thống và ni dưỡng thì quan hệ hơn nhân là cơ sở chủ yếu để hình thành nên gia
đình. Nếu sự u thương, quan tâm chăm sóc giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong
gia đình là điều kiện cần thì tài sản chính là điều kiện đủ để duy trì sự tồn tại và bảo vệ
hạnh phúc của gia đình.
Trong thời kỳ hơn nhân cần tồn tại khối tài sản chung để đảm bảo nhu cầu của gia
đình cũng như để thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Vậy ai có quyền sở hữu khối
tài sản chung này, đến đây đặt ra vấn đề quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng. Quyền
sở hữu tài sản chung của vợ chồng gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản
chung của vợ chồng. Trong đó, quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng được xem là
quyền năng quan trọng nhất và thể hiện rõ nét nhất quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài
sản chung. Chính vì lẽ đó, pháp luật hơn nhân và gia đình đã xây dựng những quy định để
điều chỉnh về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
Luật Hơn nhân và gia đình trước đây đã có quy định về quyền định đoạt tài sản
chung của vợ chồng. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập.
Chẳng hạn, quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 đã gặp phải khó khăn
trong việc xác định tài sản chung có giá trị lớn, tài sản chung là nguồn sống duy nhất của
gia đình để xem xét phải có sự bàn bạc, thỏa thuận của hai vợ chồng hay khơng. Từ đó
dẫn đến trong thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
trong việc giải quyết những tranh chấp liên quan đến việc định đoạt tài sản chung của vợ
chồng. Vì lẽ đó, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 đã ra đời nhằm đưa ra những quy

định mới bổ sung, sửa đổi và phát triển những quy định về quyền định đoạt tài sản chung
của vợ chồng. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết những tranh chấp liên
quan đến việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng cũng như những tranh chấp về tài sản
chung của vợ chồng. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành được áp dụng trong
1


thời gian qua đã tồn tại những bất cập nhất định trong việc định đoạt tài sản chung của vợ
chồng.
Xuất phát từ những lý do trên tác giả đã lựa chọn đề tài “ Quyền định đoạt tài sản
chung của vợ chồng” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng thì hầu như rất ít
cơng trình nghiên cứu độc lập về vấn đề này, đa phần vấn đề quyền định đoạt tài sản
chung của vợ chồng được đề cập trong tổng thể các quyền của chủ sở hữu trong các cơng
trình nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng. Tiêu biểu phải kể đến các cơng trình
nghiên cứu sau:
Nhóm giáo trình và luận văn: Trường Đại học Luật TP. HCM (2016), Giáo trình
Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam (tái bản có sửa đổi, bổ sung), Nhà xuất bản Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam; Lê Vĩnh Châu (2001), Chế độ tài sản của vợ chồng theo
pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường
đại học Luật TP.HCM đã đi sâu nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng;
Nhóm các bài viết trên tạp chí: Bùi Thủy Nguyên, “Quy định tài sản chung của vợ
chồng và hậu quả pháp lý của chế định”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2001; Lê Thị
Mận, “Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan tới tài sản chung có giá trị lớn của vợ
chồng, vướng mắc và hướng hồn thiện”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 12/2010; Nguyễn
Văn Cừ, “Một số nội dung cơ bản về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt
Nam – được kế thừa và phát triển trong dự thảo Luật Hơn nhân và gia đình sửa đổi”, Tạp
chí Tịa án nhân dân, số 08 tháng 04/2014; Đỗ Văn Đại và Nguyễn Nhật Thanh, “Trách
nhiệm liên đới của vợ chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014”, Tạp chí Tịa án

nhân dân, số 05 tháng 03/2015;
Ngồi các cơng trình, bài viết thuộc hai nhóm trên cịn có các khóa luận tốt nghiệp
cử nhân Luật (Đại học Luật TP.HCM) của các tác giả như: Nguyễn Hữu Lê Anh (2012),
Chế độ tài sản của vợ chồng thực trạng và giải pháp hoàn thiện; Phạm Minh Thơ (2013),
Định đoạt tài sản chung của vợ chồng – những vấn đề lý luận và thực tiễn; Nguyễn Thị
2


