Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Một số vấn đề về trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.82 MB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
----------

ĐỖ THỊ THƯƠNG HUYỀN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN
VỤ ÁN DÂN SỰ

KHÓA LUẬN CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 5 – NĂM 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN
VỤ ÁN DÂN SỰ

Giảng viên hướng dẫn: TS. ĐẶNG THANH HOA
Sinh viên thực hiện: ĐỖ THỊ THƯƠNG HUYỀN
Lớp: Dân sự 40A.1
Khóa: 40
MSSV: 1553801012086


TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 5 – NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Đặng Thanh Hoa, đảm bảo tính trung
thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả khóa luận

Đỗ Thị Thương Huyền


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

TỪ VIẾT TẮT

TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT

1.

BHXH

Bảo hiểm xã hội

2.

BLTTDS


Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTDS 2004

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01/01/2005 và
được sửa đổi, bổ sung năm 2011 theo
Luật số 65/2011/QH12 có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/01/2012

BLTTDS 2015

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01/07/2016 (Luật
số 92/2015/QH13) ngày 25/11/2015

Nghị quyết 04/2017/NQ

Nghị quyết số 04/2017/NQ ngày 05/05/2017
hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và
khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số
92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện,
quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án do Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
ban hành

6.

Nghị quyết

326/2016/UBTVQH

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tịa án do Ủy ban Thường
vụ Quốc hội ban hành

7.

NLĐ

Người lao động

8.

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

9.

TAND

Tòa án nhân dân

10.

TANDTC


Tòa án nhân dân tối cao

11.

TTDS

Tố tụng dân sự

12.

TƯAP

Tạm ứng án phí

13.

VADS

Vụ án dân sự

14.

VKS

Viện Kiểm sát

3.

4.


5.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài............................................................. 5
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ................................................ 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................... 6
6. Bố cục của khóa luận ......................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN DO NGƯỜI KHỞI KIỆN KHÔNG
ĐÁP ỨNG ĐIỀU KIỆN DO PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH ........................................ 7
1.1. Do người khởi kiện khơng có quyền khởi kiện hoặc khơng có đủ năng
lực hành vi tố tụng dân sự ..................................................................................... 7
1.1.1. Do người khởi kiện khơng có quyền khởi kiện.......................................... 7
1.1.2. Do người khởi kiện khơng có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự ........ 17
1.2. Do người khởi kiện khơng nộp tạm ứng án phí theo quy định của pháp
luật ......................................................................................................................... 19
1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa của tạm ứng án phí .................................................. 19
1.2.2. Trường hợp trả lại đơn khởi kiện vì người khởi kiện khơng nộp TƯAP ....
............................................................................................................................ 22
1.3. Do người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu
của Thẩm phán ..................................................................................................... 24
1.3.1. Thực trạng quy định của pháp luật về sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện . 24
1.3.2. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về
trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện do người khởi kiện không sửa đổi, bổ
sung đơn khởi kiện ............................................................................................. 26
CHƯƠNG 2. TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN DO VỤ ÁN KHƠNG THUỘC
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CỦA TỊA ÁN .................................................... 33



2.1. Khái quát chung thẩm quyền về dân sự của Tòa án nhân dân ............... 33
2.1.1. Khái niệm, ý nghĩa thẩm quyền về dân sự của Tòa án nhân dân........... 33
2.1.2. Các loại thẩm quyền về dân sự của Tòa án ............................................ 34
2.2. Trả lại đơn khởi kiện VADS trong trường hợp khơng thuộc thẩm quyền
của Tịa án ............................................................................................................. 38
2.2.1. Căn cứ trả lại đơn khởi kiện khi không thuộc thẩm quyền của Tòa án . 38
2.2.2. Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện đối với việc trả lại đơn khởi kiện do
vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. .................................... 40
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đề cao và bảo hộ quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền dân
sự đã được ghi nhận cụ thể tại Hiến pháp 2013 ban hành ngày 28/11/2013, có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014.
Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định:
“1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Sự bảo hộ quyền dân sự một lần nữa được khẳng định tại Điều 2 BLTTDS
2015:

