BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ YẾN TRINH
PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ
TP HỒ CHÍ MINH- THÁNG 3 NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
----o0o----
PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHAN HUY HỒNG
Học viên: BÙI THỊ YẾN TRINH - Lớp Cao Học Luật Khóa 30
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn Thạc sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Phan Huy Hồng, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Người thực hiện
Bùi Thị Yến Trinh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. Luật Trọng tài Thương mại
LTTTM
2. Bộ luật Dân sự
BLDS
3. Bộ luật Tố tụng Dân sự
BLTTDS
4. Luật Kinh doanh bất động sản
LKDBĐS
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................................. 3
3. Mục đích nghiên cứu đề tài .................................................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 9
6. Bố cục luận văn .................................................................................................... 10
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI............................................................... 11
1.1. Khái quát chung về phương thức trọng tài thương mại ................................ 11
1.1.1. Khái niệm về trọng tài thương mại ............................................................... 11
1.1.2. Cơ sở kinh tế - xã hội về hình thành chính sách và pháp luật về trọng tài
thương mại ............................................................................................................... 13
1.2. Khái quát chung về thẩm quyền của trọng tài ................................................ 17
1.2.1. Khái niệm về thẩm quyền của trọng tài thương mại ..................................... 17
1.2.2. Tính giới hạn trong thẩm quyền của trọng tài thương mại trong Luật
Trọng tài Thương mại của Việt Nam ...................................................................... 18
1.2.3. Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ............................................. 25
1.3. Phân biệt thẩm quyền của trọng tài và thẩm quyền của tòa án trong giải
quyết tranh chấp ....................................................................................................... 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................. 42
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN............................................ 43
2.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động
thương mại................................................................................................................. 43
2.1.1. Quy định pháp luật về tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động
thương mại ............................................................................................................... 43
2.1.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết
tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại ................................... 48
2.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít
nhất một bên có hoạt động thương mại .................................................................. 52
2.2.1. Quy định pháp luật về thẩm quyền của trọng tài giải quyết tranh chấp
phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại........ 52
2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết
tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động
thương mại ............................................................................................................... 54
2.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy
định được giải quyết bằng trọng tài ........................................................................ 58
2.3.1. Quy định pháp luật về các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài .......... 58
2.3.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết
các tranh chấp được quy định giải quyết bằng trọng tài ......................................... 69
2.4. Định hướng và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền
của trọng tài thương mại .......................................................................................... 73
2.4.1. Đối với quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại ................ 74
2.4.2. Đối với quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại ................. 79
2.4.3. Đối với quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại ................. 80
2.4.4. Mở rộng thẩm quyền của trọng tài thương mại đối với nhiều loại tranh
chấp khác ................................................................................................................. 82
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................. 85
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 86
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Với sự gia tăng ngày càng nhiều các tranh chấp thương mại trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh tòa án, các doanh nghiệp đang có xu hướng chuyển
dần sang sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế (Alternative
Dispute Resolution- ADR) nhằm rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, đảm bảo
tính an tồn, hiệu quả và bảo mật. Là một trong số các phương thức giải quyết tranh
chấp thay thế, trọng tài thương mại hiện nay đang là phương thức được nhiều quốc
gia trên thế giới khuyến khích áp dụng. Quay về lịch sử hình thành của trọng tài
thương mại, có thể thấy, trong thời kỳ đầu, trọng tài là phương thức đơn giản và
tương đối riêng tư khi hai bên thương nhân tranh chấp sẽ tìm đến một bên thứ ba,
người họ tin tưởng và thỏa thuận làm theo quyết định của người đó. Ở thời điểm
này, trọng tài đơn giản chỉ là một hình thức thương thảo giữa các bên và không
được điều chỉnh bởi một khung pháp lý nhất định. Tuy vậy, trước sự phát triển
mạnh mẽ của hoạt động thương mại trên thế giới, cơ chế “công lý tư” này dần được
các quốc gia thừa nhận thơng qua việc hình thành các văn bản, điều ước quốc tế
điều chỉnh quy định liên quan đến trọng tài thương mại; nhiều quốc gia cũng tiến
hành xây dựng và sửa đổi luật pháp về trọng tài sao cho phù hợp với tình hình thực
tế. Tại Việt Nam, chế định trọng tài du nhập vào hệ thống pháp luật nước ta từ cuối
thế kỷ XIX, nhưng do bối cảnh xã hội đương thời không thuận lợi nên về cơ bản,
trọng tài không tác động đáng kể đển xã hội trong giai đoạn này. Tuy nhiên, những
sự kiện lịch sử diễn ra giữa thế kỷ XX đã làm thay đổi tồn cảnh quốc gia, trong đó
có hệ thống pháp luật; các tổ chức trọng tài cùng với đó cũng dần được hình thành1.
Trong giai đoạn sơ khai, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài còn gặp nhiều hạn
chế do Nhà nước chưa ban hành một luật cụ thể để điều chỉnh hệ thống trọng tài
trong nước và quốc tế; quyết định được ban hành bởi hội đồng trọng tài cũng không
được đảm bảo thi hành. Theo báo cáo thống kê các năm của Trung tâm Trọng tài
Quốc tế Việt Nam (VIAC), trong giai đoạn từ năm 1993 (thời điểm thành lập trung
tâm trọng tài) cho đến trước năm 2003, số lượng tranh chấp của VIAC cao nhất là
25 vụ tranh chấp, trong giai đoạn 1993, số lượng tranh chấp giải quyết tại trung tâm
1.
