TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
PHẠM THỊ HẰNG NGA
QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ
THEO LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ
THEO LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014
SINH VIÊN THỰC HIỆN: PHẠM THỊ HẰNG NGA
Khóa:
40
MSSV
1553801011230
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TH.S NGUYỄN TUẤN VŨ
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: “Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Th.S Nguyễn Tuấn Vũ, đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này”.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Hằng Nga
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BĐDCN
Ban đại diện chủ nợ
BLDS
Bộ luật dân sự
DN
Doanh nghiệp
DSCN
Danh sách chủ nợ
GĐN
Giấy đòi nợ
HNCN
Hội nghị chủ nợ
HTX
Hợp tác xã
LPS
Luật Phá sản
LVN
Luật vỡ nợ
MTTPS
Mở thủ tục phá sản
NBL
Người bảo lãnh
NLĐ
Người lao động
NQ
Nghị quyết
PAPH
Phương án phục hồi
QTV
Quản tài viên
TAND
Tòa án nhân dân
TBPS
Tuyên bố phá sản
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TTPH
Thủ tục phục hồi
TTPS
Thủ tục phá sản
UBCN
Ủy ban chủ nợ
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ ................ 5
1.1.
Khái niệm chủ nợ và Hội nghị chủ nợ................................................... 5
1.1.1.
Khái niệm chủ nợ ............................................................................... 5
1.1.2.
Khái niệm Hội nghị chủ nợ ................................................................ 6
1.2. Bản chất pháp lý của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã ........................................................................... 7
1.3. Vị trí của của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã .................................................................................. 9
1.4. Vai trò của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã ........................................................................................... 10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ QUY CHẾ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ THEO
LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014 ............................................................................. 13
2.1. Chủ thể tham gia Hội nghị chủ nợ .......................................................... 14
2.1.1. Chủ thể có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ ....................................... 14
2.1.2. Chủ thể có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ ................................... 23
2.1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chủ thể tham gia Hội nghị chủ nợ 25
2.2. Thủ tục triệu tập và tiến hành Hội nghị chủ nợ .................................... 29
2.2.1. Triệu tập Hội nghị chủ nợ .................................................................... 29
2.2.2. Tiến hành Hội nghị chủ nợ .................................................................. 31
2.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về triệu tập và tiến hành Hội nghị chủ
nợ ................................................................................................................... 34
2.3. Thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ ........................................................... 37
2.3.1. Đề nghị thay người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã . 37
2.3.2. Thành lập Ban đại diện chủ nợ ............................................................ 38
2.3.3. Đề nghị đình chỉ giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản ..................... 39
2.3.4. Đề nghị thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh .................. 40
2.3.5. Đề nghị tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
tốn ................................................................................................................. 44
2.3.6. Kiến nghị hồn thiện pháp luật về thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ .. 44
2.4. Chấm dứt hoạt động của Hội nghị chủ nợ ............................................. 53
2.4.1. Căn cứ chấm dứt hoạt động của Hội nghị chủ nợ................................ 53
2.4.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về căn cứ chấm dứt hoạt động của Hội
nghị chủ nợ .................................................................................................... 54
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................. 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật phá sản Việt Nam đưa ra mục tiêu khi ban hành các quy định của pháp
luật pháp sản là “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ, doanh nghiệp (DN)
mắc nợ và những người khác có liên quan, xác định trách nhiệm của DN mắc nợ khi
được giải quyết Tịa án tun bố phá sản (TBPS); góp phần thúc đẩy DN hoạt động
kinh doanh có hiệu quả đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội”1. “Mục đích đầu tiên, cơ bản
và quan trọng nhất của thủ tục phá sản (TTPS) là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ nợ”2. Trên cơ sở đó, quy chế Hội nghị chủ nợ (HNCN) ra đời như
một tổ chức đại diện cho tồn thể chủ nợ, ở đó các chủ nợ sẽ cùng nhau bàn bạc, thảo
luận để quyết định “vận mệnh” của DN, hợp tác xã (HTX) bị mở thủ tục phá sản
(MTTPS) thơng qua việc có thơng qua thủ tục phục hồi (TTPH), đề nghị đình chỉ giải
quyết yêu cầu MTTPS hay đề nghị TBPS. Do đó, HNCN tạo điều kiện để DN, HTX
phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh nên góp phần giảm thiểu những tác động tiêu
cực của phá sản với kinh tế, đời sống xã hội, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Vì vậy,
vai trị của HNCN ngày càng được đề cao trong Luật Phá sản (LPS). LPS 2014 được
ban hành vào ngày 19 tháng 6 năm 2014 phản ánh nhiều tư duy đổi mới, tiến bộ nhưng
cũng không tránh khỏi những bất cập, hạn chế. Quy chế HNCN trong LPS 2014 bên
cạnh những ưu điểm của nó thì cũng tồn tại một bất cập:
Thứ nhất, quy định về chủ thể tham gia HNCN còn tồn tại hạn chế như “loại bỏ
chủ nợ mới (phát sinh tư cách chủ nợ trong quá trình DN, HTX bị nộp đơn yêu cầu
MTTPS đến khi triệu tập HNCN), người được thi hành án trong trường hợp đình chỉ
thi hành án quy định tại Điều 72 LPS 2014”3; chưa có cơ chế cử đại diện người lao
động (NLĐ) tham gia HNCN; ảnh hưởng đến quyền lợi của người bảo lãnh (NBL)
khi chỉ quy định NBL tham gia HNCN sau khi đã thanh toán nợ thay cho DN, HTX.
Thứ hai, nếu việc lập danh sách chủ nợ (DSCN) kết thúc sau khi kiểm kê tài sản
thì thời hạn triệu tập HNCN được tính từ ngày kết thúc việc lập DSCN nên ảnh hưởng
đến quyền lợi của chủ nợ có tên trong DSCN sau thời điểm Thẩm phán giải quyết
xong khiếu nại DSCN.
