BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
HUỲNH THỊ NHẬT LIÊU
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM SỐT GIAO DỊCH CĨ KHẢ NĂNG
TƯ LỢI TRONG CƠNG TY CỔ PHẦN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM SỐT GIAO DỊCH CĨ KHẢ NĂNG
TƯ LỢI TRONG CƠNG TY CỔ PHẦN
Chun ngành: Luật Kinh Tế
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380107
Người hướng dẫn khoa học: Pgs. Ts. Hà Thị Thanh Bình
Học viên: Huỳnh Thị Nhật Liêu
Lớp: Cao học Luật, Khóa 28
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của Pgs. Ts. Hà Thị Thanh Bình. Những thơng tin,
số liệu được trình bày trong luận văn là trung thực, có trích dẫn nguồn tham khảo
đầy đủ. Những phân tích, kiến nghị được đề xuất dựa trên q trình tìm hiểu, nghiên
cứu của cá nhân, có sự tham khảo ý kiến của người hướng dẫn khoa học. Kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được cơng bố ở bất kỳ cơng trình
khoa học nào.
Tác giả luận văn
Huỳnh Thị Nhật Liêu
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BKS
Ban kiểm sốt
CTCP
Cơng ty cổ phần
ĐHĐCĐ
Đại hội đồng cổ đông
GĐ
Giám đốc
HĐQT
Hội đồng quản trị
LDN
Luật doanh nghiệp
TGĐ
Tổng Giám đốc
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SỐT GIAO DỊCH CĨ
KHẢ NĂNG TƯ LỢI TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN .........................................6
1.1. Khái niệm giao dịch có khả năng tư lợi trong cơng ty cổ phần ..................6
1.2. Chủ thể của giao dịch có khả năng tư lợi bị kiểm soát..............................10
1.3. Đặc điểm của các giao dịch có khả năng tư lợi trong cơng ty cổ phần ....16
1.4. Lý do kiểm sốt các giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần.....19
1.4.1. Các nguy cơ từ giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần .......19
1.4.2. Ý nghĩa của việc kiểm sốt giao dịch có khả năng tư lợi trong cơng ty cổ
phần ....................................................................................................................22
1.5. Các phương thức kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi trong cơng ty cổ
phần .......................................................................................................................25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................30
CHƯƠNG 2. CÁC NHÓM GIAO DỊCH CÓ KHẢ NĂNG TƯ LỢI CẦN
KIỂM SỐT TRONG CƠNG TY CỔ PHẦN .....................................................31
2.1. Quy định pháp luật về các nhóm giao dịch có khả năng tư lợi trong cơng
ty cổ phần cần kiểm sốt .....................................................................................31
2.1.1. Giao dịch giữa cơng ty với cổ đông, người đại diện theo ủy quyền của cổ
đông là tổ chức sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thơng của cơng ty và
Người có liên quan của họ .................................................................................31
2.1.2. Giao dịch giữa công ty với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc
Tổng Giám đốc và Người có liên quan của họ...................................................32
2.1.3. Giao dịch giữa công ty với doanh nghiệp mà thành viên Hội đồng quản
trị, Kiểm soát viên, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và người quản lý khác của
công ty phải kê khai theo quy định tại Khoản 2 Điều 164 của Luật doanh
nghiệp 2020 ........................................................................................................34
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định nhận diện các nhóm giao dịch có khả
năng tư lợi cần kiểm sốt trong cơng ty cổ phần ..............................................36
2.2.1. Một số hạn chế trong việc nhận diện các giao dịch có khả năng tư lợi
trong cơng ty cổ phần .........................................................................................36
2.2.2. Một số vụ việc điển hình thể hiện sự bất cập trong quy định của pháp luật 39
2.3. Kinh nghiệm của pháp luật một số quốc gia ..............................................41
2.3.1. Nhận diện các giao dịch có khả năng tư lợi cần kiểm soát theo pháp luật
Pháp....................................................................................................................41
2.3.2. Nhận diện các giao dịch có khả năng tư lợi cần kiểm sốt theo pháp luật
Hoa Kỳ ................................................................................................................43
2.3.3. Nhận diện các giao dịch có khả năng tư lợi cần kiểm sốt theo pháp luật
Trung Quốc.........................................................................................................45
2.4. Một số kiến nghị ............................................................................................47
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................50
CHƯƠNG 3. CÁCH THỨC KIỂM SỐT CÁC GIAO DỊCH CĨ KHẢ NĂNG
TƯ LỢI TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ VẤN ĐỀ XỬ LÝ VI PHẠM ......51
3.1. Cách thức kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi trong cơng ty cổ
phần .......................................................................................................................51
3.1.1. Kiểm soát bằng quy định pháp luật ..........................................................51
3.1.2. Kiểm soát bằng các quy định trong Điều lệ tổ chức, hoạt động và quy chế
nội bộ của doanh nghiệp ....................................................................................57
3.2. Hậu quả pháp lý đối với các giao dịch có khả năng tư lợi khơng được xác
lập theo thủ tục luật định và trách nhiệm của các cá nhân có hành vi vi phạm
quy định về thủ tục xác lập giao dịch.................................................................60
3.2.1. Hậu quả pháp lý đối với các giao dịch có khả năng tư lợi khơng được xác
lập theo thủ tục luật định....................................................................................60
3.2.2. Trách nhiệm của các cá nhân có hành vi vi phạm quy định về thủ tục xác
lập hợp đồng, giao dịch. .....................................................................................64
3.3. Kinh nghiệm của pháp luật một số quốc gia ..............................................67
3.3.1. Cách thức thơng qua giao dịch giữa cơng ty với Người có liên quan và xử
lý giao dịch vi phạm theo pháp luật Pháp ..........................................................67
3.3.2. Kinh nghiệm của pháp luật Vương quốc Anh trong kiểm sốt các giao
dịch có khả năng tư lợi và xử lý các giao dịch vi phạm. ....................................71
3.4. Một số kiến nghị ............................................................................................74
3.4.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục xác lập giao dịch .74
3.4.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý giao dịch giữa cơng ty với
Người có liên quan .............................................................................................76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................78
KẾT LUẬN ..............................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh
tế thị trường, mơ hình kinh tế nhiều thành phần hình thành và phát triển đã mang
đến cho nền kinh tế Việt Nam những nét đặc thù rõ rệt và đa dạng. Hệ thống công
ty hiện nay là hệ quả tất yếu từ quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế trong hơn
20 năm qua. Với cấu tạo đa dạng và phức tạp từ quy mô đến lĩnh vực hoạt động, các
loại hình cơng ty đều có những đặc điểm và mang lại những giá trị riêng và không
thể phủ nhận sức ảnh hưởng mạnh mẽ của công ty đối với sự phát triển của nền kinh
tế. Song song đó, nhiệm vụ của Nhà nước là tạo ra hành lang pháp lý chặt chẽ để
đảm bảo và quản lý các công ty này trên cơ sở cơng bằng, bình đẳng cho các đối
tượng tham gia vào cơng ty và vì lợi ích chung của nền kinh tế - xã hội. Có thể thấy
rằng, khi góp vốn vào công ty, các thành viên đã tự nguyện cam kết và vì mục đích
chung là sự phát triển của công ty cũng như sự phát triển của mỗi thành viên gắn
liền với lợi ích chung, mà nền tảng là nguyên tắc tự do kinh doanh và tự do kết ước.