Thảo Vy - Đức Tâm - Đức Thảo - Tường Vân, “Trọng tài: Quá trình hội nhập và phát triển”,
truy cập
ngày 9/11/2021.
1
1
này chỉ là 6 vụ. Con số này đã phản ánh khá rõ nét về một thị trường không ưa
chuộng và quen thuộc với phương thức trọng tài thương mại. Mãi cho đến năm
2003 khi Pháp lệnh trọng tài 2003 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh trọng tài) ra đời, các
quy định về trọng tài thương mại mới được điều chỉnh bằng một văn bản cụ thể, giá
trị của phán quyết trọng tài cũng được xác lập. Có thể thấy, pháp lệnh trọng tài đã
đặt nền tảng pháp lý cho trọng tài Việt Nam, là cơ sở của sự phát triển, bổ sung và
chỉnh sửa hoàn thiện hơn của các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt
động trọng tài sau này như Luật Trọng tài thương mại 2010, Nghị định
63/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Trọng tài thương mại, Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP về hướng dẫn thi hành một
số quy định Luật Trọng tài thương mại.
Theo quy định pháp luật, các bên chỉ có thể giải quyết tranh chấp bằng phương
thức trọng tài nếu tranh chấp đó thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng
tài thương mại. Thực tiễn cho thấy, vấn đề này là mối quan tâm của pháp luật trọng
tài ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và thường gây phát sinh một số tranh cãi,
bình luận nhất định. Riêng đối với khung pháp lý về trọng tài tại Việt Nam, có thể
thấy, vấn đề về thẩm quyền của trọng tài mặc dù đã được đề cập trong văn bản quy
phạm pháp luật nhưng quy định điều chỉnh vẫn cịn mang tính chất chung, chưa
phân định, làm rõ một cách chặt chẽ về một số vấn đề liên quan đến thẩm quyền của
trọng tài dẫn đến khi áp dụng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Cụ thể là quy định
về thẩm quyền được điều chỉnh tại Điều 2, Điều 5 của Luật Trọng tài thương mại
2010 đồng thời được hướng dẫn thi hành cụ thể hơn ở Điều 2 Nghị quyết
01/2014/NQ-HĐTT. Nhìn chung, các điều khoản này đều chỉ ra được khi nào trọng
tài có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp, tuy nhiên, các hướng dẫn chi tiết về phạm
vi thẩm quyền của trọng tài lại chưa thật sự rõ ràng dẫn đến sự nhập nhằng, khó giải
quyết trong một số trường hợp nhất định.
Nhìn nhận được những bất cập trong quy định về thẩm quyền của trọng tài
thương mại, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương
mại” để tiến hành nghiên cứu, đánh giá. Thông qua việc phân tích, đối chiếu pháp
luật trọng tài của các quốc gia trên thế giới cùng với đó là chứng minh qua thực tiễn
giải quyết tranh chấp, thông qua Luận văn, tác giả mong muốn đi sâu hơn vào việc
nghiên cứu quy định của pháp luật, tìm ra được mấu chốt của các bất cập và quan
trọng hơn hết là cung cấp những kiến nghị hữu ích giúp hồn thiện quy định về
2
thẩm quyền của trọng tài thương mại, thúc đẩy phương thức trọng tài thương mại
phát triển hơn nữa trong tương lai.
2.
Tình hình nghiên cứu
Qua quá trình khảo sát, tìm hiểu, tác giả nhận thấy vấn đề về thẩm quyền của
trọng tài thương mại đã được bàn luận ở một số cơng trình nghiên cứu. Theo đó, có
thể thống kê các cơng trình này như sau:
Thứ nhất, đối với các cơng trình nghiên cứu được thực hiện dưới dạng sách
chuyên khảo:
- Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby, Constantine Partasides
(2015), Trọng tài quốc tế, Nhà xuất bản Thanh niên.
Đây có thể xem là một trong những cơng trình nghiên cứu khá tồn diện về
pháp luật trọng tài thương mại. Các tác giả tiến hành bình luận đối với nhiều vấn đề
liên quan trong thủ tục, quy trình tố tụng trọng tài cũng như cung cấp các ví dụ
minh thị cho những vướng mắc trên thực tiễn. Đối với vấn đề về thẩm quyền của
trọng tài, cơng trình đã có sự phân tách đối với từng khía cạnh về thẩm quyền bao
gồm cơ sở của thẩm quyền, vấn đề khước từ thẩm quyền, quyền tự quản của pháp
luật trọng tài, thẩm quyền phân biệt của tòa án và trọng tài trong giải quyết tranh
chấp…Tại đây, các tác giả tiến hành so sánh quy định về thẩm quyền trong Quy tắc
UNCITRAL cũng như quy tắc của các trung tâm trọng tài quốc tế nhằm chỉ ra
những điểm nổi bật và thiếu sót trong pháp luật trọng tài tại Việt Nam.