Vân Anh (2015), Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định; Lê Thị Kim Anh (2015),
Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản chung đối với bên thứ ba; Đinh Thị Thùy Linh
(2016), Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định; Trần Thị Kim Hà (2016), Quyền sở
hữu tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân.
Trong các cơng trình, bài viết nêu trên chủ yếu tập trung vào những quy định cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật hơn nhân và gia đình khi Luật Hơn nhân và gia đình năm
2000 đang cịn hiệu lực. Các cơng trình, bài viết theo pháp luật hơn nhân và gia đình hiện
hành vẫn cịn ít cũng như chưa đi sâu nghiên cứu về vấn đề quyền định đoạt tài sản chung
của vợ chồng. Trên cơ sở kế thừa những cơng trình, bài viết trước tác giả tiếp tục nghiên
cứu chuyên sâu những quy định của pháp luật và liên hệ thực tiễn áp dụng pháp luật hơn
nhân và gia đình hiện hành về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận này tác giả thực hiện nhằm làm rõ những quy định của pháp luật cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật hơn nhân và gia đình hiện hành về quyền định đoạt tài
sản chung của vợ chồng.
Với mục đích trên, trong khóa luận, tác giả tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau
đây:
Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền định đoạt tài sản chung của vợ
chồng;
Thứ hai, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình
hiện hành đồng thời so sánh đối chiếu với pháp luật hơn nhân và gia đình giai đoạn trước
và với pháp luật một số quốc gia trên thế giới về quyền định đoạt tài sản chung của vợ

chồng;
Thứ ba, nêu ra những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật hơn
nhân và gia đình hiện hành về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng;
Thứ tư, đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hơn nhân và gia
đình hiện hành về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: “Quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng”.
Phạm vi nghiên cứu: Tác giả tập trung nghiên cứu về quyền định đoạt tài sản chung
của vợ chồng ở góc độ lý luận và thực tiễn của công dân Việt Nam mà khơng đề cập đến
trường hợp hơn nhân có yếu tố nước ngoài.
5. Nền tảng lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về pháp luật hơn nhân và gia đình.
Trong q trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp lịch sử: Được sử dụng để nghiên cứu về quyền định đoạt tài sản chung
của vợ chồng trong pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam qua các giai đoạn.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng trong quá trình nghiên cứu các vấn
đề lý luận, các quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình về quyền định đoạt tài sản
chung của vợ chồng.
Phương pháp so sánh: Được sử dụng để so sánh, đối chiếu pháp luật hơn nhân và gia
đình hiện hành với pháp luật hơn nhân và gia đình giai đoạn trước và với pháp luật nước
một số quốc gia trên thế giới về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và kết cấu khóa luận
Ý nghĩa khoa học: Các kiến nghị được nêu trong khóa luận nhằm giúp hồn thiện
quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình hiện hành về quyền định đoạt tài sản chung
của vợ chồng. Ngoài ra, đề tài khóa luận cũng có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu

các vấn đề liên quan đến quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng cũng như quyền sở
hữu tài sản chung của vợ chồng trong các cơng trình sau này.

4


Ý nghĩa thực tiễn: Những bất cập, vướng mắc và các kiến nghị được nêu trong khóa
luận cũng có thể được Tịa án vận dụng trong q trình giải quyết các tranh chấp liên quan
đến quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
Khóa luận được kết cấu làm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận
Trong đó phần nội dung được chia làm ba chương:
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ
CHỒNG
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HƠN NHÂN GIA VÀ ĐÌNH VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG

5


CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và
động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai1.

Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân
chia2. Vợ và chồng đều là đồng sở hữu đối với khối tài sản chung trong đó tỷ lệ phần
quyền của mỗi bên vợ, chồng không xác định được khi chưa phân chia. Tài sản chung của
vợ chồng có thể phân chia trên cơ sở thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
1.1.2. Khái niệm quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng
Quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng bao gồm quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt tài sản chung của vợ chồng. Trong đó, dưới góc độ pháp lý quyền định
đoạt tài sản chung của vợ chồng được xem là quyền năng quan trọng và thể hiện rõ nét
nhất quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung. Quyền định đoạt tài sản là quyền
chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản3.
Theo đó, quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng là quyền bán, trao đổi, tặng cho,
cho vay, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu hủy hoặc thực hiện các hình thức định đoạt
khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản chung của vợ chồng.
1.2. Ý nghĩa quy định pháp luật về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng
Trong thời kỳ hôn nhân cần tồn tại khối tài sản chung để đảm bảo nhu cầu của gia
đình cũng như thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Việc định đoạt tài sản chung của
vợ chồng sẽ có ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ chồng và các thành viên khác trong gia
đình. Vì vậy, các quy định pháp luật về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng mang
đến những ý nghĩa rất quan trọng.