Do đó, để một cơng ty hoạt động hiệu quả và đạt được mục đích chung mà các
thành viên hướng tới địi hỏi các thành viên trong cơng ty phải thiện chí, hợp tác và
thực hiện cơng việc của cơng ty như thực hiện cơng việc của chính bản thân mình.
Vì thế, nhằm hướng đến mục tiêu đó, pháp luật điều chỉnh chung, điều lệ cũng như
các văn bản nội bộ của công ty phải cụ thể và chặt chẽ trong việc kiểm soát các giao
dịch của các thành viên công ty, vừa đảm bảo quyền tự do kinh doanh, vừa đảm bảo
quyền lợi của công ty cũng như các chủ thể khác.
Tuy nhiên, trong quá trình vận hành của công ty, không phải lúc nào các
thành viên trong công ty cũng đặt lợi ích của cơng ty lên hàng đầu, thực hiện đúng
thỏa thuận chung và nghĩa vụ của mình. Thực tế, vấn đề lợi dụng cơng ty để tư lợi
cho bản thân đã và đang diễn ra ngày càng phức tạp, đáng báo động ở Việt Nam.
Xét rằng, kinh doanh vốn là hoạt động đa dạng, phức tạp và các giao dịch diễn ra
hàng ngày, trong khi đó nghĩa vụ trên của các thành viên xuất phát từ nền tảng đạo
đức, tính thiện chí, trung thực, cẩn trọng, tuy nhiên, các nền tảng này đều rất mơ hồ
và khác nhau trong những tình huống khác nhau. Vì vậy, các thành viên trong cơng
ty rất có thể vì lợi ích, mưu cầu cá nhân sẽ bỏ qua lợi ích của công ty, của các chủ
sở hữu khác để mưu lợi riêng cho bản thân thông qua các giao dịch của công ty. Các
giao dịch tư lợi sẽ gây ảnh hưởng và thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, uy tín của
2
công ty cũng như quyền lợi của các thành viên cơng ty và các chủ thể có quyền lợi
liên quan. Ở phạm vi rộng hơn, các giao dịch tư lợi làm thất thoát tài sản của Nhà
nước và xã hội, dẫn đến nhiều hệ quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến môi trường
kinh doanh, đạo đức kinh doanh và nền kinh tế của quốc gia. Do đó, kiểm sốt các
giao dịch có khả năng tư lợi là nhằm bảo vệ lợi ích cho khơng chỉ bản thân cơng ty
và các thành viên cơng ty mà cịn đảm bảo quyền lợi của tất cả các chủ thể tham gia
giao dịch với cơng ty, vì lợi ích chung của quốc gia và tồn xã hội. Đặc biệt, đối với
mơ hình cơng ty cổ phần, là loại hình cơng ty đối vốn với quy mô và tổ chức đa
dạng, phong phú, các cổ đông thường quản lý, điều hành công ty thông qua người
đại diện, người được ủy quyền, bởi vậy, luôn tồn tại nguy cơ người đại diện cố tình
thực hiện các giao dịch xâm hại lợi ích của cơng ty hoặc các giao dịch để vụ lợi cá
nhân. Do đó, việc kiểm sốt các giao dịch này là vơ cùng cần thiết và cấp bách.
Tóm lại, trước q trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, việc
hạn chế và kiểm sốt các giao dịch có khả năng tư lợi đóng vai trị quan trọng trong
việc tạo ra một mơi trường kinh doanh lành mạnh. Vì vậy, việc nghiên cứu những
vấn đề lý luận về nhận diện các giao dịch có khả năng tư lợi trong cơng ty, đặc biệt
là công ty cổ phần cũng như xây dựng, hồn thiện cơ chế kiểm sốt các giao dịch
này thực sự cần thiết. Điều này đáp ứng yêu cầu của quản trị doanh nghiệp, giải
quyết tranh chấp và tạo môi trường kinh doanh lành mạnh. Chính vì vậy, tác giả lựa
chọn đề tài “Quy định pháp luật về kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi trong
cơng ty cổ phần” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kiểm sốt các giao dịch có khả năng tư lợi là vấn đề thu hút nhiều sự quan
tâm của chuyên gia, các nhà nghiên cứu kinh tế, luật học vì thế có khá nhiều các
cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Có thể kể đến một số cơng trình
nghiên cứu tiêu biểu như:
- Về giáo trình, sách, bài viết tham khảo: Giáo trình Luật Thương mại – Phần
chung và thương nhân của PGS.TS Ngô Huy Cương, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội, Giáo trình Luật Kinh tế (2002), Nguyễn Như Phát, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội. Nhìn chung các giáo trình trên đều có những nội dung đề cập đến việc kiểm
sốt các giao dịch tư lợi trong cơng ty cổ phần với những khía cạnh tiếp cận khác
nhau, tuy nhiên các giáo trình thì nghiên cứu tất cả những nội dung cơ bản của luật
nên các vấn đề về kiểm soát các giao dịch tư lợi được đề cập với dung lượng nhỏ. Bài
viết “Kiểm sốt giao dịch giữa cơng ty với người liên quan theo pháp luật của Cộng
3
hòa Pháp và một số gợi mở cho Việt Nam” (2018, tr. 20) của các tác giả Nguyễn Thái
Cường, Lê Nhật Bảo, Nguyễn Hoàng Phước Hạnh, Hội thảo “Giao dịch giữa cơng ty
với chủ sở hữu và người có liên quan” – Khoa Luật Thương mại Trường Đại học
Luật TP. HCM. Bài viết trình bày một số nội dung cơ bản trong pháp luật của Cộng
hịa Pháp về kiểm sốt các giao dịch có nguy cơ tư lợi gây thiệt hại cho công ty. Trên
cơ sở so sánh với pháp luật Việt Nam, các tác giả đề xuất một số vấn đề mang tính
gợi mở mà Việt Nam có thể học tập như: nhận diện giao dịch cần kiểm soát, cơ chế
thơng qua xem xét lại giao dịch có nguy cơ tư lợi sau khi được thực hiện và vấn đề
đại diện cho công ty để khởi kiện những người tư lợi gây thiệt hại cho cơng ty.