- Tòa án nhân dân tối cao, World Bank Group (2007), Sổ tay pháp luật về
trọng tài và hòa giải, Nhà xuất bản Thanh niên.
Theo đó, cơng trình này thực hiện ghi nhận, bình luận những quy định pháp
luật về trọng tài thương mại. Đối với phần về thẩm quyền của trọng tài, cơng trình
cũng đã chỉ ra được một số vấn đề liên quan đến giá trị pháp lý của thỏa thuận trong
tài, nguyên tắc thẩm quyền của thẩm quyền trong pháp luật trọng tài…Tuy nhiên,
nhìn chung, cơng trình đa phần đi theo hướng phân tích, diễn giải quy định pháp
luật, mà chưa đi vào chi tiết, làm rõ về thực tiễn áp dụng hay những vướng mắc gặp
phải.
- Đỗ Văn Đại, Trần Hoàng Hải (2011), Pháp luật Việt Nam về trọng tài
thương mại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Đây được xem là một cơng trình nghiên cứu tương đối hồn thiện về pháp luật
trọng tài thời điểm khi Luật Trọng tài thương mại 2010 bắt đầu có hiệu lực. Ở cơng
trình nghiên cứu này, tác giả đã có một phần bình luận về vấn đề thẩm quyền của
3
trọng tài theo định hướng so sánh và chỉ ra một số điểm mới nổi bật của Luật Trọng
tài thương mại 2010 so với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Tác giả cũng đồng
thời có những phân tích và lý giải một số nhập nhằng trên thực tế trong thẩm quyền
của tòa án và trọng tài. Bằng việc cung cấp các thực tiễn áp dụng pháp luật cũng
như đối chiếu với khung pháp lý của một số quốc gia trên thế giới, tác giả đã đưa ra
nhiều thông tin về phạm vi thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của cơng trình rất rộng nên vấn đề về thẩm
quyền cũng khơng được đào sâu, phân tích một cách chi tiết.
- Đỗ Văn Đại (2017), Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam – Bản án và
bình luận bản án, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.
Tại cơng trình này, tác giả đã có những phân tích về điều kiện để hội đồng
trọng tài có thẩm quyền. Theo đó, trên cơ sở bình luận các vụ việc, tranh chấp trên
thực tế, tác giả đã có những nhận định đi vào chi tiết ở một số khía cạnh về thẩm
quyền hội đồng trọng tài. Đặc biệt, đối với nội dung về thẩm quyền của hội đồng
trọng tài, tác giả đã có một phần phân biệt tương đối chi tiết về thẩm quyền trọng tài
và thẩm quyền của hội đồng trọng tài nhằm minh chứng cho việc không phải bao
giờ hội đồng trọng tài cũng đương nhiên có thẩm quyền nếu thẩm quyền của trọng
tài phù hợp. Dù vậy, do khai thác đa dạng các phương diện của pháp luật trọng tài
nên cơng trình khơng có sự nghiên cứu quá sâu đối với vấn đề về thẩm quyền của
trọng tài.
Thứ hai, đối với các bài viết được đăng tải trên các tạp chí pháp luật có thể
kể đến:
- Nguyễn Thị Hằng Nga (2006), “Về thẩm quyền của trọng tài thương mại và
những lưu ý trong hoạt động thụ lý các tranh chấp có thỏa thuận trọng tài”, Tạp chí
Luật học, Số 7/2006, tr 32 – 36.
Trong bài viết này, tác giả làm rõ vấn đề thỏa thuận trọng tài bằng cách phân
tích các quy định có thể gây ảnh hưởng đến thẩm quyền của hội đồng trọng tài.
Theo đó, tác giả đi vào phân tích quy định liên quan đến thỏa thuận trọng tài vô
hiệu, cơ sở dẫn đến việc hội đồng trọng tài khơng có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp cùng quy định liên quan đến phân biệt thẩm quyền của tòa án và trọng tài. Tuy
nhiên, do bài viết được thực hiện trên cơ sở Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
nên các quy định được phân tích đều đã khơng cịn hiệu lực hoặc được chỉnh sửa,
bổ sung tại các văn bản quy phạm pháp luật về trọng tài sau này.
4
- Dương Anh Sơn (2009), “Những luận cứ để mở rộng thẩm quyền của trọng
tài”, Tạp chí Nhà nước pháp luật, Số 11/2009, tr 36 – 41.
Trong bài viết này, tác giả khơng tập trung phân tích nhiều về thẩm quyền của
trọng tài theo quy định pháp luật mà lồng ghép, xen kẽ các đặc điểm, điều kiện về
thẩm quyền của trọng tài nhằm làm rõ nội dung liên quan đến việc mở rộng thẩm
quyền của trọng tài trong các lĩnh vực khác bên cạnh lĩnh vực thương mại.
- Nguyễn Tiến Vinh (2009), “Xác định thẩm quyền của Trọng tài và vai trò
của tòa án trong việc xác định thẩm quyền của Trọng tài”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, Số 6 (254)/2009, tr 34 – 44.