“1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền dân sự được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Cũng theo BLTTDS 2015 cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định
có quyền khởi kiện VADS, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền
để u cầu Tịa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.1
Khởi kiện chính là hành vi tố tụng đầu tiên, là cơ sở tiền đề làm phát sinh
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là yếu tố tiên quyết để phát sinh VADS. Tòa án
chỉ thụ lý giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện hợp pháp của đương sự.
Một trong các hoạt động quan trọng nhất của công tác thụ lý VADS đó là
Tòa án nhận và xem xét đơn khởi kiện. Sau khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án sẽ tiến
hành xem xét đơn khởi kiện đó, và trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu
1

Điều 4 BLTTDS 2015.


2
thuộc trường hợp Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện theo quy định của pháp luật
TTDS, hoặc sẽ chuyển đơn khởi kiện đến Tịa án có thẩm quyền giải quyết nếu
thuộc trường hợp Tòa án phải chuyển đơn khởi kiện của người khởi kiện đến Tịa
án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật TTDS. Có thể thấy việc trả
lại đơn khởi kiện sẽ phải được tiến hành sau một khoảng thời gian hợp lý do các nhà
làm luật dự liệu để Tòa án xem xét xem có thuộc trường hợp phải trả lại đơn khởi
kiện hay khơng. Nếu trả lại đơn khởi kiện thì có nghĩa là Tòa án đang tiến hành giải
quyết trường hợp mà Tịa án khơng thụ lý VADS.2
BLTTDS 2004 sửa đổi năm 2011 quy định việc trả lại đơn khởi kiện tại Điều

168. BLTTDS 2015 thay thế BLTTDS 2004 sửa đổi năm 2011 đã có những sửa đổi,
bổ sung quy định về việc trả lại đơn khởi kiện tại Điều 192 trên tinh thần bảo vệ
triệt để hơn quyền và lợi ích của các chủ thể khi quy định Tòa án sẽ khơng được từ
chối thụ lý vụ việc vì đã hết thời hiệu khởi kiện. Nhưng những quan hệ xã hội thuộc
các lĩnh vực dân sự; hôn nhân và gia đình; kinh doanh, thương mại; lao động là
những quan hệ luôn vận động, không ngừng biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội
khiến sự quy định tại Điều 192 trở nên bất cập gặp phải nhiều vướng mắc về các
căn cứ trong các trường hợp trả lại đơn khởi kiện, về hoạt động kiểm soát việc trả
lại đơn khởi kiện…
Do đó, tác giả thực hiện khóa luận với đề tài “Một số vấn đề về trả lại đơn
khởi kiện vụ án dân sự” mong muốn tìm hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật
TTDS về vấn đề trả lại đơn khởi kiện VADS từ đó cố gắng đưa ra các ý kiến đóng
góp vào việc hồn thiện hệ thống pháp luật để nó phát huy hiệu quả hơn vai trị là
cơng cụ bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân.
2. Tình hình nghiên cứu
Sau khi BLTTDS 2004 có hiệu lực pháp luật và được sửa đổi bổ sung năm
2011, đã có rất nhiều các cơng trình khoa học được nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau như:
Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (chủ biên) và nhóm tác
giả (2012), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, NXB Lao động - Xã
hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
2

/>(truy cập ngày 11/05/2019).