- Về khóa luận, luận văn, luận án, có các cơng trình sau đây:
+ Luận án Tiến sĩ (2015) “Hoàn thiện pháp luật về kiểm sốt giao dịch giữa
cơng ty và người có liên quan” (Nguyễn Thị Vân Anh – Trường Đại học Luật Hà
Nội). Nội dung chính của Luận án là nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống
lý luận về pháp luật kiểm sốt giao dịch giữa cơng ty và người có liên quan, đánh
giá thực trạng áp dụng pháp luật và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm
sốt giao dịch giữa cơng ty và người có liên quan.
+ Luận văn Thạc sĩ (2011) “Kiểm sốt giao dịch tư lợi của người quản lý
công ty theo Luật Doanh nghiệp 2005” (Lý Đăng Thư - Trường Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh). Luận văn chủ yếu nghiên cứu và tiếp cận vấn đề kiểm sốt giao dịch
có khả năng tư lợi trong phạm vi Luật doanh nghiệp 2005.
+ Luận văn Thạc sĩ (2014) (Nguyễn Thanh Lý) “Kiểm sốt các giao dịch có
khả năng tư lợi trong cơng ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam”. Luận văn làm sáng
tỏ những vấn đề lý luận về giao dịch có khả năng tư lợi và pháp luật về kiểm sốt
các giao dịch có khả năng tư lợi trong cơng ty cổ phần; phân tích, đánh giá thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát các giao dịch có khả
năng tư lợi trong cơng ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay; để từ đó đề xuất các định
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sốt các giao dịch có khả năng tư lợi
trong công ty cổ phần ở Việt Nam trong thời gian tới.
+ Và một số cơng trình nghiên cứu khác như: Luận văn Thạc sĩ “Một số vấn
đề pháp lý về giao dịch trục lợi” của tác giả Vũ Thị Thanh Tâm; Luận văn Thạc sĩ
“Kiểm soát các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2005” của tác giả Ngô Thị Bích Phương…
Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu và những bài viết đều tiếp cận vấn
đề kiểm soát giao dịch tư lợi ở góc độ chung nhất cho nhiều mơ hình cơng ty hoặc
4
chỉ nghiên cứu trong phạm vi hẹp là Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp
2005. Riêng đối với mơ hình cơng ty cổ phần, có rất ít cơng trình nghiên cứu về
việc kiểm sốt giao dịch tư lợi trong mơ hình cơng ty này cũng như nghiên cứu,
đánh giá các quy định liên quan ở các nước trên thế giới để từ đó định hướng, kiến
nghị giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật Việt Nam. Hơn nữa, sau khi Luật doanh
nghiệp 2020 có hiệu lực thì chưa có cơng trình nghiên cứu nào phân tích, đánh giá
các quy định của Luật doanh nghiệp 2020 về vấn đề kiểm soát các giao dịch có khả
năng tư lợi trong cơng ty cổ phần. Do đó, luận văn sẽ là cơng trình nghiên cứu đầu
tiên phân tích các quy định của Luật doanh nghiệp 2020 về việc kiểm sốt các giao
dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần. Đồng thời, luận văn cũng thể hiện
quan điểm, góc nhìn khác về khái niệm giao dịch có khả năng tư lợi, từ đó xác định
rõ các nhóm giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cô phần để và các cách thức
kiểm soát các loại giao dịch này, bên cạnh đó, tại mỗi chương của luận văn, tác giả
đều phân tích, đánh giá các quy định liên quan của các quốc gia trên thế giới để từ
đó đề xuất những giải pháp cho quy định của pháp luật Việt Nam
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về giao dịch có khả năng tư lợi và quy định pháp luật về kiểm soát các giao dịch có
khả năng tư lợi trong cơng ty cổ phần; phân tích, đánh giá, so sánh quy định của
Luật doanh nghiệp 2020 và Luật doanh nghiệp 2014 và thực tiễn áp dụng pháp luật
về kiểm sốt các giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần ở Việt Nam
hiện nay; tìm hiểu, phân tích, so sánh với quy định một số nước trên thế giới để từ
đó đề xuất các định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam
về kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi trong cơng ty cổ phần.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
a. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung vào những vấn đề pháp lý liên
quan đến kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi trong cơng ty cổ phần. Cụ thể,
luận văn nghiên cứu về các giao dịch có khả năng tư lợi là đối tượng bị kiểm soát và
các biện pháp nhằm kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi được quy định định
trong Luật doanh nghiệp 2020.
b. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận văn vận dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác-Lênin.
5
Đây là phương pháp khoa học vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận văn để đánh
giá khách quan sự thể hiện của các quy định pháp luật về giao dịch có khả năng tư
lợi nói riêng và vấn đề về quản trị cơng ty nói chung.