Trong bài viết này, tác giả đã có sự phân tích về vấn đề thẩm quyền trọng tài ở
từng giai đoạn của quá trình tố tụng trọng tài, lần lượt là trước khi hội đồng trọng tài
được thành lập, sau khi hội đồng trọng tài được thành lập và sau khi có phán quyết
trọng tài. Tác giả đã có sự đối chiếu quy định về thẩm quyền trong Luật mẫu
UNCITRAL, pháp luật và án lệ của một số quốc gia như Hoa Kỳ, Pháp nhằm làm
rõ những điểm tích cực và hạn chế trong việc xác định thẩm quyền trọng tài. Từ
những tổng hợp đó, tác giả đưa ra các bình luận về quy định của pháp luật Việt Nam
liên quan đến thẩm quyền của trọng tài. Tuy nhiên, cũng tương tự như một số tác
giả khác, bài viết này được triển khai trên nền tảng của Pháp lệnh trọng tài thương
mại 2003 do đó có một vài quan điểm, lập luận khơng cịn phù hợp để áp dụng ở
hiện tại khi Luật Trọng tài thương mại 2010 cùng một số văn bản quy phạm pháp
luật khác đã có hiệu lực thi hành.
- Tưởng Duy Lượng (2015), “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của tòa án và
việc phân biệt thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa trọng tài và tòa án theo quy
định của Luật trọng tài thương mại và nghị quyết của Hội đồng thẩm phán tịa án
nhân dân tối cao”, Tạp chí tòa án nhân dân, Số 16/2015, tr.6 – 10.
Bài viết tập trung làm rõ “ranh giới” thẩm quyền của tòa án và trọng tài trong
giải quyết tranh chấp. Theo đó, tác giả có phần bình luận về các tranh chấp thuộc
thẩm quyền của trọng tài theo Điều 2 Luật Trọng tài thương mại, từ đó so sánh, làm
rõ về trách nhiệm của tòa án trong việc xác định tranh chấp có điều kiện nào thì
thuộc phạm vi giải quyết của tịa án và ngược lại, tranh chấp nào thì thuộc thẩm
quyền của trọng tài.
- Cao Anh Nguyên (2017), “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
trong thực tiễn hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 04 (322)/2017.
5
Bài viết chỉ ra các bất cập về phạm vi thẩm quyền của trọng tài cùng các đề
xuất về việc mở rộng thẩm quyền trọng tài trong một số lĩnh vực khác. Tác giả đưa
ra những bình luận đối với quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại và có
những phân tích, giải thích với từng trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của
trọng tài. Tuy vậy, bài viết chỉ chủ yếu làm rõ thế nào là tranh chấp kinh doanh
thương mại nên chưa mang tính tổng hợp cao về vấn đề thẩm quyền.
- Cao Anh Nguyên (2017), “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
trong lĩnh vực bất động sản”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Tháng 2/2017, tr.19 25.
Trong bài viết này, bằng việc phân tích và đánh giá Điều 2 Luật Trọng tài
thương mại 2010, tác giả đưa ra các lập luận về thẩm quyền của trọng tài trong giải
quyết các vấn đề về kinh doanh bất động sản. Nhìn chung, bài viết tập trung làm rõ
thế nào là hoạt động kinh doanh thương mại để xác định hoạt động kinh doanh bất
động sản có thuộc trường hợp có thể áp dụng trọng tài thương mại để giải quyết hay
không, mà không chú trọng q nhiều vào việc phân tích các góc cạnh về thẩm
quyền của trọng tài theo quy định pháp luật.
Thứ ba, đối với các cơng trình nghiên cứu dưới dạng Luận văn Thạc sĩ gồm
có:
- Trần Thị Kim Tuyến (2010), Thẩm quyền của tòa án trong tố tụng trọng tài
theo luật trọng tài thương mại năm 2010, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh.
Trong Luận văn này, tác giả đa phần tập trung nghiên cứu về thẩm quyền của
tòa án trong tố tụng trọng tài. Theo đó, tác giả tiến hành phân tích các quy định
pháp luận và đưa ra các bình luận, quan điểm về mức độ, phương thức can thiệp của
tòa án trong quá trình tố tụng trọng tài theo quy định của pháp luật. Để dẫn nhập
vào phần chính của đề tài nghiên cứu, tác giả đã có một phần đánh giá về thẩm
quyền của trọng tài. Điểm sáng của phần này là việc tác giả đã trích dẫn nhiều quan
điểm của các tác giả khác khi nhận định về vấn đề thẩm quyền, tuy nhiên, tác giả lại
khơng đi vào bình luận và đưa ra các so sánh cụ thể. Phần bàn luận về thẩm quyền
của trọng tài chỉ được khái quát chung theo định hướng diễn giải quy định pháp luật
do đây không thuộc phạm vi nghiên cứu chuyên sâu của đề tài.