Thứ ba, điều kiện thơng qua nghị quyết (NQ) của HNCN khơng tính đến chủ nợ
có bảo đảm một phần là khơng bảo đảm quyền bình đẳng giữa chủ nợ này với chủ nợ
khơng có bảm đảm, đồng thời xảy ra tình trạng khơng thể thơng qua NQ của HNCN
1
Nguyễn Ngọc Hồi (2002), Các nguyên tắc trong giải quyết tuyên bố phá sản DN theo Luật phá sản doanh nghiệp, Luận
văn cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.20.
2 Dương Đăng Huê (2005), Pháp luật phá sản của Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, tr.46.
3 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, Nhà xuất bản Hồng
Đức, tr. 505.
1
do tổng nợ của chủ nợ khơng có bảo đảm ít hơn nhiều so với phần nợ không bảo đảm
của chủ nợ có bảo đảm một phần.
Thứ tư, quy định về việc thành lập Ban đại diện chủ nợ (BĐDCN) tương đối ít
như khơng hướng dẫn cụ thể tiêu chuẩn ứng viên, chế độ trách nhiệm của thành viên
BĐDCN, cách bầu BĐDCN, chi phí thù lao BĐDCN sẽ do chủ thể nào thanh toán.
Do vậy, việc sớm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện những quy định của Luật Phá
sản và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó có các quy định về HNCN
đã trở thành một yêu cầu cấp thiết. Để thực hiện nhiệm vụ này cần có những nghiên
cứu về các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn của HNCN. Chính vì vậy, tác giả chọn
đề tài “Quy chế pháp lý về Hội nghị chủ nợ theo Luật Phá sản năm 2014” để tiến
hành nghiên cứu. Thông qua nghiên cứu đề tài, tác giả đi vào làm rõ các vấn đề lý
luận, phân tích những hạn chế, bất cập cũng như thực tiễn áp dụng để góp phần hồn
thiện các quy định pháp luật phá sản về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
HNCN là quy chế quan trọng trong Luật Phá sản, nó góp phần bảo vệ quyền lợi
của chủ nợ, nâng cao hiệu quả của hoạt động phục hồi DN, HTX. Vì vậy, vấn đề
HNCN đã được nghiên cứu ở nhiều cơng trình khác nhau. Cụ thể như:
Bài viết “Hội nghị chủ nợ và vai trị của nó trong thủ tục phá sản” của Th.S
Nguyễn Thị Thanh Lê (2004), Kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Một số định
hướng hoàn thiện pháp luật phá sản DN, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (phần
II). Trong bài viết này, tác giả đã nêu một cách tổng quát về quy định HNCN trong
Luật Phá sản 2014 như thời gian tổ chức, thành phần tham dự, điều kiện hợp lệ của
HNCN, đồng thời cũng phân tích các hạn chế, bất cập trong các quy định này. Tuy
nhiên, bài viết không làm rõ các vấn đề lý luận về HNCN.
Bài viết “Quy định về Hội nghị chủ nợ trong Luật Phá sản 2004: Một số bất cập
và hạn chế” của tác giả Bùi Xuân Hải trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 1(62)/2011.
Bài viết trình bày vai trò của HNCN, chủ thể tham gia và điều kiện hợp lệ của HNCN,
cũng như vấn đề đình chỉ tiến hành TTPS khi có người tham gia HNCN vắng mặt để
qua đó trình bày những hạn chế, bất cập cần khắc phục của quy định này.
Luận văn Thạc sĩ “Quy định pháp luật về Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản”
của tác giả Phạm Yến Nhi, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh năm 2013. Luận
văn đã trình bày khái qt chung về HNCN thơng qua khái niệm và vai trò của HNCN,
làm sáng tỏ thực trạng pháp luật của HNCN, chỉ ra điểm bất cập, hạn chế đồng thời
đề ra các giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật.
Tuy nhiên, trong các bài viết, luận văn trên, các tác giả đã viết về những hạn chế,
bất cập của LPS 2004 về vấn đề HNCN nhưng hiện nay LPS 2014 có hiệu lực thay
2
thế cho LPS 2004 có nhiều quy định mới về HNCN có thể kể đến như quy định về
thành lập BĐDCN, điều kiện hợp lệ của HNCN hay vấn đề hỗn HNCN, chủ thể có
nghĩa vụ tham gia,… Vì vậy, bài viết của tác giả tập trung làm rõ những hạn chế, bất
cập của Luật Phá sản 2014 về các quy định của HNCN, kết hợp với việc nghiên cứu
thực tiễn áp dụng, đồng thời có tiến hành so sánh với pháp luật một số nước trên thế
giới về quy chế này này để đưa ra kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật pháp sản
nói chung và HNCN nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là:
Thứ nhất, nhằm xác định và khái quát được những vấn đề lý luận quan trọng về
quy chế HNCN trong thủ tục giải quyết phá sản;
Thứ hai, nhằm làm rõ được quy định của Luật Phá sản 2014 về quy chế của HNCN
trong thủ tục giải quyết phá sản DN, HTX;
Thứ ba, nhằm đánh giá thực tiễn áp dụng về quy chế của HNCN trong thủ tục giải
quyết phá sản DN, HTX;
Thứ tư, nhằm đề xuất các kiến nghị hoàn thiện quy định của Luật Phá sản về quy
chế của HNCN trong thủ tục giải quyết phá sản DN, HTX.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy chế pháp lý về HNCN theo LPS 2014. Cụ
thể, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
Thứ nhất, những vấn đề lý luận chung về HNCN trong thủ tục giải quyết phá sản
của DN, HTX;
Thứ hai, thực trạng quy định của LPS 2014 về quy chế HNCN trong thủ tục giải
quyết phá sản DN, HTX;
Thứ ba, thực tiễn áp dụng pháp luật về quy chế HNCN trong thủ tục giải quyết
phá sản DN, HTX ở Việt Nam;
Thứ tư, kinh nghiệm điều chỉnh bằng pháp luật của một số nước về quy chế HNCN
trong giải quyết phá sản DN như Nga, Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, Trung Quốc.
Phạm vi nghiên cứu đề tài
Khóa luận nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng LPS 2014 về quy
chế pháp lý của HNCN trong thủ tục giải quyết phá sản DN, HTX. Trong đó, khóa
luận tập trung nghiên cứu LPS 2014 và các văn bản hướng dẫn; kết hợp nghiên cứu,
so sánh giữa pháp luật phá sản Việt Nam với pháp luật phá sản một số nước là Nga,
Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia và Trung Quốc.