Về phương pháp nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp
thể hiện thơng qua việc phân tích các quy định pháp luật doanh nghiệp, các văn bản
có liên quan cũng như quy định của các quốc gia trên thế giới; phương pháp nghiên
cứu vụ việc điển hình thể hiện qua việc nghiên cứu, đánh giá các vụ việc, vụ án thực
tế. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng phương pháp so sánh để làm rõ các vấn đề liên
quan đến kiểm sốt các giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần giữa các
quy định của pháp luật Việt Nam trong từng thời kỳ, giữa các văn bản pháp luật và
giữa quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới
như Pháp, Hòa Kỳ, Trung Quốc, Anh…qua đó để đánh giá sự tương đồng, khác biệt
của Việt Nam và quốc tế làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp khắc phục những
bất cập của pháp luật hiện nay về kiểm soát giao dịch tư lợi trong công ty cổ phần.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn vì
đây là một trong những cơng trình nghiên cứu đầu tiên có hệ thống ở cấp độ Luận
văn thạc sĩ luật học về kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi trong cơng ty cổ phần
theo quy định của Luật doanh nghiệp 2020. Luận văn đã giải quyết nhiều vấn đề
quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan đến kiểm soát giao dịch có khả năng tư
lợi trong cơng ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp 2020. Từ đó phân
tích rõ những hạn chế, bất cập và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định,
nâng cao hiệu quả kiểm sốt các giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần
hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được bố cục thành ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi
trong cơng ty cổ phần.
Chương 2. Các nhóm giao dịch có khả năng tư lợi cần kiểm sốt trong cơng
ty cổ phần.
Chương 3. Cách thức kiểm sốt các giao dịch có khả năng tư lợi trong công
ty cổ phần và vấn đề xử lý vi phạm.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT GIAO DỊCH
CĨ KHẢ NĂNG TƯ LỢI TRONG CƠNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái niệm giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần
Trong xã hội, khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về vốn và phân tán rủi
ro là động cơ thúc đẩy các nhà đầu tư liên kết với nhau để tiến hành hoạt động kinh
doanh. Sự ra đời của công ty là kết quả của nguyên tắc tự do kinh doanh, tự do khế ước
và tự do lập hội. Tùy theo tính chất liên kết, chế độ trách nhiệm của các thành viên mà
có thể phân loại công ty thành công ty đối nhân và cơng ty đối vốn. Trong đó, CTCP là
loại hình cơng ty ra đời muộn nhất và là điển hình của công ty đối vốn. Để tồn tại và
phát triển, công ty phải tham gia các giao dịch với các chủ thể khác nhau trong xã hội,
có thể là các giao dịch trong lĩnh vực kinh tế, cũng có thể là các giao dịch trong lĩnh
vực dân sự, lao động1,…Tuy nhiên, cơng ty với tính chất là một tổ chức vì vậy cơng ty
khơng thể tự mình thiết lập các giao dịch mà phải thông qua những người được trao
quyền quản lý, điều hành, thay mặt công ty tham gia các giao dịch với các chủ thể
khác. Những người quản lý, điều hành là những người nắm giữ chức vụ quyền hạn
nhất định trong cơng ty, dó đó họ hồn tồn có thể lạm dung chức vụ quyền hạn, dùng
quyền năng của mình để tác động vào các giao dịch mà họ có liên quan để đem lại lợi
ích cho bản thân hoặc cho bất kỳ chủ thể nào liên quan đến họ. Từ đó hình thành nên
các loại giao dịch có khả năng tư lợi gây thiệt hại cho cơng ty2.
Hiện nay, trên thế giới, giao dịch có khả năng tư lợi thường được nhắc đến
với rất nhiều thuật ngữ khác nhau như “self-dealing”, “self-interested transaction”,
“tunneling”. Tuy có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng nội hàm của khái niệm giao
dịch có khả năng tư lợi giữa các thuật ngữ này khơng loại trừ nhau. Có nhiều cách
hiểu và quan điểm khác nhau về khái niệm giao dịch có khả năng tư lợi như sau:
- Từ điển Black’s Law Dictionnary tái bản lần thứ 9 định nghĩa giao dịch tư
lợi (self-dealing transactions) là giao dịch mà người tham gia giao dịch để thu lợi
cho bản thân thay vì làm lợi cho người mà mình đang nhận nghĩa vụ ủy thác3. Định
nghĩa giao dịch có khả năng tư lợi của Black’s Law Dictionnary 9th ed là đề cập
Nguyễn Ngọc Bích, Nguyên Đình Cung (2009), Cơng ty vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật doanh nghiệp
năm 2005, Nxb. Tri thức, tr.326, 324.
2
Nguyễn Như Phát (2002), Giáo trình Luật Kinh tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 32.
3
Black’s Law Dictionary Second Pocket Edition (2001), West Publishing CO, USA, https://www.
slideshare.net/husixocu2148/2001-blacks-law-dictionary-second-pocket-edition-pdf-by-bryan-a-garner-westpublishing-company, truy cập 20/09/2020.
1
7
đến bản chất của giao dịch tư lợi, đó là giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người
tham gia giao dịch mà khơng vì lợi ích của người mà người tham gia giao dịch đã
nhận nghĩa vụ ủy thác.
- Theo Bộ quy tắc của OECD về quản trị cơng ty, giao dịch có khả năng tư
lợi (self-dealing) là giao dịch có hành vi lạm dụng kinh doanh để tư lợi (abusive
self-dealing), hành vi này xảy ra khi các cá nhân có quan hệ thân thiết với cơng ty,
bao gồm cả cổ đơng nắm quyền kiểm sốt, lợi dụng các quan hệ đó gây tổn hại cho
cơng ty và nhà đầu tư. Ở nghĩa đó, giao dịch có khả năng tư lợi bao gồm cả giao
dịch nội gián (insider trading)4.
Theo tác giả cần phân biệt khái niệm giao dịch có khả năng tư lợi với giao
dịch nội gián, tuy rằng giao dịch nội gián cũng là một dạng của giao dịch tư lợi,
nhưng hành vi này thường được thực hiện bởi một người có khả năng tiếp cận các
thơng tin mật (thường là người quản lý hoặc cổ đông), chưa được công bố trong
công ty. Thực tế, giao dịch nội gián thường được dùng để chỉ những hoạt động mua
bán chứng khoán nhằm trục lợi bằng việc sử dụng các thơng tin bí mật đó. Có thể
thấy chủ thể của giao dịch nội gián có thể là cổ đơng, người quản lý với bên thứ ba
(bên mua cổ phần); trong khi đó, giao dịch có khả năng tư lợi cần kiểm soát trong
CTCP là giao dịch mà một bên tham gia giao dịch phải là công ty.