- Đặng Minh Phương (2014), Thẩm quyền của hội đồng trọng tài thương mại
theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
6
Luận văn được triển khai, tập trung vào phân tích thẩm quyền của hội đồng
trọng tài thương mại. Theo đó, tác giả đưa ra các bình luận chung về thẩm quyền
của hội đồng trọng tài, đối chiếu thẩm quyền của hội đồng trọng tài so với tòa án. Ở
các chương tiếp theo của Luận văn, tác giả đi vào làm rõ từng thẩm quyền của hội
đồng trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp thơng qua việc phân tích quy
định pháp luật, chỉ ra các vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng quy định về
thẩm quyền của hội đồng trọng tài. Điểm nổi bật trong Luận văn này có thể kể đến
đó là việc tác giả có nhiều phần đối chiếu với pháp luật của một số quốc gia. Tuy
nhiên, đi cùng với những ưu điểm, các điểm hạn chế, bất cập chưa được tác giả khai
thác một cách đầy đủ, trọn vẹn. Riêng đối với phần về thẩm quyền của trọng tài
thương mại, yếu tố này chỉ được tác giả điểm qua khi phân tích khái quát về khái
niệm và đặc điểm của hội đồng trọng tài. Theo đó, thẩm quyền của trọng tài chỉ
được sử dụng như một “chất nền” để tác giả chi tiết hóa các thẩm quyền của hội
đồng trọng tài.
- Nguyễn Tiến Lực (2015), Quy định pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô
hiệu, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Trong Luận văn này, tác giả hướng đến việc nghiên cứu chuyên sâu các
trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Với việc vô hiệu của thỏa thuận trọng tài,
vấn đề về thẩm quyền của hội đồng trọng tài cũng được tác giả đưa vào trên cơ sở
phân tích về ý nghĩa, hậu quả pháp lý của vấn đề nghiên cứu. Tác giả đã có phần
bình luận cùng với đó là minh chứng bằng thực tiễn về thẩm quyền của hội đồng
trọng tài khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Dù vậy, do vấn đề thẩm quyền không phải
là nội dung chủ yếu của đề tài nên yếu tố này cũng khơng được tác giả bình luận
một cách chi tiết.
Qua tình hình nghiên cứu vừa nêu, nhận định rằng, tính đến thời điểm hiện tại,
vấn đề về thẩm quyền của trọng tài là vấn đề được bàn luận khá nhiều ở các bài
viết, bình luận, tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu chun sâu, đặc biệt đi sâu vào
vấn đề các vướng mắc về thẩm quyền vẫn cịn thiếu vắng. Do đó, thơng qua đề tài
“Pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương mại”, về nội dung, tác giả sẽ khắc
phục các hạn chế trên thông qua việc phân tích quy định pháp luật kết hợp minh
chứng qua thực tiễn nhằm chỉ rõ bất cập. Từ đó, tác giả tiến hành đề xuất những
định hướng phù hợp, có tính thực tiễn cao để khắc phục những khó khăn trong q
trình áp dụng pháp luật về thẩm quyền của trọng tài. Đồng thời, về hình thức, luận
văn sẽ theo định hướng tiếp thu hình thức triển khai cơ bản, khoa học từ các công
7
trình nghiên cứu trước đây, nhưng sẽ có sự đổi mới hơn về định hướng tiếp cận. Cụ
thể, tác giả sẽ triển khai Luận văn theo hướng so sánh, đối chiếu với pháp luật trọng
tài của một số quốc gia trên thế giới nhằm giúp việc phân tích đa dạng và khách
quan hơn.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Với đề tài này, mục đích nghiên cứu mà tác giả đặt ra như sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận và quy định pháp luật liên quan đến
thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài theo quy định của pháp luật trọng tài.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài và xác định những bất cập tồn tại gây ảnh
hưởng đến việc tiến hành quy trình tố tụng, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Thứ ba, đưa ra các kiến nghị phù hợp nhằm hoàn thiện khung pháp lý về thẩm
quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài thương
mại.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những quy định pháp luật về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại, cụ thể là quy định liên quan
đến các tranh chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài thương mại. Theo đó, tác giả tiếp
cận và làm rõ các vấn đề lý luận chung về thẩm quyền của trọng tài thương mại
thơng qua phân tích khái niệm, cơ sở kinh tế - xã hội về thẩm quyền của trọng tài
cùng với đó chỉ ra điểm khác biệt, cách phân định thẩm quyền của Trọng tài và tịa
án. Bên cạnh đó, tác giả cũng tiến hành phân tích, đối chứng việc giải quyết tranh
chấp trên thực tiễn để xác định các bất cập, vướng mắc trong quy định pháp luật về
thẩm quyền của trọng tài; từ đó đưa ra một số định hướng phù hợp, thiết thực hơn
nhằm hoàn thiện hơn quy định pháp luật.
Về phạm vi nghiên cứu, nhằm có cái nhìn khách quan và tồn diện hơn về quy
định liên quan đến thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại, tác giả tiến hành nghiên cứu dựa trên các văn bản pháp luật cả trong
và ngoài nước. Đối với pháp luật trong nước, tác giả tiến hành nghiên cứu các quy
định của Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, Luật Trọng tài thương mại năm
2010, Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP về hướng dẫn thi hành một số quy định Luật
Trọng tài thương mại; đồng thời kết hợp phân tích các quy định có liên quan được
đề cập trong Bộ luật dân sự 2015 số 91/2015/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2015
(BLDS 2015), Bộ luật tố tụng dân sự 2015 số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm
4.