3
Đề tài còn nghiên cứu thực tiễn áp dụng LPS về quy chế HNCN, để đánh giá và
bình luận những khía cạnh pháp lý liên quan.
Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu các quy định của pháp luật về HNCN áp dụng
chung cho DN, HTX thông thường mà không đi vào làm rõ quy chế HNCN áp dụng
với các chủ thể đặc thù như DN đặc biệt phục vụ quốc phòng, an ninh; DN, HTX hoạt
động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau (i) phương pháp phân tích,
tổng hợp; (ii) phương pháp phân tích vụ việc; (iii) phương pháp so sánh.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: là phương pháp chủ đạo, được sử dụng xuyên
suốt trong quá trình thực hiện đề tài. Phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ
các vấn đề lý luận và quy định pháp luật về quy chế HNCN trong thủ tục giải quyết
phá sản DN, HTX. Hai phương pháp này còn sử dụng chủ yếu để làm rõ thực tiễn áp
dụng LPS về quy chế HNCN. Phương pháp tổng hợp còn được vận dụng để tổng hợp
và đúc rút các kết quả của quá trình nghiên cứu.
Phương pháp phân tích vụ việc: được sử dụng để phân tích các vụ việc thực tiễn
về quy chế HNCN trong thủ tục giải quyết phá sản DN, HTX. Từ đó, liên hệ và đối
chiếu với quy định pháp luật và lý luận về HNCN nhằm đưa ra các bình luận, đánh
giá và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan.
Phương pháp so sánh được sử dụng để chỉ ra điểm khác biệt trong quy chế HNCN
ở Việt Nam và một số nước là Nga, Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, Trung Quốc.
Ngồi ra nó cịn để so sánh những điểm tương đồng, đổi mới của LPS 2014 so với
LPS 2004, qua đó đánh giá các quy định hiện hành về vấn đề này.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận chung về HNCN trong thủ tục giải quyết phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã.
Chương 2: Thực trạng về quy chế HNCN theo Luật phá sản năm 2014.
4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ
1.1. Khái niệm chủ nợ và Hội nghị chủ nợ
1.1.1. Khái niệm chủ nợ
Theo từ điển Luật học (2006) “Chủ nợ là người cho tổ chức, cá nhân khác vay
một món nợ bằng tiền hoặc hiện vật. Khi đến kỳ hạn, chủ nợ có quyền địi con nợ phải
hồn trả khoản tiền hoặc hiện vật vay kèm lãi”4. Bởi chủ nợ là chủ thể có quyền đi địi
nợ nên khái niệm chủ nợ trong TTPS liên quan đến căn cứ phát sinh nghĩa vụ trả nợ
và chủ thể bị yêu cầu MTTPS. Nghĩa vụ thanh tốn có thể phát sinh từ hợp đồng như
hợp đồng lao động, hợp đồng trong kinh doanh thương mại; bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do hành vi trái pháp luật; nghĩa vụ với cơ quan nhà nước như các khoản
thuế, phí,... Tùy pháp luật phá sản từng quốc gia mà TTPS áp dụng cho pháp nhân hay
thể nhân, theo pháp luật phá sản Việt Nam TTPS chỉ áp dụng với DN, HTX, còn ở
Hoa Kỳ có thể áp dụng đối với thể nhân. Do đó, chủ nợ trong thủ tục phá sản có thể
hiểu là bên có quyền yêu cầu chủ thể bị yêu cầu MTTPS thực hiện nghĩa vụ phát sinh
do thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi
trái pháp luật, nghĩa vụ với cơ quan nhà nước.
Là chủ thể đòi nợ, mong muốn thơng qua TTPS để được thanh tốn khỏan nợ của
mình. Vì vậy, “các chủ nợ được quyền tham gia vào hầu hết các giai đoạn từ khi khởi
kiện đến lúc thi hành xong quyết định TBPS và có vai trị rất lớn trong việc giải quyết
một vụ việc phá sản. Cụ thể các chủ nợ đều có quyền nộp đơn yêu cầu MTTPS; có
quyền quyết định việc áp dụng TTPH hay thủ tục thanh lý; kiến nghị Tòa án áp dụng
biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản của con nợ; có quyền tham gia ý kiến trước khi
người quản lý tài sản quyết định những vấn đề liên quan đến tài sản của con nợ; có
quyền đệ trình kế hoạch tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh của con nợ…”5.
Dựa theo tương quan giá trị khoản nợ và tài sản đảm bảo, chủ nợ có thể chia thành
chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ khơng có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần. “Khác
với pháp luật phá sản Việt Nam, pháp luật phá sản các nước trên thế giới hầu như chỉ
có chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ khơng có bảo đảm”6. Theo đó, “chủ nợ có bảo đảm
là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của DN, HTX hoặc người thứ ba;
chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của
DN, HTX hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản đó ít hơn giá trị tài sản bảo đảo;
chủ nợ không bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ khơng được bảo đảm bằng tài sản của
Viện khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản từ điển bách khoa và Nhà xuất bản tư pháp,
tr.146.
5 Dương Đăng Huê, tlđd (2), tr.48.
6 Lê Thị Đào (2006), Cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.23.
4
5
DN, HTX hoặc của người thứ ba”7. Do quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm đã bảo đảm
bằng tài sản nên khi tham gia TTPS, họ có các quyền biểu quyết thông qua NQ tại
HNCN, quyền biểu quyết thông qua phương án phục hồi (PAPH) theo quy định riêng,
khác với chủ nợ khơng có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần.