- John H.Parrar và Susan Watson của Đại học Aucklan, Newzeland đưa ra
khái niệm rất ngắn gọn: giao dịch có khả năng tư lợi về cơ bản là việc tự bán tài sản
của người ủy thác cho chính mình5. Khái niệm này chỉ xem xét giao dịch có khả
năng tư lợi ở khía cạnh vật chất mà chưa xem xét đến yếu tố lỗi cũng như những đối
tượng khác có liên quan đến người được ủy thác.
- Nghiên cứu của John H. Farrar and Professor Susan Watson (2012), Self
dealing, fair dealing and related party transactions – History, Policy and Reform,
(Giao dịch tư lợi, giao dịch cơng bằng, giao dịch với người có liên quan – Lịch sử,
chính sách, giải pháp) đưa ra quan điểm về giao dịch tư lợi, giao dịch công bằng,
giao dịch với bên có liên quan của cơng ty6. Theo đó, giao dịch tư lợi (self-dealing
transaction) về cơ bản là giao dịch có sự dịch chuyển lợi ích của chủ sở hữu sang
cho bản thân người được chủ sở hữu ủy thác thực hiện giao dịch. Để làm rõ hơn
The OECD, The OECD Principles of Corporate, www.oecd.org, truy cập 28/09/2020
John H. Farrar and Professor Susan Watson (2012), Self dealing, fair dealing and related party transactions –
History, Policy and Reform, truy cập 28/09/2020
6
John H. Farrar and Professor Susan Watson (2012), Self dealing, fair dealing and related party transactions –
History, Policy and Reform, truy cập 28/09/2020
4
5
8
khái niệm giao dịch có khả năng tư lợi, tác giả đưa ra định nghĩa về giao dịch công
bằng và giao dịch với người có liên quan: (1) Giao dịch cơng bằng (fair dealing)
bao gồm cả các giao dịch có khả năng tư lợi được thực hiện trên cơ sở cơng khai
đầy đủ, khơng vì lợi thế cá nhân, đảm bảo công bằng và trung thực; (2) Giao dịch
với người có liên quan (related party transaction) có thể mở rộng bao gồm các hành
vi tăng lợi cho GĐ, lợi dụng cơ hội kinh doanh của công ty, và việc thuận lợi trong
mua bán cổ phần đối với các mối quan hệ nhạy cảm của GĐ.
- Nghiên cứu của Zohar Goshen (2003), The Efficiency of Controlling
Corporate Self - Dealing: Theory Meets Reality (Hiệu quả kiểm sốt giao dịch tư
lợi trong cơng ty: thuyết ứng dụng) cho rằng: Giao dịch có khả năng tư lợi là giao
dịch phát sinh khi có liên quan đến vấn đề xung đột lợi ích7. Về mặt chủ thể, nghiên
cứu cho thấy đây là loại giao dịch phức tạp, có thể tìm thấy các giao dịch này trong
hoạt động của cơng ty với nhóm cổ đơng hay chỉ với một cổ đông, quan hệ của
công ty và một GĐ hay giữa công ty với bất kỳ một nhân viên nào của cơng ty,
thậm chí là giao dịch của cơng ty với người có liên quan. Định nghĩa của Giáo sư
Zohar Goshen bao hàm các chủ thể thực hiện giao dịch tư lợi cũng như nguyên
nhân dẫn đến sự hình thành giao dịch tư lợi.
- Bài viết cuả tác giả Lê Đình Vinh trên Tạp chí Luật học số 1/2004 đưa ra
khái niệm Giao dịch tư lợi là những giao dịch có sự tham gia của cơng ty mà có
nguy cơ bị trục lợi bởi một hoặc một số nhóm thành viên hay cổ đơng của cơng ty.
Sở dĩ các giao dịch này chứa đựng nguy cơ bị trục lợi vì những người quản lý, điều
hành hoặc những cổ đơng lớn trong cơng ty có thể trực tiếp hoăc gián tiếp lợi dung
sự ảnh hưởng địa vị của họ để chi phối giao dịch nhằm phục vụ lợi ích của bản thân
hoặc gia đình. Tác giả cũng chỉ ra 2 nhóm giao dịch thường có nguy cơ bị trục lợi
bao gồm: (i) giao dịch có giá trị lớn và (ii) giao dịch được ký kết giữa công ty với
người quản lý công ty hoặc với những người liên quan với người quản lý công ty.
Tác giả đồng ý một phần quan điểm trên của tác giả Lê Đình Vinh, bởi lẽ
nhìn từ bản chất của giao dịch tư lợi thì các giao dịch thuộc nhóm (ii) chắc chắn
phải được xem xét, tuy nhiên các giao dịch thuộc nhóm (i) thì khơng có đủ cơ sở để
cho rằng chúng tiềm ẩn khả năng tư lợi. Tính chất tư lợi chỉ có thể tồn tại hoặc
khơng tồn tại chứ khơng thể xuất hiện vì giá trị của giao dịch tăng lên. Giá trị của
giao dịch, thực chất chỉ ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng của hậu quả của giao
7
Zohar Goshen (2003), The Efficiency of Controlling Corporate Self-Dealing: Theory Meets Reality. https://www.
google.com/?gws_rd=ssl#q=control+value+transactions++contr ol+self-interest+transaction, truy cập 28/09/2020
9
dịch tư lợi. Theo LDN, các nhóm giao dịch thuộc nhóm (i) vẫn bị kiểm sốt và
thuộc nhóm các giao dịch phải được sự chấp thuận của ĐHĐCĐ/ HĐQT bởi vì đây
là các giao dịch có giá trị lớn, kết quả của giao dịch ảnh hưởng đến lợi nhuận, hoạt
động kinh doanh của cơng ty và chính các chủ sở hữu cơng ty là người sẽ phải chịu
trách nhiệm chính bằng phần sở hữu của mình trong cơng ty, vì thế, các chủ sở hữu
của cơng ty phải có ý kiến đồng ý hay không đồng với các giao dịch đó. Bên cạnh
đó, việc kiểm sốt các giao dịch giá trị lớn còn thể hiện sự phân cấp trong việc định
đoạt tài sản của cơng ty, nhằm mục đích ngăn ngừa, giảm thiểu các rủi ro phát sinh
từ giao dịch cũng như đánh giá hiệu quả mà giao dịch mang lại.