8
2015 (BLTTDS 2015) cùng một số Luật chuyên ngành khác như Luật Đầu tư 2014,
Luật Đất đai 2013, Luật Kinh doanh Bất động sản 2014…Đối với pháp luật quốc tế,
tác giả thực hiện phân tích quy định của Cơng ước New York 1958 về công nhận và
thi hành các phán quyết của Trọng tài nước ngoài, Luật mẫu về trọng tài thương mại
quốc tế của Ủy ban Liên Hiệp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL) và
đối chiếu với pháp luật trọng tài của một số quốc gia cũng như quy tắc của một số
tổ chức trọng tài trên thế giới khác.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp được sử dụng xuyên suốt trong
luận văn với mục đích chính là lý giải và làm sáng tỏ những vấn đề được liệt kê, đề
cập. Theo đó:
Tại Chương 1, phương pháp này được áp dụng để làm rõ các vấn đề lý luận
chung về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại như khái niệm,
cơ sở kinh tế - xã hội về hình thành chính sách và pháp luật về phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài, điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và
phân biệt thẩm quyền giữa Trọng tài, tòa án.
Tại Chương 2, phương pháp này được sử dụng để phân tích những điểm mới,
hồn thiện cũng như các điểm còn bất cập của pháp luật trọng tài liên quan đến giải
quyết các vấn đề về thẩm quyền của trọng tài. Song song với đó, phương pháp phân
tích cũng được vận dụng để bình luận về thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài, từ đó minh chứng cụ thể hơn cho những khó khăn, hạn chế pháp luật còn vướng
phải. Đồng thời, phương pháp này cũng được áp dụng để tác giả phân tích các kiến
nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện hơn quy định pháp luật về thẩm quyền của trọng tài.
Phương pháp so sánh: Đây là phương pháp được tác giả vận dụng tương đối
nhiều ở hai chương. Cụ thể, trong q trình phân tích, tác giả sẽ liên tục có sự so
sánh đối chiếu với pháp luật trọng tài của các quốc gia trên thế giới so với pháp luật
trọng tài Việt Nam nhằm tìm ra được những ưu điểm và cả những hạn chế, thiếu sót
cịn tồn tại; những điểm cần học hỏi, chọn lọc, hoàn thiện. Phương pháp so sánh đối
chiếu giúp hoạt động lý luận, phân tích bao quát, đa dạng và khách quan hơn.
Phương pháp đánh giá: Tác giả sử dụng phương pháp này trong việc đưa ra
các nhận xét, kết luận sau quá trình lập luận, khai thác vấn đề; từ đó, cung cấp cái
nhìn tổng quan cho từng luận điểm được đưa ra.
Bên cạnh các phương pháp vừa được nêu, tác giả cũng đồng kết hợp sử dụng
các phương pháp như thu thập, thống kê, chứng minh, tổng hợp nhằm bổ trợ cho
5.
9
việc triển khai luận văn được khoa học, dễ hiểu, đảm bảo định hướng đi từ lý luận
đến thực tiễn một cách hiệu quả.
Bố cục luận văn
Luận văn được triển khai gồm 02 chương chính:
Chương 1: Lý luận chung về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương mại và
kiến nghị hoàn thiện
6.
10
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài là một trong những nội dung
quan trọng của pháp luật trọng tài. Thẩm quyền của trọng tài được xem là điều kiện
cần để tổ chức trọng tài (trọng tài quy chế) hoặc trọng tài vụ việc thụ lý vụ tranh
chấp để giải quyết. Nếu tranh chấp không thuộc thẩm quyền của trọng tài, kể cả
trường hợp thỏa thuận trọng tài có được các bên thỏa thuận, thì hội đồng trọng tài
cũng buộc phải đình chỉ và “giao lại” vụ tranh chấp cho tòa án2. Nhận thấy, với tầm
quan trọng như vậy, lẽ ra vấn đề thẩm quyền cần được hiểu một cách chính xác,
thống nhất. Tuy nhiên, thực tế vận hành tố tụng lại cho thấy việc xác định tranh
chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài vướng phải rất nhiều luồng quan điểm trái
chiều; dẫn đến q trình giải quyết tranh chấp gặp khơng ít khó khăn. Nhằm tạo cơ
sở giải thích và định hướng giải quyết các trở ngại nói trên, trước hết cần đi vào
xem xét, phân tích các vấn đề xoay quanh thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
trọng tài thương mại, bao gồm lý luận chung về trọng tài thương mại, thẩm quyền
của trọng tài thương mại cùng với đó là các nội dung phân biệt thẩm quyền của
trọng tài thương mại so với tòa án.