Ngồi ra, “căn cứ vào thời điểm xác lập tư cách chủ nợ thì chủ nợ được chia thành
chủ nợ có trước khi DN, HTX bị MTTPS và chủ nợ sau thời điểm bị MTTPS”8. Sau
khi DN, HTX bị mở TTPS, các chủ thể thực hiện giao kết hợp đồng với DN, HTX có
thể phải chấp nhận rủi ro so với việc giao kết với DN, HTX bình thường, vì vậy, chủ
nợ sau thời điểm DN, HTX bị MTTPS sẽ được hưởng thứ tự ưu tiên thanh tốn. Ngồi
ra, do tính chất đặc thù, LPS Liên bang Nga còn phân loại chủ nợ là cơ quan thuế,
CQNN có thẩm quyền hay các chủ nợ mà con nợ phải có nghĩa vụ thanh tốn do xâm
hại đến tính mạng và sức khỏe. “Đối với chủ nợ liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ
do xâm hại đến tính mạng và sức khỏe thì địi hỏi họ được ưu tiên cơng nhận và giải
quyết (được thanh tốn vào hàng thứ nhất bằng tài sản của con nợ) và khơng thuộc
diện bị hỗn thanh tốn trong trường hợp áp dụng thủ tục điều hành từ bên ngoài”9.
“Cơ quan thuế và cơ quan có thẩm quyền khác theo LPS được xem là chủ nợ do cơ
quan thuế là chủ thể của quan hệ luật công, thực hiện chức năng nhà nước của mình
và những tổ chức mang tính chất nhà nước này không tham gia vào quan hệ lưu thông
tài sản với con nợ như các chủ nợ khác”10.
1.1.2. Khái niệm Hội nghị chủ nợ
Theo Từ điển Luật học “HNCN là cuộc họp của các chủ nợ được triệu tập trong
thủ tục giải quyết yêu cầu TBPS doanh nghiệp để thảo luận thơng qua phương án hịa
giải, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của DN hoặc kiến nghị về phương án
phân chia tài sản của DN bị TBPS”11.
LPS Việt Nam không định nghĩa về HNCN nhưng dựa trên các quy định về cách
thức triệu tập, thẩm quyền của HNCN. HNCN được tổ chức bởi Thẩm phán, với sự
tham gia của tất cả các chủ nợ có tên trong DSCN và đại diện NLĐ, NBL sau khi thực
hiện nghĩa vụ trả nợ thay, người đại hiện hợp pháp của DN, HTX. Tại đây, các chủ
nợ thảo luận để đưa ra NQ với nội dung đề nghị đình chỉ giải quyết TTPS, đề nghị áp
dụng TTPH hay đề nghị tuyên bố phá sản DN, HTX. Nên có thể hiểu, HNCN là tập
hợp các chủ nợ được triệu tập trong thủ tục giải quyết phá sản để thảo luận, quyết định
Lê Thị Đào, tlđd (6), tr.21-23.
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (3), tr.474.
9 Nguyễn Đức Thành, Luật vỡ nợ Liên bang Nga, Kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Một số định hướng hoàn
thiện pháp luật phá sản DN, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (phần II), tr.147.
10 Nguyễn Đức Thành, tlđd (9), tr.148.
11 Viện khoa học pháp lý - Bộ tư pháp, tlđd (4), tr.386.
7
8
6
về “vận mệnh” của DN, HTX có đồng ý cho DN, HTX phục hồi hoạt động, đề nghị
đình chỉ giải quyết TTPS hay đề nghị Tòa án TBPS.
HNCN dưới sự điều hành của Thẩm phán hoặc quản tài viên (QTV) có thể được
tiến hành xuyên suốt TTPS. Trước khi MTTPS Tịa án có thể triệu tập chủ nợ, chủ
DN, HTX, người nộp đơn yêu cầu MTTPS để xem xét căn cứ chứng minh DN, HTX
mất khả năng thanh toán. Sau khi MTTPS, HNCN được tiến hành để đề xuất phương
án giải quyết TTPS trong đó có thể đề nghị Tịa án TBPS, đề nghị đình chỉ giải quyết
yêu cầu MTTPS, đề nghị áp dụng TTPH hay thông qua PAPH. Trong pháp luật phá
sản Liên bang Nga, HNCN có thể quyết định các giao dịch quan trọng để bảo toàn tài
sản phá sản trong TTPH, quyết định giá ban đầu DN, tài sản của DN, giám sát kết quả
thanh lý tài sản. Như vậy, thông qua HNCN các chủ nợ được nói lên tiếng nói của
mình, quyết định các vấn đề quan trọng để bảo vệ quyền lợi của họ.
Trong Luật vỡ nợ Đức, các chủ nợ sẽ được tập hợp trong “Phiên báo cáo” và
“Phiên xem xét”. Tại “Phiên báo cáo”, “người quản lý vỡ nợ phải báo cáo về tình
trạng kinh tế của con nợ và nguyên nhân của tình trạng đó và trình bày về khả năng
duy trì toàn bộ hay một phần DN của con nợ, khả năng xây dựng một kế hoạch vỡ nợ
và tác động của kế hoạch này đến việc thỏa mãn các yêu cầu địi nợ của chủ nợ. Cũng
trong phiên họp đó, Ủy ban chủ nợ (UBCN), Hội đồng xí nghiệp và Ủy ban đại diện
của viên chức quản lý được dành cơ hội để trình bày quan điểm của họ về báo cáo của
người quản lý vỡ nợ. Bởi vậy, người ta có thể nói rằng đây là một q trình cùng nhau
tìm kiếm giải pháp của người những người tham gia… HNCN ở đây được hiểu là cơ
quan tập hợp tất cả các chủ nợ, chứ không phải một phiên họp của các chủ nợ”12. Do
đó, hiểu theo nghĩa rộng, “HNCN là cơ quan đại diện cao nhất cho ý chí của các chủ
nợ, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng liên quan đến lợi ích của họ”13.
1.2.
Bản chất pháp lý của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã
“Khác với thủ tục địi nợ thơng thường, TTPS tiến hành việc địi nợ và thanh tốn
nợ một cách tập thể. Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, các chủ nợ khơng thể
tự xé lẻ để địi nợ riêng; mà tất cả đều phải hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy nhất,
gọi là HNCN”14. Vì vậy, HNCN trong TTPS có bản chất pháp lý riêng, khác biệt so
với thủ tục địi nợ thơng thường thơng qua khởi kiện dân sự. HNCN là cơ hội để chủ
nợ và DN, HTX bàn bạc, trao đổi về phương án giải quyết TTPS, kết quả của hội nghị
có thể đồng ý tiến hành TTPH, đề nghị đình chỉ giải quyết TTPS hoặc đề nghị TBPS.