1

Điều 105 BLDS năm 2015.
Điều 213 BLDS năm 2015.
3
Điều 192 BLDS năm 2015.
2

6



Thứ nhất, quy định về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng thể hiện
quyền bình đẳng giữa vợ và chồng
Do ảnh hưởng nặng nề tư tưởng trọng nam kinh nữ nên pháp luật thời phong kiến
thừa nhận sự bất bình đẳng nam và nữ. Trong mỗi gia đình thì người chồng, người cha
được xem là trụ cột của gia đình và tất nhiên chỉ có họ mới có quyền định đoạt tài sản.
Trải qua thời gian dài pháp luật dần được hoàn thiện và tiến bộ hơn khi ghi nhận quyền
định đoạt tài sản trong gia đình cho người vợ nhưng thực tế chỉ dừng lại ở mức mang ý
nghĩa hình thức. Sau khi đất nước giành được độc lập thì mốc son của nền lập pháp là
thừa nhận quyền bình đẳng giữa người vợ với người chồng thông qua Sắc lệnh 97/1950.
Các văn bản pháp luật về sau đều có sự kế thừa cơ sở pháp lý quan trọng này và quyền
bình đẳng giữa vợ và chồng ngày được đề cao.
Pháp luật hơn nhân và gia đình qua các giai đoạn đều ghi nhận quyền bình đẳng giữa
vợ và chồng. Quyền bình đẳng của vợ chồng được pháp luật hơn nhân và gia đình cụ thể
hóa trong các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Trong các quan hệ tài sản, quyền bình
đẳng của vợ chồng được thể hiện ở nội dung chủ yếu: Vợ chồng có quyền ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung. Pháp luật hôn nhân và gia đình
hiện hành ghi nhận quyền bình đẳng của vợ chồng thông qua việc định đoạt tài sản chung
của vợ chồng, cụ thể là việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng do sự thỏa thuận, bàn
bạc của hai vợ chồng và phải do cả hai vợ chồng quyết định. Trong trường hợp thiếu sự
thống nhất ý chí của một bên vợ hoặc chồng thì bên cịn lại có quyền u cầu Tịa án
tun giao dịch đó vơ hiệu. Tuy nhiên, đối với những giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của gia đình thì một bên vợ hoặc chồng có quyền xác lập giao dịch mà khơng
phải thơng qua ý kiến của bên vợ, chồng cịn lại. Ngồi ra, người vợ hoặc người chồng
đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân khi không thỏa thuận được. Như vậy trong việc định đoạt tài sản chung của
vợ chồng, quyền bình đẳng của vợ chồng được thể hiện một cách rõ ràng.
Thứ hai, quy định về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích pháp của vợ chồng, các thành viên khác trong gia đình cũng như góp
phần bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba ngay tình

7


Tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất nên vợ và chồng đều là đồng
sở hữu đối với khối tài sản chung trong đó tỷ lệ phần quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng
không xác định được khi chia phân chia, do đó pháp luật quy định vợ chồng có quyền
ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung. Chính vì vậy, trong
việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng pháp luật yêu cầu phải có sự bàn bạc, thỏa
thuận, thống nhất ý chí của hai vợ chồng nhằm bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng và các
thành viên khác trong gia đình.
Thứ ba, quy định về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng đảm bảo nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng là tự do, phụ thuộc vào ý chí của vợ
chồng nhưng cần được thực hiện phù hợp với các quy định của pháp luật. Vợ chồng được
quyền cùng nhau sở hữu khối tài sản chung và cùng có quyền định đoạt đối với tài sản
chung, bởi lẽ, trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng cùng nhau tạo lập khối tài sản chung thì
đương nhiên họ có quyền định đoạt tài sản chung đó. Pháp luật điều chỉnh cách thức thực
hiện quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng vì khối tài sản chung của vợ chồng là tài
sản chung hợp nhất nên vợ và chồng đều là đồng sở hữu của khối tài sản chung. Việc định
đoạt cần được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho
đời sống gia đình thì pháp luật quy định một số trường hợp việc định đoạt tài sản chung
không cần sự thỏa thuận của vợ chồng. Chẳng hạn, pháp luật hôn nhân và gia đình hiện
hành quy định đối với các giao dịch liên quan đến tài sản chung nhằm đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của gia đình do một bên vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện thì được coi là có sự
đồng ý của bên cịn, trừ trường hợp đối với các giao dịch liên quan đến tài sản chung là
bất động sản, động sản mà theo pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu, tài sản là nguồn tạo
ra thu nhập chủ yếu cho gia đình, thì việc định đoạt tài sản chung này phải có sự thỏa
thuận bằng văn bản của vợ chồng4.
1.3. Sự phát triển của pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam qua các giai
đoạn về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng

1.3.1. Giai đoạn từ tháng 08.1945 đến trước ngày 13.01.1960
4

Khoản 1 Điều 13 NĐ126/2014/NĐ-CP.

8


Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Trên cơ sở Hiến pháp đầu tiên ngày 09.11.1946, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đã ban hành sắc lệnh số 97-SL ngày 22.05.1950 nhằm xóa bỏ các quy định lạc hậu,
áp đặt trong hơn nhân và gia đình trước đó đồng thời khẳng định quyền của công dân Việt
Nam về dân sự và hơn nhân và gia đình.
Sắc lệnh 97-SL đã ghi nhận quyền bình đẳng của vợ chồng trong hơn nhân và gia
đình5, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các thành viên trong gia đình thơng qua việc quy
định về các giao dịch làm phương hại đến gia đình thì xác định là vơ hiệu: Khi lập ước mà
có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì
khế ước có thể coi là vơ hiệu6. Những quy định của Sắc lệnh này là cơ sở để dần xóa bỏ
tàn tích của lối tư duy gia trưởng, bất bình đẳng cịn tồn tại trong thời kỳ trước. Tuy
nhiên, Sắc lệnh lại chưa quy định rõ những loại tài sản nào là tài sản chung trong gia đình,
căn cứ nhằm xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng cũng
như quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
1.3.2. Giai đoạn từ tháng 13.01.1960 đến trước ngày 03.01.1987
- Miền Bắc
Ngày 29.12.1959 Quốc hội khóa 1, kỳ họp thứ 11, chính thức thơng qua Luật Hơn
nhân và gia đình năm 1959. Trên tinh thần tiếp tục khẳng định quyền bình đẳng của vợ
chồng về mọi mặt trong gia đình, đặc biệt là quan hệ tài sản của vợ chồng được cụ thể hóa
tại Điều 15 Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959: Vợ và chồng đều có quyền sở hữu,
hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới. Như vậy, vợ
chồng có sự bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản nhưng khối tài

sản của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất mà khơng có sự phân chia giữa tài sản thuộc
sở hữu chung của vợ chồng và tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên vợ, chồng. Luật
Hơn nhân và gia đình năm 1959 với những quy định còn sơ lược nên xem tất cả tài sản
của vợ chồng có được trong thời kỳ hơn nhân là tài sản chung của vợ chồng tức chế độ
cộng toàn tài sản nên việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng còn khá quái khát.
- Miền Nam
5
6

Điều 5 Sắc lệnh số 97-SL ngày 22.05.1950.
Điều 13 Sắc lệnh số 97-SL ngày 22.05.1950.

9


Do điều kiện lịch sử, đất nước lúc bấy giờ Bắc – Nam bị chia cắt, chưa thể thống
nhất nên các quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 chỉ được áp dụng giải
quyết quan hệ tài sản vợ chồng ở miền Bắc. Trong khi đó ở miền Nam, sau năm 1954, Mỹ
và chế độ cũ đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ hơn nhân và
gia đình:
- Luật Gia đình ngày 02.01.1959 dưới chế độ Ngơ Đình Diệm
- Sắc luật 15/64 ngày 23.07.1964
- Bộ Dân luật ngày 20.12.1972 của chính quyền Sài gòn
Những văn bản pháp luật này tuy đã có những quy định bãi bỏ chế độ đa thê, song,
quan hệ vợ chồng vẫn cịn bất bình đẳng, người vợ phụ thuộc vào chồng.
Luật Gia đình tại Điều 43 quy định: Người vợ có đủ năng lực pháp lý và được xếp
ngang hàng với người chồng về mọi phương diện. Luật Gia đình cho phép vợ chồng lập
hơn ước trước khi lập hôn thú để quy định quyền hạn của vợ, chồng và quy định chế độ
tài sản, cho phép phân định tài sản chung và tài sản riêng. Nếu vợ chồng khơng lập hơn
ước thì tất cả tài sản đều đặt dưới chế độ tài sản cộng đồng, tức tài sản chung không phân