1.1. Khái quát chung về phương thức trọng tài thương mại
1.1.1. Khái niệm về trọng tài thương mại
Về định nghĩa trọng tài, trong cuốn sách “The idea of arbitration”, tác giả
Paulsson viết: “Khái niệm trọng tài là khái niệm về một biện pháp giải quyết tranh
chấp, có tính ràng buộc, được chấp nhận tự nguyện bởi những người phải chịu kết
luận của nó vì lịng tin đặc biệt của họ vào người đưa ra quyết định”. Khái niệm
này đã phản ánh thực tế quá trình hình thành của hình thức trọng tài từ thời kỳ đầu
cho đến khi nó trở thành một cơ chế xét xử tương đương tịa án. Theo đó, trong thời
kỳ đầu, khi chưa có tên gọi chính thức, trọng tài được hiểu đơn giản là một phương
thức riêng tư của các thương nhân nhằm giải quyết xung đột trong quá trình thực
hiện hoạt động giao thương của mình thơng qua một bên thứ ba (thường là người họ
biết và tin tưởng) và thỏa thuận sẽ tuân theo quyết định của người đó. Cách làm này
giúp các bên hạn chế được việc áp dụng các chế tài pháp lý và vẫn duy trì được
“quan hệ làm ăn” với nhau. Tuy nhiên, việc để một hệ thống công lý tư vận hành
2
Theo Khoản 1 Điều 18 Luật Trọng tài Thương mại 2010: “Thỏa thuận trọng tài vô hiệu: Tranh chấp phát
sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 Luật này”
11
mà khơng có một hành lang pháp lý cụ thể là khó chấp nhận ở đa số các quốc gia,
chính bởi thế, luật quốc gia về trọng tài dần được hình thành nhằm điều chỉnh hoạt
động của trọng tài khơng chỉ trong quốc gia mà còn trong tranh chấp xảy ra giữa các
chủ thể ở quốc gia này với chủ thể thuộc quốc gia khác. Sự ra đời hàng loạt các hiệp
định, cơng ước sau đó đã đánh dấu nhiều cột mốc quan trọng cho thấy sự phổ biến
và phát triển của phương thức trọng tài, theo đó có thể kể đến một số quy định quan
trọng như: Nghị định thư Geneva năm 1923, Công ước Geneva 1927, Công ước
New York năm 1958 về công nhận và thi hành các quyết định trọng tài nước ngồi,
Cơng ước của Trung tâm giải quyết tranh chấp Đầu tư Quốc tế (ICSID) năm 1965
về giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia và công dân của các quốc gia khác,
Quy tắc Trọng tài của UNCITRAL, Luật Mẫu UNCITRAL về trọng tài thương
mại…Các hiệp định, công ước này đã đánh dấu bước phát triển mới của trọng tài,
đưa phương thức này trở thành một trong những cơ chế giải quyết tranh chấp được
điều chỉnh cụ thể bởi quy định pháp luật. Không chỉ vậy, các hiệp định, công ước
này cũng là cơ sở để những quốc gia trên thế giới xây dựng hệ thống quy định pháp
luật về trọng tài quốc gia phù hợp, hiệu quả.
Tại Việt Nam, theo Khoản 1 Điều 3 LTTTM: “Trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo
quy định của Luật này”. So với khái niệm về trọng tài của một số quốc gia, khái
niệm “trọng tài thương mại” trong Luật trọng tài của Việt Nam đã nhấn mạnh được
vào hai trọng tâm trong tố tụng trọng tài đó là cơ sở nền tảng của thẩm quyền trọng
tài và luật điều chỉnh tố tụng trọng tài. LTTTM đã tiếp thu những nguyên tắc cơ bản
nhất về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trên thế giới và trong Luật Mẫu
UNCITRAL chẳng hạn nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận các bên, tính độc lập của
thỏa thuận trọng tài, quyền được tự xem xét vấn đề thẩm quyền của hội đồng trọng
tài, tính chung thẩm của phán quyết trọng tài, nguyên tắc bảo mật... Những nguyên
tắc này giúp đảm bảo cho hoạt động giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng
tài tại Việt Nam phù hợp, tương thích với thực tiễn trọng tài thế giới; khuyến khích
việc áp dụng trọng tài giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Bên cạnh đó, định nghĩa
về trọng tài trong LTTTM cịn nêu rõ vấn đề về luật điều chỉnh tố tụng trọng tài.
Theo đó, luật điều chỉnh tố tụng trọng tài (lex arbitri) là luật của nơi tiến hành trọng
tài. Quy định này đồng nhất với quy định về vận hành tố tụng của hầu hết các quốc
gia trên thế giới. Tuy vậy, vẫn có một số quốc gia cho phép việc áp dụng quy tắc
UNCITRAL trong việc tiến hành tố tụng trọng tài bên cạnh việc sử dụng pháp luật
12
của nơi tiến hành tố tụng trọng tài, Luật Trọng tài Hồng Kơng là một ví dụ điển
hình. Theo đó, Điều 4 Luật trọng tài thương mại Hồng Kông quy định: “Luật Mẫu
UNCITRAL được nêu tại Sắc lệnh khi có hiệu lực sẽ được xem là nguồn luật bắt
buộc tại Hồng Kông tùy thuộc vào các sửa đổi và bổ sung tại Sắc lệnh này”3. Điều
này là dễ hiểu bởi rõ ràng Luật Mẫu UNCITRAL vốn là nền tảng, là bản mẫu để các
quốc gia xây dựng luật trọng tài của riêng mình; việc có sự khác biệt trong cách áp
dụng luật điều chỉnh tố tụng xuất phát phần lớn từ yếu tố pháp luật quốc gia, tính
thống nhất và hiệu quả trong vận hành tố tụng trọng tài ở từng quốc gia.