Phan Huy Hồng (2004), Pháp luật về vỡ nợ của Cộng hòa liên bang Đức, Kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Một
số định hướng hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (phần II), tr.165.
13 Dương Đăng Huê, tlđd (2), tr.46.
14 Dương Đăng Huê, tlđd (2), tr.11.
12
7
Tương ứng với HNCN, thủ tục hòa giải là cơ sở để các bên gặp nhau, thỏa thuận giải
quyết vụ án. Để làm rõ điểm khác biệt giữa HNCN so với thủ tục thông thường cần
làm sáng tỏ các vấn đề chính về thành phần tham gia HNCN, thủ tục triệu tập, tiến
hành HNCN, quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và kết quả sau khi tiến hành HNCN.
Thứ nhất, về quyền yêu cầu triệu tập: Thủ tục đòi nợ theo vụ kiện dân sự thẩm
quyền triệu tập các chủ thể để tiến hành phiên hòa, hòa giải chỉ thuộc về Thẩm phán.
Cịn HNCN có thể được triệu tập theo yêu cầu các chủ nợ, BĐDCN (UBCN theo quy
định các nước), Thẩm phán hay QTV. Theo LVN Liên bang Nga, HNCN có thể được
triệu tập nhiều lần theo yêu cầu của QTV, chủ nợ, UBCN (khoản 1 Điều 14 LVN Liên
bang Nga năm 2002 sửa đổi bởi Luật liên bang ngày 27/12/2018).
Thứ hai, tiến hành HNCN: HNCN có thể được điều hành bởi Thẩm phán như
pháp luật phá sản Việt Nam hoặc Tín thác viên (Điều 341 Luật phá sản Hoa Kỳ 1978).
Tại đây, Thẩm phán hay Tín thác viên chỉ đóng vai trị là người điều hành, hướng dẫn
để các bên thực hiện quyền của mình và đảm bảo q trình tổ chức HNCN đúng trình
tự, Thẩm phán khơng can thiệp vào việc bàn bạc, thỏa thuận giữa các bên. Cịn trong
q trình giải quyết vụ án dân dự thì Thẩm phán tiến hành hịa giải để tạo điều kiện
thuận lợi cho các đương sự (chủ nợ và DN, HTX) thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án.
Thứ ba, về thành phần tham gia HNCN: Thành phần tham gia HNCN bao gồm
tất cả các chủ nợ có tên trong DSCN, đại diện NLĐ, NBL sau khi đã trả nợ thay cho
DN, HTX, chủ sở hữu DN, HTX, đại diện hợp pháp của DN, HTX bị MTTPS. Còn ở
phương thức địi nợ theo khởi kiện dân sự thì phiên hòa giải với sự tham gia của
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Để được tham dự
HNCN, các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ (GĐN) trong khoảng thời gian nhất định, áp
dụng chung cho tất cả các chủ nợ. Thời hạn này theo LPS 2014 là 30 ngày kể ngày
Tòa án ra quyết định MTTPS, còn LPS Trung Quốc thời hạn này do Tịa án ấn định
tối thiểu khơng dưới 30 ngày và tối đa không quá ba tháng (Điều 45 Luật Phá sản
doanh nghiệp Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa năm 2006). Cịn thủ tục địi nợ
thơng thường, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng
là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm (Điều 429 BLDS 2015), tức tính từ khi DN, HTX khơng
thực hiện nghĩa vụ đối với từng chủ nợ.
Thứ tư, về quyền và nghĩa vụ của chủ nợ: Nếu như ở thủ tục địi nợ theo vụ kiện
dân sự thơng thường, chủ nợ khởi kiện với tư cách là nguyên đơn, các chủ nợ cịn lại
có thể tham gia với tư cách người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Vì vậy, quyền và
nghĩa vụ của họ có thể khác nhau nếu người có quyền và lợi ích liên quan khơng có
8
yêu cầu độc lập. Không chỉ bao gồm các chủ nợ đã khởi kiện, HNCN với sự tham gia
của tất cả chủ nợ có tên trong DSCN, có thể là các chủ nợ không nộp đơn yêu cầu
MTTPS hay khoản nợ chưa đến hạn thanh toán. Các chủ nợ thuộc cùng loại bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ, quyền biểu quyết khi tham HNCN.
Cuối cùng, kết quả của HNCN có thể giúp con nợ phục hồi hoạt động sản xuất
kinh doanh hoặc có thể dẫn đến chấm dứt sự tồn tại của DN, HTX bị MTTPS. Vì mục
tiêu quan trọng của chủ nợ trong TTPS là đòi đầy đủ khoản nợ nên nếu xét thấy DN,
HTX còn tiềm năng phục hồi thì chủ nợ có thể biểu quyết đề nghị áp dụng TTPH và
thông qua PAPH hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngồi ra, chủ nợ có thể là những chủ
thể kinh doanh trên thị trường, có kinh nghiệm nên có thể đóng góp ý kiến xây dựng
PAPH khả thi. Việc giám sát thực hiện PAPH thông qua BĐDCN hoặc triệu tập
HNCN để quyết định các vấn đề quan trọng qua đó giúp hoạt động phục hồi hiệu quả.
Nhờ đó, DN, HTX khôi trở lại hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường. Nếu ở thủ
tục địi nợ thơng thường kết quả chỉ là chủ nợ được thanh toán khoản nợ, thì tại HNCN,
nếu xét thấy DN, HTX tài sản cịn lại q ít, tình trạng sản xuất kinh doanh, nhu cầu
của thị trường đối với ngành nghề sản xuất kinh doanh khơng cịn,… hay nói cách
khác DN, HTX khơng cịn khả năng phục hồi thì HNCN ra NQ đề nghị TBPS. Trên
cơ sở đó, Thẩm phán tuyên bố phá sản DN, HTX.
1.3.