biệt trước hay sau khi kết hơn, vợ chồng cùng có quyền quản trị tài sản chung và việc
định đoạt tài sản chung của vợ chồng được thể hiện ở việc mua bán, cầm cố, chuyển
nhượng, cho thuê các bất động sản, trái phiếu, cổ phần thuộc sở hữu chung đều phải có sự
ưng thuận bằng chữ ký của cả hai bên vợ chồng. Tài sản chung phải đài thọ những khoản
nợ của vợ hay chồng đã vay trước khi lập hôn thú, những nợ của vợ hay chồng trong thời
kỳ hôn thú, những nợ do hành vi trái pháp luật của vợ hay chồng7. Nhìn chung, Luật Gia
đình có nhiều điểm tiến bộ khi quy định vợ chồng đều có quyền bình đẳng trong việc định
đoạt tài sản chung của vợ chồng.
Sắc luật 15/64 về căn bản tiếp tục thừa nhận chế độ hôn ước trước hôn nhân của vợ
chồng, tuy nhiên tại Điều 56 của Sắc luật này quy định: Người chồng quản lý tài sản
chung và tài sản riêng của vợ chồng. Từ đó thấy rằng quy định của Sắc luật 15/64 về việc
quản lý và định đoạt tài sản chưa hợp lý khi giao toàn quyền cho người chồng.

7

Điều 45,46,47,49,54 Luật gia đình.

10


Bộ Dân luật vẫn quy định vai trò quan trọng của người chồng trong gia đình:
Người chồng quản trị tài sản cộng đồng và tài sản riêng của hai vợ chồng. Nếu người
chồng khơng có năng lực pháp lý, thất tung, đi xa lâu ngày hay bị cản trở vì một duyên cớ
chánh đáng nào khác, người vợ sẽ thay thế trong quyền quản trị8.
Tóm lại, những quy định về quan hệ tài sản vợ chồng được áp dụng tại miền
Nam trong thời kỳ này là lạc hậu, bất bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối
với tài sản chung trong gia đình, chưa đảm bảo lợi ích và nền tảng cho hôn nhân tự
nguyện tiến bộ.
1.3.3. Giai đoạn từ tháng 03.01.1987 đến trước ngày 01.01.2001
Sau khi đất được đã hồn tồn giải phóng, thống nhất đất nước. Đây là thời điểm

nước ta vừa đi qua chiến tranh và bước vào xây dựng đất nước, bối cảnh kinh tế, xã hội có
nhiều thay đổi dẫn đến những quy định pháp luật hơn nhân và gia đình lúc bấy giờ bộc lộ
nhiều bất cập. Vì lẽ đó, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 đã được ban hành trên cơ sở
kế thừa các quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959, nhưng có sự bổ sung, sửa
đổi cho phù hợp với tình hình thực tế của đất nước và yêu cầu đổi mới của xã hội.
Theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 tại Điều 15 quy định: Tài sản chung
được sử dụng để bảo đảm những nhu cầu chung của gia đình. Vợ, chồng có quyền và
nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc mua, bán, đổi, cho, vay, mượn và những
giao dịch khác có quan hệ đến tài sản mà có giá trị lớn thì phải được sự thỏa thuận của
vợ chồng. Nghĩa là, khi định đoạt tài sản chung có giá trị lớn như: (nhà ở, gia súc chăn
ni như trâu, bị, tư liệu sinh hoạt có giá trị lớn như máy thu hình, tủ lạnh, xe máy v.v…)
thì phải có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng. Nếu là việc mua, bán, cầm cố tài sản mà
pháp luật quy định phải có hợp đồng viết (như việc mua, bán nhà) thì vợ và chồng đều
phải ký vào hợp đồng và nếu chỉ có một bên ký thì phải có sự ủy nhiệm của vợ, chồng
cho mình ký thay9.
Luật hơn nhân và gia đình năm 1986 thừa nhận quyền có tài sản riêng của vợ,
chồng. Từ quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng mà vợ chồng có thể dùng những tài
sản thuộc sở hữu riêng của mình để thanh tốn những món nợ vay trước khi kết hôn hoặc
8
9

Điều 153 Bộ Dân Luật năm 1972.
Mục 3 NQ 01/NQ-HĐTP.