1.1.2. Cơ sở kinh tế - xã hội về hình thành chính sách và pháp luật về
trọng tài thương mại
a. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại trên thế giới
So với tòa án, về mặt lịch sử, trọng tài là phương thức xuất hiện sớm hơn khi
phương thức này ra đời cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế
hàng hóa. Hai thương nhân, trong tranh chấp về giá cả hoặc chất lượng hàng hóa
được giao, sẽ tìm tới một bên thứ ba, người mà họ biết và tin tưởng, thỏa thuận
cùng tuân theo quyết định của người đó thay vì việc buộc nhau phải chịu một chế
tài pháp lý nào đó. Với sự vận hành của hoạt động giao thương, có thể thấy, phương
thức trọng tài được hình thành từ rất lâu và được xem là một cơ chế “cơng lý tư”, có
thể diễn ra ở bất kỳ thời điểm nào, khơng có sự giám sát hay can thiệp của các cơ
quan tư pháp mà chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của các bên. Hình thái đầu tiên về
trọng tài được cho là bắt nguồn từ các quốc gia bang cổ Hy Lạp, cổ La Mã, thời
Xuân Thu Chiến Quốc cũng có ghi chép lại về hình thức này.
Người Hy Lạp và La Mã cổ đại trước đây đã biết sử dụng trọng tài để giải
quyết các tranh chấp. Theo đó, quy định sơ khai về trọng tài trong luật mua bán
hàng hóa cho phép các lái bn được tự phân xử bất hịa của mình mà khơng cần
phải có sự can thiệp của Nhà nước. Về sau, Luật La Mã cũng cho phép mở rộng
phạm vi áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp này cho các hoạt động ngoại
thương với các quốc gia khác trên khắp lục địa châu Âu thay vì giới hạn sử dụng
trong lãnh thổ của mình.
“The provisions of the UNCITRAL Model Law that are expressly stated in this Ordinance as having effect
have the force of law in Hong Kong subject to the modifications and supplements as expressly provided for in
this Ordinance”
3
13
Anh Quốc, nơi được mệnh danh là “cái nôi của trọng tài”, cũng là một trong
số các quốc gia đưa trọng tài vào việc giải quyết tranh chấp khá sớm. Trước khi có
văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài, phương thức này cũng đã được sử dụng rất phổ biến trong giới
thương nhân. Bằng chứng là, mặc dù Đạo luật Trọng tài Anh ra đời năm 1698
nhưng phán quyết đầu tiên của trọng tài ở đất nước này lại được ban hành năm
1610. Tuy nhiên, các quy định sơ khai về trọng tài trong hệ thống thông luật
(Common Law) lại tồn tại một nhược điểm, hạn chế khá quan trọng đó là một trong
các bên tham gia tranh chấp có thể khước từ việc thực hiện phán quyết trọng tài nếu
thấy phán quyết đó gây bất lợi cho mình. Hệ quả này đã phần nào phản ánh sự chưa
hoàn tồn hợp thức hóa phương thức trọng tài cũng như ghi nhận thẩm quyền của
trọng tài trong giải quyết tranh chấp. Đến năm 1697, hạn chế này đã được khắc
phục, cùng với đó, Luật Trọng tài Anh tiếp tục được sửa đổi, bổ sung theo hướng
thúc đẩy, tự do hóa hơn hoạt động trọng tài4.
Hoa Kỳ cũng là một trong số các quốc gia sử dụng phương thức trọng tài từ
khá sớm. Theo đó, năm 1794, trong q trình giải quyết tranh chấp giữa Mỹ và Anh
về vấn đề các khoản nợ và thỏa thuận biên giới, thỏa thuận trọng tài được quy định
rõ sẽ được áp dụng trong Hiệp ước Jay 1794 (Jay’s Treaty 1794). Trong vòng mười
năm đầu của thế kỷ XX, đa phần các thương nhân đều áp dụng phương thức trọng
tài giải quyết tranh chấp dựa trên một số lợi ích nổi bật như tính đơn giản, thời gian
và hạn chế tối đa các xung đột. Phương thức giải quyết tranh chấp thay thế
(Alternative Dispute Resolution – ADR) cũng được sử dụng trong giải quyết các
tranh chấp về lao động. Qua thời gian, pháp luật trọng tài của Hoa Kỳ ngày càng
hoàn thiện, năm 1925, Luật Trọng tài Liên bang được ban hành. Sự ban hành này
được hiểu là sự nhìn nhận về giá trị, lợi ích của phương thức trọng tài trong chính
sách quốc gia, từ đây, Hoa Kỳ đã đưa hoạt động trọng tài vào phạm vi điều chỉnh,
thúc đẩy sự phát triển của phương thức này. Một cột mốc quan trọng khác đánh dấu
lịch sử hình thành của phương thức trọng tài tại Hoa Kỳ đó là sự hình thành của
Cơng ước cơng nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngồi (hay có tên
gọi khác là Cơng ước New York) vào năm 1980. Bằng sự bổ sung Chương 2 vào
“Lược sử phát triển của trọng tài thương mại và pháp luật về trọng tài thương mại trên thế giới”,
truy cập ngày 11/6/2020.
4
14