Vị trí của của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã
HNCN là thuộc tính trung tâm của thủ tục giải quyết phá sản. “HNCN mới là chủ
thể có quyền thơng qua hay không thông qua kế hoạch phục hồi hoạt động sản xuất,
kinh doanh do con nợ hoặc chủ thể khác được pháp luật quy định soạn thảo. Nếu
HNCN không thơng qua kế hoạch này thì coi như con nợ đã hết khả năng được phục
hồi, cho dù có quyết tâm tới mấy”15. Vì vậy, kết quả tổ chức HNCN có vai trị quyết
định đến tồn TTPS. Cụ thể, nếu HNCN không được tổ chức, tổ chức mà không thông
qua được NQ, hay thông qua NQ đề nghị áp dụng TBPS thì DN, HTX sẽ bị TBPS,
thời gian tiến hành TTPS sẽ rút ngắn. Ngược lại, nếu HNCN đồng ý thơng qua PAPH
thì DN, HTX sẽ có điều kiện áp dụng TTPH.
HNCN thực hiện giám sát tồn bộ q trình giải quyết TTPS. Cụ thể, giám sát
hoạt động của DN, HTX thông qua đề nghị thay đổi người đại diện nếu xét thấy chủ
thể này khơng có khả năng quản lý, điều hành hay điều hành DN, HTX thực hiện các
hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản; giám sát thực hiện TTPH thông qua quyết định một
số giao dịch quan trọng, có khả năng tư lợi (khoản 1, 2 Điều 101 LVN Liên bang Nga
năm 2002 được sửa đổi bởi Luật liên bang ngày 27/12/2018); giám sát hoạt động của
15
Dương Đăng Huê, tlđd (2), tr.47.
9
người quản lý bên ngoài (khoản 2 Điều 99 LVN Liên bang Nga năm 2002 được sửa
đổi bởi Luật liên bang ngày 27/12/2018), việc báo cáo kết quả thực hiện PAPH (Điều
118 LVN Liên bang Nga năm 2002 được sửa đổi bởi Luật liên bang ngày 27/12/2018);
giám sát quá trình thanh lý DN, HTX thông qua quyết định giá ban đầu DN, tài sản
của DN (khoản 3 Điều 130 LVN Liên bang Nga năm 2002 được sửa đổi bởi Luật liên
bang ngày 27/12/2018); QTV phải báo cáo kết quả thực hiện thanh lý tài sản (Điều
143 LVN Liên bang Nga năm 2002 được sửa đổi bởi Luật liên bang ngày 27/12/2018).
HNCN là cơ hội để DN, HTX và chủ nợ, NLĐ gặp nhau, thảo luận giải quyết vấn
đề trên cơ sở cân bằng lợi ích của các bên. Chủ nợ tham gia HNCN thể hiện thiện chí
tạo điều kiện cho DN, HTX phục hồi hoạt động, nhờ đó tăng khả năng thanh toán
khoản nợ đầy đủ và đồng thời tự bảo vệ quyền lợi cho mình. Ở đây DN, HTX trình
bày tình trạng tài chính, ngun nhân DN, HTX mất khả năng thanh tốn và có thể
thuyết phục HNCN đồng ý thông qua PAPH hoặc cùng đi đến thỏa thuận hịa bình
(chủ nợ hỗn nợ, gia hạn thời hạn trả nợ cho DN, HTX). Còn đối với NLĐ, HNCN
tạo điều kiện để NLĐ nắm bắt được tiến trình giải quyết TTPS (có thơng qua TTPH
hay TBPS) để có những chuẩn bị thích hợp và là kênh thơng tin đánh giá tính chính
xác cho các giải trình của phía đại diện DN, HTX về nguyên nhân dẫn đến tình trạng
mất khả năng thanh tốn, tính hợp lý của PAPH bởi trong q trình thực hiện nhiệm
vụ của mình NLĐ có thể biết được tình hình sản xuất kinh doanh, các khoản nợ, nhu
cầu thị trường, cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trước đó.
1.4.
Vai trị của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã
Đối với chủ nợ
Thứ nhất, bảo vệ quyền lợi của chủ nợ.
Nhiệm vụ quan trọng của LPS là bảo đảm quyền sở hữu của chủ nợ. Các chủ nợ
yêu cầu Tòa án MTTPS đối với DN, HTX với mong muốn thu lại khoản nợ của mình.
HNCN là cơ sở để các chủ nợ thông qua các thủ tục có lợi cho mình, như nếu khơng
tin tưởng vào khả năng tài chính, năng lực quản lý, PAPH khơng khả thi thì đề nghị
Tịa án TBPS, để nhanh chóng thu hồi nợ. Hay thông qua TTPH với hi vọng DN, HTX
phục hồi sẽ làm tăng khả năng chủ nợ nhận được đầy đủ khoản nợ. Hơn nữa, HNCN
có thể giám sát DN, HTX thông qua BĐDCN để hạn chế việc DN, HTX tẩu tán tài
sản. “LPS Nhật Bản cũng đề cập đến vai trò của HNCN trong việc thực hiện quyền
giám sát thông qua những NQ khác nhau đối với việc thực hiện quyền hạn và các báo
cáo tài chính của người được ủy thác liên quan đến khối tài sản phá sản”16. HNCN
Trương Hồng Hải (2004), Luật so sánh doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ Luật so sánh và phương hướng hoàn thiện,
Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 131.
16
10
còn quyết định giá ban đầu của DN, tài sản của DN (khoản 3 Điều 130 LVN Liên
bang Nga năm 2002 được sửa đổi bởi Luật liên bang ngày 27/12/2018) giúp việc định
giá ban đầu khách quan, tăng khả năng việc bán tài sản của DN, bán DN với giá trị
lớn, từ đó tăng khả năng được thanh tốn của DN, HTX cho chủ nợ. Ngoài ra, các chủ
nợ hay BĐDCN cũng có thể yêu cầu triệu tập HNCN khi thấy cần thiết để kịp thời
nắm bắt tình hình của DN, HTX và BĐDCN còn được báo cáo về kết quả thực hiện
hoạt động phục hồi giúp củng cố niềm tin cho chủ nợ trong quá trình giải quyết TTPS.
Thứ hai, đảm bảo quyền bình đẳng giữa các chủ nợ trong TTPS: Chủ nợ cùng loại
khi tham gia HNCN có quyền bình đẳng trong việc biểu quyết thơng qua NQ. Chỉ cần
gửi GĐN trong thời hạn quy định họ đều có quyền tham dự, đóng góp ý kiến tại
HNCN, được góp ý về PAPH hoạt động sản xuất kinh doanh mà khơng phụ thuộc vào
họ có nộp đơn u cầu TBPS hay khơng, khoản nợ ít hay nhiều. Nhờ hoạt động giám
sát của BĐDCN nên sẽ hạn chế tình trạng DN, HTX cố tình ưu tiên thanh tốn, chuyển
khoản nợ khơng có tài sản bảo đảm thành có tài sản bảo đảm với một số chủ nợ nhất
định.