Tư lợi trong các giao dịch này chính là những quyền lợi mà cá nhân, tổ chức
muốn đạt được thông qua các giao dịch. “Quyền lợi” ở đây không chỉ là quyền lợi
về tài sản mà còn bao gồm cả những quyền lợi phi vật chất: quyền lợi về tinh thần;
quyền lợi về địa vị; quyền lợi trong các mối quan hệ… Những quyền lợi này có thể
đem đến trực tiếp cho bản thân người quản lý, điều hành của cơng ty hưởng, hoặc
có thể gián tiếp cho bất kỳ một người thứ ba nào hưởng. Từ cách hiểu đó, có thể
thấy rằng giao dịch có khả năng tư lợi là nhóm các giao dịch đặc biệt, có liên quan
lợi ích đến người quản lý, điều hành hoặc những người có khả năng chi phối đến
các giao dịch trong cơng ty và từ mối liên quan đó, họ dễ dàng thực hiện các cách
thức để trục lợi từ giao dịch.
Như vậy, dù có nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau về giao dịch có khả
năng tư lợi, nhưng tựu trung lại, khái niệm về giao dịch có khả năng tư lợi hàm
chứa ba yếu tố cơ bản: (1) một bên tham gia giao dịch là cơng ty và có sự dịch
chuyển lợi ích của cơng ty sang một chủ thể khác; (2) sự lạm dụng vị thế để tư lợi;
(3) có mối liên quan giữa người quản lý, cổ đơng hoặc những chủ thể khác có liên
quan với người quản lý, cổ đông với giao dịch.
Từ các yếu tố cơ bản trên, tóm lại, giao dịch có khả năng tư lợi (self-dealing
transaction) là giao dịch mà một bên chủ thể của giao dịch là công ty, một bên chủ
thể cịn lại là cổ đơng, người quản lý hoặc cá nhân, tổ chức có liên quan đến cổ
đơng, người quản lý, gọi chung là Người có liên quan với cơng ty hay nói cách
khác, giao dịch có khả năng tư lợi là giao dịch giữa cơng ty và Người có liên quan
với cơng ty. Những Người có liên quan là những người nắm quyền quản lý hoặc có
khả năng chi phối đến giao dịch hoặc có ảnh hưởng đến việc ra quyết định đối với
giao dịch. Các giao dịch này tiềm ẩn khả năng tư lợi vì vai trị ‘hai mang” của người
ký kết: (i) chủ thể này vừa đại diện hoặc chi phối cơng ty, điều này địi hỏi người ký
10
kết phải là những người nắm giữ vị trí quản lý trong cơng ty hoặc các cổ đơng lớn
để có thể tự mình hoặc tạo ra ảnh hưởng đáng kể đến quyết định xác lập giao dịch;
(ii) vừa có lợi ích từ bên tham gia giao dịch với công ty, có thể là lợi ích trực tiếp
khi chính bản thân chủ thể đó ký kết với cơng ty hoặc gián tiếp, thông qua các bên
liên quan hoặc các công ty mà họ có lợi ích.
1.2. Chủ thể của giao dịch có khả năng tư lợi bị kiểm sốt
Như đã phân tích ở trên, giao dịch có khả năng tư lợi là giao dịch giữa cơng
ty với Người có liên quan. Do đó, có thể xác định chủ thể của giao dịch có khả năng
tư lợi bị kiểm sốt là Người có liên quan với cơng ty. Việc nhận diện Người có liên
quan được các học giả trên thế giới nhận định là vấn đề khá phức tạp. Joseph A. Mc
Cahery và Erik P.M Vemmeulen đã nêu trong bài viết “Khủng hoảng trong quản trị
doanh nghiệp và giao dịch với người có liên quan: chương trình nghị sự sau thất
bại cơng ty Parmalat” như sau: nhận diện Người có liên quan phải có được nguyên
tắc chung hơn là liệt kê các cá nhân, thể nhân có liên quan8. Theo Chuẩn mực kế
tốn quốc tế (IAS) 26 thì một bên được coi là Người có liên quan nếu nắm quyền
kiểm sốt hoặc có ảnh hưởng đáng kể hoặc có quyền kiểm sốt trong việc đưa ra
các quyết định về tài chính và hoạt động của công ty9. Nguyên tắc quản trị công ty
của OECD đã có cách tiếp cận tương tự khi cho rằng bên có liên quan bao gồm các
chủ thể có thể kiểm sốt hoặc chịu sự kiểm sốt chung, thành viên Ban Giám đốc,
cổ đông lớn, thành viên gia đình của họ và những người nắm giữ vị trí quản lý chủ
chốt10. Theo Bộ quy tắc về quản trị công ty của OECD định nghĩa: “Khái niệm
Người liên quan phải có nội hàm đủ rộng để có thể bao hàm các loại giao dịch tiềm
ẩn khả năng hiện hữu lợi dụng giao dịch, không dễ bị vô hiệu và có hiệu lực thi
hành” và “các bên liên quan bao gồm các đơn vị cùng chịu một sự kiểm soát, các cổ
đông lớn kể cả các thành viên trong gia đình họ, các cơng ty liên kết và những
người nắm giữ các vị trí quản lý chủ chốt”11.
Có thể thấy, các định nghĩa về Người có liên quan nêu trên có nhiều điểm tương
đồng, từ đó có thể đưa ra khái niệm chung về Người có liên quan như sau: “Người có
Joseph A. Mc Cahery và Erik P.M Vermuelen, “Corporate Governance Crises and Related Party
Transaction: A Post – Parmalat Agenda”, tr. 216, truy cập 20/09/2020
9
Chuẩn mực kế toán số 26, Thông tin về các bên liên quan, (Ban hành và công bố theo Quyết định số
34/2003/QĐ-BTC ngày 30 tháng 12 năm 2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính)
10
“Các nguyên tắc quản trị công ty của OECD”, />45034702.pdf, truy cập 28/09/2020
11
OECD, Guide on fighting abusive related party transaction, 2009, />corporategovernanceprinciples/43626507.pdf, truy cập 28/09/2020
8
11
liên quan” là cá nhân, tổ chức có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với công ty trên
cơ sở góp vốn, quan hệ quản lý nội bộ hoặc có quan hệ với người quản lý, người góp
vốn và được trao quyền quyết định hoặc có khả năng chi phối tới việc xác lập giao
dịch. Trên cơ sở đó, việc xác định Người có liên quan cần lưu ý các đặc điểm sau:
(1) Người có liên quan là người có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với
cơng ty.