3
Trong cơng trình, các tác giả đã đối chiếu chỉ ra sự khác biệt của Luật sửa
đổi, bổ sung năm 2011 so với BLTTDS 2004, lý giải và đưa ra bình luận những sự
thay đổi của Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011 so với BLTTDS 2004, trong đó có chế

định Trả lại đơn khởi kiện và hậu quả pháp lý của việc trả lại đơn khởi kiện.
Và những bài nghiên cứu ngắn được đăng tải trên một số tạp chí chun mơn
như: Đặng Hồng Qn (2013), “Chủ thể khởi kiện VADS và thực tiễn áp dụng”,
Tạp chí Tịa án nhân dân, (23); Đặng Thanh Hoa (2012), “Đảm bảo quyền khởi
kiện VADS theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung luật tố tụng dân sự”, Tạp chí
Khoa học pháp lý, (02); Đoàn Đức Lương - Đào Mai Hường (2013), “Cần sửa đổi
quy định về thời hiệu khởi kiện trong Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự hiện
hành”, Tạp chí Kiểm sát, (19); Nguyễn Như Bích (2013), “Một vài ý kiến về một số
trường hợp áp dụng không đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về khởi kiện
và thụ lý vụ án”, Tạp chí Tịa án nhân dân, Tịa án nhân dân tối cao, (10); Nguyễn
Sơ Hải (2014), “Thống nhất nhận thức quy định về áp dụng pháp luật về thời hiệu
khởi kiện để nâng cao chất lượng giải quyết các VADS tại Tịa án nhân dân”, Tạp
chí Tịa án nhân dân, (03); Nguyễn Thị Hương (2011), “Những quy định mới về
khởi kiện và thụ lý VADS theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố
tụng dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân, (19); Nguyễn Thanh Hải (2013), “Trả lại
đơn kiện hay thụ lý giải quyết”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (22)…
BLTTDS 2015 ra đời đã đánh dấu nhiều thay đổi cơ bản, khắc phục được
nhiều điểm bất cập, thiếu sót trong BLTTDS 2004. Đối với hoạt động trả lại đơn
khởi kiện của Tòa án, BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm một số nội dung rất tiến bộ
nên đã có thêm nhiều cơng trình nghiên cứu khác về chế định trả lại đơn khởi kiện
và các chế định liên quan:
Nguyễn Thị Hương (2019), Khởi kiện và thụ lý VADS - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Đây là cơng trình nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về khởi
kiện và thụ lý VADS với đầy đủ những cơ sở lý luận, kinh nghiệm nước ngoài, thực
trạng thi hành pháp luật và kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, trong luận án,
vấn đề trả lại đơn khởi kiện chỉ là vấn đề đi kèm có liên quan tới khởi kiện và thụ lý
VADS nên không được tác giả đề cập và nghiên cứu một cách chuyên sâu.
Ngoài ra cịn có một số cơng trình nghiên cứu có liên quan một cách gián
tiếp đến đề tài của tác giả như: Lê Thu Hà (2016), Bình luận khoa học một số vấn



4
đề pháp lý của pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng, NXB Tư pháp;
Nguyễn Thị Hoài Phương (chủ biên) và nhóm TG (2016), Bình luận những điểm
mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt
Nam; Trần Anh Tuấn (Chủ biên) và nhóm TG (2016), Bình luận khoa học Bộ luật
Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, NXB
Tư pháp; Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật tố tụng
dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam; Đại học Luật Hà Nội
(2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội; Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình Luật tố tụng dân sự
Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội; Bế Hoài
Anh (2016), “Quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thẩm quyền sơ
thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ”, Tạp chí Khoa học kiểm sát, (03); Đặng
Thanh Hoa, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2016), “Sửa đổi về thẩm quyền của Tòa án
theo lãnh thổ quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí Khoa học
pháp lý, (06); Nguyễn Nam Hưng (2017), “Vai trò bảo vệ quyền con người của
Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát trả lại đơn kiện”, Tạp chí Khoa học Kiểm
sát, (21); Nguyễn Nam Hưng (2018), “Xác định người khởi kiện trong VADS từ
góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, (05); Bùi Thị
Huyền (2017), “Khởi kiện VADS theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015”, Tạp chí Kiểm sát, (12)...
Đây là những tài liệu hữu ích trong q trình nghiên cứu đề tài khóa luận, đã
giúp tác giả có một cái nhìn tổng thể hơn đối với từng khía cạnh của đề tài cũng như
nắm bắt được sự khác biệt giữa BLTTDS 2015 và BLTTDS 2004, sự thay đổi mang
hướng tiến bộ hơn của BLTTDS 2015.
Tuy nhiên, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một cách khái
quát về chế định trả lại đơn khởi kiện hoặc tiếp cận một cách riêng lẻ một vài khía cạnh
mà chưa có sự nghiên cứu chun sâu từng trường hợp trả lại đơn khởi kiện và sự liên