Thứ ba, bảo vệ quyền lợi của NLĐ: Khi DN, HTX lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh tốn, khơng thực hiện trả tiền lương thì chi phí sinh hoạt của NLĐ khơng
được đáp ứng, chưa kể còn ảnh hưởng đến người phụ thuộc. Vì vậy, HNCN có sự
tham gia của đại diện tập thể NLĐ để bảo đảm quyền bình đẳng giữa NLĐ với người
sử dụng lao động – DN, HTX trong khi thông thường NLĐ thường ở vị thế yếu hơn.
Và ngay cả khi do lo sợ tiềm lực kinh tế của người sử dụng lao động, địa vị phụ thuộc
mà NLĐ khơng nộp đơn u cầu MTTPS thì họ vẫn có quyền tham dự HNCN để yêu
cầu bảo vệ các quyền và lợi ích của mình.
Đối với doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản
HNCN tạo điều kiện để DN, HTX phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh. Các
chủ nợ có thể là những người có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh nên tại
HNCN họ có thể đưa ra ý kiến đóng góp cho PAPH và lựa chọn PAPH khả thi. Nhờ
thiện chí tham dự HNCN, mong muốn DN, HTX phục hồi để tăng khả năng được
thanh tốn đầy đủ các món nợ, các chủ nợ có thể hỗn nợ, gia hạn thời hạn trả nợ hay
ra sức kêu gọi đầu tư, kêu gọi các chủ thể giao kết hợp đồng với DN, HTX từ đó tăng
hiệu quả thực hiện TTPH.
HNCN tạo điều kiện để DN, HTX giải quyết những yếu kém trong hoạt động
quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. DN, HTX bị mất khả năng thanh
tốn có thể xuất phát từ sự yếu kém trong hoạt động quản lý, điều hành. Thông qua
HNCN các chủ nợ là người có kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh có thể đề nghị
Thẩm phán ra quyết định thay đổi người đại diện hợp pháp của DN, HTX. Người được
11
chỉ định thay thế thường là người có uy tín, năng lực, kinh nghiệm nhất định trong
hoạt động quản lý, điều hành. Vì vậy, việc thay thế này góp phần giải quyết yếu kém
trong hoạt động quản lý, điều hành hoạt động của DN, HTX.
Đối với Nhà nước
Thứ nhất, giảm tải khối lượng cơng việc cho Tịa án, thiểu chi phí cho hoạt động
tố tụng. Thơng qua HNCN các chủ nợ được tập hợp để cùng nhau bàn bạc đi đến
thông qua NQ trên cơ sở tự nguyện để đảm bảo hài hịa về lợi ích của đa số các chủ
nợ nên hạn chế trường hợp chủ nợ tự ý khởi kiện để đòi nợ theo thủ tục dân sự PAPH.
Ngoài ra, nhờ hoạt động giám sát của HNCN, BĐDCN thơng qua việc quyết định các
hợp đồng có giá trị lớn khiến DN, HTX hạn chế thực hiện các giao dịch tư lợi để tẩu
tán tài sản, góp phần hạn chế việc Tịa án phải tun bố vơ hiệu và vấn đề xử lý hậu
quả của nó. Do đó, giảm thiểu khối lượng cơng việc cho Tịa án, chi phí Nhà nước
cho hoạt động tố tụng.
Thứ hai, đảm bảo trật tự an toàn xã hội: Nhờ HNCN các chủ nợ được bảo đảm
bình đẳng về quyền và lợi ích nên giảm thiểu trường hợp chủ nợ cố tình gây sức ép
yêu cầu DN, HTX phải ưu tiên thực hiện thanh tốn khoản nợ của mình trước, hạn
chế việc địi nợ bằng cách xiết nợ, dùng vũ lực trái quy định. Vì vậy, HNCN góp phần
bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Thứ ba, giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của việc phá sản DN, HTX đối với xã hội,
thị trường, nền kinh tế, tạo điều kiện ổn định, phát triển kinh tế. Việc một DN, HTX
bị phá sản có thể kéo theo rất nhiều hệ lụy như tăng tình trạng thất nghiệp của NLĐ
tăng, từ đó dẫn đến gia tăng các tệ nạn xã hội, tội phạm. Thông qua HNCN khả năng
phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh tăng. Qua đó, giảm thiểu những hệ lụy trên,
tăng khoản thuế mà DN, HTX nộp cho Nhà nước, trị trường kinh doanh ổn định, tăng
cường cạnh tranh, lưu thông vốn, nhờ đó ổn định phát triển kinh tế.
Cuối cùng, “có ý nghĩa gián tiếp trong việc thúc đẩy hoạt động đầu tư kinh
doanh”17. HNCN góp phần tạo điều kiện để DN, HTX phục hồi hoạt động, trở lại kinh
doanh bình thường, góp phần bảo vệ uy tín cho chủ sở hữu, người quản lý DN, HTX,
giúp những chủ thể này có cơ hội để sửa chữa những sai lầm trong hoạt động quản lý
kinh doanh. Ngoài ra, chủ nợ được tham gia HNCN để yêu cầu các lợi ích tốt nhất
cho mình. “Nhờ đó, các chủ thể mạnh dạn tham gia vào hoạt động đầu tư, tăng cường
tính lưu thơng vốn của nền kinh tế”18.
Phạm Yến Nhi (2013), Quy định pháp luật về Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.26.
18 Phạm Yến Nhi , tlđd (17), tr 27.
17
12
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể, vì vậy mục tiêu quan trọng của pháp luật
phá sản là bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ. Chủ nợ là cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu
DN, HTX thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Theo pháp luật phá sản Việt Nam chủ nợ
được phân thành 3 loại chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ
khơng có bảo đảm. Tương ứng với mỗi loại chủ nợ là các quyền khác nhau trong đó
có quyền biểu quyết tại HNCN. Vì vậy, làm rõ khái niệm chủ nợ, xác định từng loại
chủ nợ tạo điều kiện để tiếp cập một cách thuận tiện quy chế pháp lý về HNCN.