Quan hệ trực tiếp với công ty là những người trực tiếp quản lý, điều hành
công ty hoặc những người có mối quan hệ sở hữu cổ phần trực tiếp hoặc gián tiếp
có khả năng chi phối trong cơng ty hay cịn gọi là cổ đơng chi phối. Để xác định
được cổ đông chi phối trong công ty cần phải dựa vào đồng thời hai tiêu chí là: Tỷ
lệ sở hữu cổ phần của cổ đông trong công ty và khả năng tham gia vào q trình
quản lý, kiểm sốt cơng ty của cổ đơng. Bởi lẽ, “nếu khơng tính đến khả năng kiểm
sốt cơng ty thì bản thân số lượng cổ phần khơng thể xác định được vị trí của cổ
đông là cổ đông thiểu số hay cổ đông đa số”12. Tóm lại, khái niệm cổ đơng chi phối
được hiểu một cách tương đối như sau: Cổ đông chi phối là cổ đông sở hữu một tỷ
lệ cổ phần nhất định trong trong CTCP và có khả năng chi phối, kiểm sốt hoạt
động của cơng ty.
Quan hệ gián tiếp với cơng ty là những người thân thích của người quản lý, cổ
đông chi phối, các công ty mà những người này có phần vốn góp, các cơng ty mà
người quản lý, cổ đơng chi phối có phần vốn góp…Việc nhận diện Người có liên
quan có quan hệ gián tiếp với công ty được xác định là phức tạp trên thực tế. Cụ thể,
việc xác định các mối quan hệ gián tiếp được mở rộng xoay quanh các mối quan hệ
của người quản lý công ty và cổ đông chi phối. Người có liên quan gián tiếp là những
chủ thể có khả năng tác động đến các chủ thể có quyền năng trong việc quyết định
giao dịch của công ty do những lợi ích chia sẻ chẳng hạn như: (i) những người thân
thích của người quản lý, cổ đơng chi phối như bố, mẹ, con, anh, chị, em, ông, bà…. ,
những người này có thể chi phối hoặc gây ảnh hưởng đến việc ra quyết định của
người có quyền quyết định hoặc nắm giữ cổ phần chi phối sao cho việc thiết lập giao
dịch mang lại lợi ích cho họ. Giữa những người này có thể có quan hệ ruột thịt, họ
hàng, tình cảm…ở mức độ để có thể tác động đến việc xác lập, thực hiện giao dịch;
(ii) các công ty mà người quản lý, cổ đông chi phối đóng góp phần vốn góp hoặc cổ
phần; (iii) cơng ty mà những người có quan hệ họ hàng thân thích với người quản lý,
Nguyễn Hoàng Thuỳ Trang (2008), Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần - So sánh giữa pháp
luật Việt Nam và pháp luật Vương Quốc Anh, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Luật TP HCM, tr. 12
12
12
cổ đông chi phối nắm giữ chức danh quản lý hoặc cổ phần chi phối; (iv) các công ty
con của công ty mẹ là các cổ đông nắm giữ cổ phần chi phối…
(2) Người liên quan có khả năng quyết định hoặc có khả năng chi phối tới
việc xác lập và thực hiện giao dịch của công ty. Khả năng quyết định đến việc thiết
lập giao dịch nằm trong nhóm người quản lý cơng ty. Những người này có thể là cổ
đông của công ty hoặc người được công ty thuê làm quản lý. Người quản lý công ty
được trao quyền đại diện cho công ty xác lập các giao dịch. Trong giao dịch giữa
cơng ty với chính bản thân họ hoặc người có liên quan với họ, nếu khơng có cơ chế
kiểm sốt thì việc lợi dụng giao dịch để tư lợi cho chính mình rất dễ xảy ra bởi vì
người quản lý cơng ty ln có xu hướng thiếu mẫn cán, lợi dụng vị trí của mình để
tìm kiếm lợi ích cá nhân cho chính họ hơn là cho các cổ đông và công ty13. Khả
năng chi phối đến việc thiết lập giao dịch nhằm chỉ các cổ đơng chi phối có thể tác
động đến các quyết định của công ty. Trong việc xác định rõ “sự liên quan” thì mức
cổ phần mà cổ đơng nắm giữ để chi phối các quyết định quản lý cũng quan trọng.
Việc xác định khi nào đạt đến mức cổ phần có thể chi phối các quyết định trong
công ty phụ thuộc vào cơ cấu sở hữu vốn của nền kinh tế mà quốc gia đó có nền
tảng phát triển sẽ có quy định khác nhau. Điều lệ của doanh nghiệp cũng ghi rõ tỷ lệ
% mà các quyết định của doanh nghiệp được thơng qua tại ĐHĐCĐ thì việc một cổ
đơng sở hữu tỷ lệ cổ phần bao nhiêu % trở lên sẽ được xác định là có khả năng chi
phối đến quyết định của doanh nghiệp.
Trong các cơng ty có cấu trúc sở hữu vốn tập trung thì thường cổ đông chiếm
đa số cổ phần. Cấu trúc sở hữu vốn tập trung này là đặc trưng của các nước theo hệ
thống Dân luật, trong đó có Việt Nam. Người nắm quyền sở hữu cũng đồng thời là
người quản lý, do đó việc ra các quyết định quản lý trong những loại hình cơng ty
này do cổ đơng chiếm cổ phần chi phối áp đặt đơn phương và thường thiếu sự thảo
luận với các cổ đông khác. Hơn nữa, cổ đông chi phối cịn có quyền chỉ định, bổ
nhiệm những người giữ cương vị quản lý, điều hành phục vụ cho lợi ích của họ.
Nhiều vụ việc đã chứng minh rằng những người này có lợi ích riêng ngồi lợi ích
của công ty khi tham gia giao dịch và khả năng lợi dụng giao dịch là đáng kể14.
Ngoài ra, khả năng tác động đến việc thiết lập giao dịch còn thể hiện ở những người
có liên quan có quan hệ gián tiếp với công ty thông qua những người quản lý hoặc
Bộ kế hoạch và Đầu tư (2014), Báo cáo tổng kết thi hành Luật doanh nghiệp 2005, Ban soạn thảo dự án
Luật doanh nghiệp sửa đổi, Hà Nội, tr. 800.