kết giữa từng trường hợp trả lại đơn khởi kiện và hậu quả pháp lý của nó.
Với tình hình trên, tác giả thực hiện đề tài khóa luận này mong muốn nghiên
cứu một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ về một số vấn đề của trả lại đơn khởi
kiện VADS.


5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích:
- Nghiên cứu một cách hệ thống và làm sáng tỏ những quy định trong Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 về một số vấn đề của trả lại đơn khởi kiện VADS.
- Phân tích và chỉ ra những hạn chế, bất cập trong thực trạng áp dụng pháp
luật. Trên cơ sở đó, đề xuất các kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về một số vấn đề
trong việc trả lại đơn khởi kiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành
về một số trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện VADS.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam;
nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài để chỉ ra những bất cập, vướng mắc về một số
vấn đề trong trả lại đơn khởi kiện VADS.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về việc trả lại đơn
khởi kiện VADS.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận này là những quy định của pháp luật
Việt Nam trong BLTTDS 2015, trong các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTDS
2015 về việc trả lại đơn khởi kiện VADS. Bên cạnh đó, tác giả nghiên cứu những
quy định trong BLTTDS 2004 sửa đổi năm 2011 và pháp luật liên quan để so sánh
với BLTTDS 2015. Đồng thời tác giả cũng nghiên cứu sự quy định của pháp luật
nước ngoài về các nội dung liên quan đến việc trả lại đơn khởi kiện tại Tòa án.

Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
những quy định của pháp luật có liên quan về căn cứ Tịa án trả lại đơn khởi kiện
mà không đi vào nghiên cứu các nội dung khác về chủ thể, thủ tục, trình tự hay cách
thức xem xét, thực hiện, hậu quả pháp lý. Và tác giả chỉ nghiên cứu các trường hợp
trả lại đơn do người khởi kiện không đáp ứng điều kiện do pháp luật quy định và do
vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án mà khơng nghiên cứu các


6
trường hợp trả lại đơn khởi kiện còn lại là trả lại đơn khởi kiện vì chưa có đủ điều
kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật; trả lại đơn khởi kiện vì sự việc đã được
giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án hoặc quyết
định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; trả lại đơn khởi kiện vì
người khởi kiện rút đơn khởi kiện, trả lại đơn khởi kiện vì chưa có đủ điều kiện
khởi kiện theo quy định của pháp luật.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của khóa luận là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước và pháp luật để quản lý Nhà nước, quản lý xã hội; chủ
trương, quan điểm về việc xây dựng BLTTDS.
Cơ sở thực tiễn của khóa luận là tình hình thực tiễn thụ lý xét xử các VADS
tại phiên Tòa và qua các bản án dân sự, các thơng báo của Tịa án trên địa bàn tồn
quốc, các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của Tịa án nhân dân.
Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân
tích, tổng hợp, lơgic, quy nạp, khảo sát thăm dị lấy ý kiến trong phạm vi những
người làm công tác thực tiễn, sử dụng kết quả thống kê… nhằm làm sáng tỏ các vấn
đề trong nội dung luận văn.
6. Bố cục của khóa luận

Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, nội dung khóa luận bao gồm:
Chương 1: Trả lại đơn khởi kiện do người khởi kiện không đáp ứng điều
kiện do pháp luật quy định.
Chương 2: Trả lại đơn khởi kiện do vụ án không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án.