Chương 1 đã trình bày một cách khái quát các vấn đề lý luận chung như khái niệm
HNCN, bản chất pháp lý, vị trí của nó trong TTPS và vai trị của HNCN. Trên cơ sở
lý luận, là tiền đề để phân tích chi tiết các quy định pháp luật về HNCN và chỉ ra điểm
bất cập, hạn chế của chúng. Như vậy, HNCN là cơ quan tập hợp tất cả chủ nợ, đại
diện cho tiếng nói của tất cả các chủ nợ. HNCN có vai trị quan trọng để bảo vệ quyền
và lợi ích của tất cả các chủ nợ theo nguyên tắc bình đẳng, bảo vệ quyền lợi NLĐ, có
vai trị quan trọng trong việc tạo điều kiện để phục hồi DN, HTX, từ đó giảm các hệ
lụy từ việc phá sản DN, tạo điều kiện để ổn định, phát triển kinh tế.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ QUY CHẾ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ THEO
LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014
“HNCN là cơ quan đại diện cho ý chí của các chủ nợ”19 nên để bảo vệ tốt nhất
quyền lợi cho các chủ nợ cần thiết phải xây dựng quy chế pháp lý cho HNCN một
cách đầy đủ, chính xác, tồn diện. Yếu tố đầu quyết định hiệu quả của HNCN là chủ
thể tham gia HNCN. Sự tham gia đầy đủ của chủ nợ, đại diện NLĐ, đại diện DN,
HTX, QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản sẽ đưa ra kênh thông tin đa dạng, là cơ sở để
NQ của HNCN khả thi, đảm bảo cân bằng quyền và lợi ích giữa các bên. Yếu tố thứ
hai là thủ tục triệu tập và tiến hành HNCN, đây là các điều kiện về hình thức, thủ tục
để đảm NQ tại HNCN có giá trị pháp lý, hiệu lực ràng buộc giữa các bên. Thẩm quyền
của HNCN cơ sở đảm bảo chủ nợ được tham gia vào các giai đoạn của TTPS, thực
hiện chức năng giám sát để bảo vệ quyền lợi của mình. Cuối cùng, khi thực hiện xong
nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi chủ nợ, NLĐ, HNCN chấm dứt hoạt động. Vì vậy, để làm
rõ quy chế của HNCN theo LPS 2014 tác giả sẽ lần lượt trình bày các vấn đề chủ thể
tham gia HNCN, thủ tục triệu tập và tiến hành HNCN, thẩm quyền HNCN, chấm dứt
hoạt động của HNCN.
19
Dương Đăng Huê, tlđd (2), tr.47.
13
2.1. Chủ thể tham gia Hội nghị chủ nợ
2.1.1. Chủ thể có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ
Điều 77 LPS 2014 quy định chủ thể có quyền tham gia HNCN gồm chủ nợ có tên
trong DSCN, đại diện cho NLĐ, đại diện cơng đồn được NLĐ ủy quyền, NBL sau
khi trả nợ thay cho DN, HTX. Các chủ thể này có quyền tham dự HNCN, tức họ có
thể thực hiện quyền này hoặc không, việc không tham dự HNCN không dẫn đến bất
kỳ chế tài nào đối với họ. Pháp luật phá sản Trung Quốc và Liên bang Nga cũng điểm
tương đồng với LPS 2014 khi quy định quyền tham gia HNCN thuộc về các chủ nợ
đã gửi GĐN và đại điện NLĐ (Điều 59 LPS doanh nghiệp của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa năm 2006, Điều 12 LVN Liên bang Nga năm 2002 sửa đổi bởi Luật liên
bang ngày 27/12/2018). Tuy nhiên, pháp luật hai quốc gia này không quy định cụ thể
quyền tham gia HNCN của NBL bởi tùy trường hợp khi thỏa thuận bảo lãnh, NBL có
yêu cầu bên được bảo lãnh phải thế chấp, ký quỹ hay không. Nếu NBL trước khi thực
hiện bảo lãnh đã yêu cầu DN, HTX phải thế chấp tài sản, ký quỹ thì sau khi thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, bên bảo lãnh sẽ trở thành chủ nợ có bảo đảm.
Cịn ngược lại, nếu khơng có thỏa thuận trên thì bên bảo lãnh sẽ trở thành chủ nợ
khơng có bảo đảm.
a) Chủ nợ
Khái niệm chủ nợ theo Luật phá sản 2014
Khoản 3 Điều 4 LPS 2014 “Chủ nợ là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu
DN, HTX thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ”. Theo Điều 275 Bộ luật dân sự
(BLDS) 2015 nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương,
thực hiện công việc không có ủy quyền, chiếm hữu chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc
được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật, gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật,
căn cứ khác do pháp luật quy định. Vì vậy, “chủ nợ có thể hình thành từ nhiều giao
dịch khác nhau”20 theo các căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự. Chủ nợ có thể phát sinh
từ các hợp đồng như hợp đồng thương mại, bảo lãnh, hợp đồng lao động mà DN, HTX
chưa thực hiện nghĩa vụ. Hay chủ nợ trên cơ sở thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền như việc A bảo quản tài sản khi chưa có người nhận vì lợi ích của DN, HTX vì
vậy DN, HTX bị MTTPS có trách nhiệm thanh tốn lại chi phí trên cho A. Từ hành
vi pháp lý đơn phương do B để lại di chúc cho DN, HTX và DN, HTX phải thực hiện
nghĩa vụ do B để lại với C nên C là chủ nợ. Từ việc chiếm hữu sử dụng tài sản khơng
có căn cứ pháp luật như trường hợp D là chủ sở hữu quyền sử dụng đất cho HTX thuê
đất, sau khi D chuyển nhà và mất HTX không thực hiện nghĩa vụ trả tiền thuê đất mà
tiếp tục chiếm hữu, sử dụng nên những người thừa kế của D có quyền yêu cầu HTX
20
Phạm Yến Nhi, tlđd (17), tr.21.
14