11


vay trong thời kỳ hơn nhân mà khơng phải vì nhu cầu của gia đình. Nếu tài sản riêng
khơng đủ thì thanh tốn bằng phần tài sản của người đó trong tài sản chung hoặc vợ
chồng có thể thỏa thuận thanh tốn bằng tài sản chung.

Nhìn chung, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 ra đời vào những năm đầu của
thời kỳ đổi mới, dựa trên cơ sở kế thừa những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ của chế độ hơn
nhân gia đình mới, lần đầu tiên được thể chế hóa trong Luật Hơn nhân và gia đình năm
1959 đồng thời có sự đổi mới để phù hợp với tình hình thực tế của đất nước và yêu cầu
đặt ra từ xã hội. Tuy nhiên, về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng thì Luật Hơn
nhân và gia đình năm 1896 cũng cịn những hạn chế nhất định như chưa quy định việc
định đoạt tài sản chung để đưa vào đầu tư kinh doanh, trách nhiệm liên đới của vợ chồng
đối với giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của gia đình, chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân,…
1.3.4. Giai đoạn từ tháng 01.01.2001 đến trước ngày 01.01.2015
Cùng với sự phát triển của xã hội, các quan hệ xã hội trong đời sống cũng thể hiện
nhiều sự thay đổi. Pháp luật hơn nhân và gia đình cần kịp thời thay đổi để có thể điều
chỉnh tốt các mối quan hệ xã hội đang ngày càng đa dạng. Vì lẽ đó, Luật Hơn nhân và gia
đình năm 2000 ra đời trên cơ sở kế thừa Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và sửa đổi,
bổ sung một số quy định mới nhằm hoàn thiện pháp luật hơn nhân và gia đình cũng như
đáp ứng địi hỏi từ tình hình thực tế xã hội.
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 tiếp tục ghi nhận vợ, chồng có quyền và nghĩa
vụ ngang nhau trong việc định đoạt tài sản chung. Ngồi ra, Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2000 cịn có bổ sung quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng: Vợ chồng phải
chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực
hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình10. Luật hơn nhân và gia đình năm 2000
khơng quy định thế nào là nhu cầu thiết yếu của gia đình. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu
nhu cầu thiết yếu của gia đình tức là những nhu cầu rất căn bản trong đời sống gia đình,
diễn ra hằng ngày để duy trì gia đình nên khơng thể lúc nào cũng chờ đến khi có sự đồng
thuận của cả hai vợ chồng rồi mới thực hiện. Chính vì vậy, Luật Hơn nhân và gia đình
10

Điều 25 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000.

12



năm 2000 quy định đối với những giao dịch dân sự hợp pháp do người vợ hoặc người
chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì cả hai vợ chồng phải
liên đới chịu trách nhiệm.
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 tiếp tục ghi nhận việc xác lập, thực hiện và
chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn thì cần có sự thỏa
thuận của cả hai vợ chồng. Ngồi ra, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 có bổ sung
trường hợp xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung là
nguồn sống duy nhất của gia đình hay trường hợp dùng tài sản chung để đầu tư kinh
doanh cũng phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận vì việc định đoạt tài sản chung sẽ có
ảnh hưởng đến lợi ích của vợ, chồng và các thành viên trong gia đình, vì vậy Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2000 yêu cầu phải có sự bàn bạc, thỏa thuận và được sự đồng thuận
của cả hai vợ chồng thì mới có thể bảo vệ tốt nhất cho gia đình và bảo đảm sự bình đẳng
trong quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng quy định này của Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2000 đã gặp khó khăn trong việc xác định tài sản chung có giá trị
lớn, tài sản chung là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình.

13


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Với những vấn đề lý luận được tác giả trình bày tại chương 1 như khái niệm tài sản
chung của vợ chồng, khái niệm quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng, ý nghĩa quy
định pháp luật về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng cũng như việc nghiên cứu
pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam qua các giai đoạn về quyền định đoạt tài sản
chung của vợ chồng. Chương 1 đã giúp nhận diện được sự phát triển của pháp luật hơn
nhân và gia đình Việt Nam qua các giai đoạn về vấn đề đang được nghiên cứu. Bên cạnh
đó, chương 1 cung cấp nền kiến thức để phục vụ cho việc nghiên cứu những quy định của
pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng

ở chương 2.

14



×