14
Nguyễn Thị Vân Anh (2015), “Hoàn thiện pháp luật về kiểm sốt giao dịch giữa cơng ty với người có liên
quan”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, tr.39
13
13
các cổ đông chi phối. Bằng các mối quan hệ thân thích, họ hàng, cơng việc, tình
cảm, các lợi ích kinh tế được san sẻ mà những người này tác động đến người có liên
quan có quan hệ trực tiếp với cơng ty để xác lập giao dịch có lợi cho mình mà có
thể qn đi lợi ích của cơng ty.
Trên cơ sở lý luận đó, pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện ghi nhận bốn
nhóm chủ thể thực hiện giao dịch có khả năng phát sinh tư lợi trong CTCP tại
khoản 1 Điều 167 LDN 2020. Theo đó, giao dịch giữa các chủ thể này với công ty
phải bị kiểm sốt như sau:
(1) Cổ đơng, người đại diện theo ủy quyền của cổ đơng là tổ chức
Đây là nhóm chủ thể đầu tiên mà pháp luật doanh nghiệp điều chỉnh dựa trên
yếu tố sở hữu công ty. Các giao dịch của cơng ty với nhóm chủ thể này được xác định
là một trong những giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi bởi những chủ thể này nắm
giữ tỷ lệ cổ phần đến mức có thể chi phối việc quản lý cũng như một số hoạt động
của doanh nghiệp. Theo quy định tại Điều 115 LDN 2020 thì cổ đơng hoặc nhóm cổ
đơng sở hữu từ 5% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn
quy định tại Điều lệ công ty thì bên cạnh các quyền của cổ đơng nói chung cịn có
thêm một số quyền đặc biệt khác. Có thể đơn cử một số quyền quan trọng như sau:
Đề cử người vào HĐQT và BKS; Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết
của HĐQT, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm, các báo cáo của BKS; Yêu cầu
BKS kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của
cơng ty…Với những quyền đặc thù nêu trên, nhóm chủ thể này hồn tồn có thể tác
động, chi phối đến hoạt động của cơng ty. Chính vì vậy, bên cạnh việc trao cho nhóm
chủ thể này các quyền đặc thù hơn những cổ đông nắm giữ cổ phần với tỷ lệ nhỏ hơn
5% thì LDN 2020 cũng đặt ra những ràng buộc nhất định nhằm hạn chế tình trạng các
chủ thể này lợi dụng các quyền hạn để gây thiệt hại cho công ty và các cổ đông khác,
tuy nhiên, mặc dù trao thẩm quyền đặc biệt cho những cổ đông nắm giữ 5% cổ phần
trở lên nhưng LDN 2020 chỉ kiểm sốt các giao dịch của các cổ đơng nắm giữ từ 10%
cổ phần trở lên. Một trong số đó là quy định giao dịch giữa cơng ty và các chủ thể
này phải được sự đồng ý của ĐHĐCĐ hoặc HĐQT.
(2) Người quản lý cơng ty
Nhóm chủ thể thứ hai mà LDN điều chỉnh là người quản lý trong CTCP.
Theo quy định tại Khoản 24 Điều 4 LDN 2020 thì người quản lý doanh
nghiệp được hiểu là “người quản lý doanh nghiệp tư nhân và người quản lý công ty,
bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành
14
viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị,
thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức
danh quản lý khác theo quy định tại Điều lệ cơng ty”. Có thể nói người quản lý
doanh nghiệp nói chung và trong CTCP nói riêng là chủ thể đóng vai trị quan trọng
trong việc điều hành, quản lý hoạt động của công ty, là người nắm rõ nhất diễn biến,
tình hình kinh doanh hằng ngày của cơng ty. Đặc biệt trong CTCP – loại hình doanh
nghiệp hồn tồn dựa trên cơ sở đối vốn thì người quản lý cơng ty càng đóng vai trị
quan trọng. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, cổ đông chỉ quan tâm tới giá của cổ
phiếu công ty hay cổ tức được chia hằng năm chứ hồn tồn khơng quan tâm tới
hoạt động điều hành, quản lý trên thực tế. Do đó, quyền lực của người quản lý công
ty trong những trường hợp này rất lớn. Xuất phát từ việc được trao quá nhiều quyền
trong quản lý công ty, chủ thể này rất dễ lợi dụng vị trí của mình để thực hiện các
giao dịch nhằm tư lợi hặc phục vụ lợi ích cho cá nhân, tổ chức khác. Mặc dù pháp
luật doanh nghiệp đã có quy định về nghĩa vụ của người quản lý công ty quy định
tại Điều 165 LDN 2020 như: Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách
trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của cơng ty;
Trung thành với lợi ích của cơng ty và cổ đơng; khơng sử dụng thơng tin, bí quyết,
cơ hội kinh doanh của công ty, địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của công ty để tư
lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;… Tuy nhiên, trên thực tế, xu
hướng lợi dụng chức vụ quản lý hay những thơng tin có được từ vị trí quản lý này
để thực hiện các hành vi trục lợi rất phổ biến. Trong tác phẩm Của cải của các dân
tộc (The wealth of Nations), nhà kinh tế học nổi tiếng Adam Smith đã cho rằng với
đặc tính của cơng việc quản lý, các cổ đông không nên kỳ vọng và tin tưởng rằng
người quản lý công ty sẽ hành động như họ muốn, bởi lẽ người quản lý cơng ty ln
có xu hướng thiếu siêng năng, mẫn cán và lợi dụng vị trí của mình để tìm kiếm lợi
ích cá nhân cho chính họ hơn là cho các cổ đơng và cơng ty15. Hay nói cách khác,
với vị trí của mình, người quản lý cơng ty được cho là ln có xu hướng tư lợi.
(3) Doanh nghiệp liên quan và người có liên quan của cổ đơng chi phối và
người quản lý cơng ty.
Nhóm chủ thể cuối cùng mà pháp luật doanh nghiệp điều chỉnh là các chủ thể
có liên quan với hai nhóm chủ thể kể trên: Cá nhân có liên quan hoặc doanh nghiệp
có liên quan. Theo định nghĩa tại khoản 23 Điều 4 LDN 2020 thì Người có liên quan
15
Adam Smith, The Wealth of Nations, 1776, Nxb. Metalibi, tr.800, truy cập 15/10/2020