7
CHƯƠNG 1
TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN DO NGƯỜI KHỞI KIỆN
KHÔNG ĐÁP ỨNG ĐIỀU KIỆN DO PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH
Khởi kiện VADS là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác
theo quy định của pháp luật TTDS nộp đơn u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác.3
Người khởi kiện hay còn gọi là chủ thể khởi kiện, là các chủ thể theo quy
định của pháp luật được tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS, gồm cá nhân, cơ
quan, tổ chức giả thiết rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hay có
tranh chấp, thực hiện hành vi gửi đơn khởi kiện tới Tòa án yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình hoặc các chủ thể khác trong phạm vi
nhiệm vụ quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật khởi kiện để bảo vệ lợi
ích của người khác, lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước. Chính chủ thể khởi
kiện là người làm phát sinh VADS. Nếu khơng có hành vi khởi kiện của họ thì
VADS sẽ khơng phát sinh.
Nhưng khơng phải bất cứ khi nào người khởi kiện gửi đơn khởi kiện tới Tịa
án thì Tịa án đều thụ lý giải quyết, nếu người khởi kiện không đáp ứng những điều
kiện do pháp luật quy định, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện, ở đây được hiểu là
những yêu cầu người khởi kiện phải đáp ứng, những việc mà người khởi kiện phải
làm thì mới có thể được khởi kiện VADS.
Sau đây, tác giả phân tích các trường hợp người khởi kiện không đáp ứng

điều kiện do pháp luật quy định.
1.1. Do người khởi kiện khơng có quyền khởi kiện hoặc khơng có đủ
năng lực hành vi tố tụng dân sự
1.1.1. Do người khởi kiện khơng có quyền khởi kiện
Để thực hiện được hành vi khởi kiện ra Tòa, trước nhất người khởi kiện phải
có quyền khởi kiện.
Pháp luật TTDS cho phép cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác nộp
đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, hoặc lợi
ích của người khác, hoặc lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng khi cho rằng
3

Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 241.


8
quyền và lợi ích hợp pháp đó bị xâm phạm hay có tranh chấp. Việc thực hiện quyền
này của các chủ thể trên thực tế chính là hành vi khởi kiện VADS.
Pháp luật TTDS Việt Nam không đưa ra khái niệm quyền khởi kiện nhưng
quy định các chủ thể có quyền khởi kiện ở Điều 186, 187 BLTTDS 2015.
Chủ thể khơng có quyền khởi kiện là những chủ thể khơng rơi vào những
chủ thể được quy định tại Điều 186, 187 BLTTDS 2015 và được hướng dẫn chi tiết
tại Điều 2 Nghị quyết 04/2017/NQ. Kết hợp với Điều 186, 187 BLTTDS 2015 có
thể nhận thấy, chủ thể khơng có quyền khởi kiện gồm:
Thứ nhất. Không phải là chủ thể giả thiết có quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm hay tranh chấp.
Pháp luật trao cho các chủ thể quyền khởi kiện, ý nghĩa trước tiên đây là
quyền để các chủ thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng con đường
khởi kiện ra Tịa án. Do đó, nếu khơng có quyền và lợi ích giả thiết bị xâm phạm thì
các chủ thể đó không được khởi kiện. Mặt khác, nếu quan hệ pháp luật phát sinh
tranh chấp xâm phạm tới quyền và lợi ích của một chủ thể nào đó thì bản thân chủ

thể đó sẽ tự mình quyết định có khởi kiện hay khơng để bảo vệ quyền và lợi ích của
họ (nhưng họ phải có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự).4
Ví dụ trường hợp sau: Căn nhà của ông bà A, B tọa lạc tại số 20 đường D,
quận H, Tp. Hà Nội giáp với căn nhà số 21 của bà T. Nguồn gốc giữa hai căn nhà
có phần đất trống diện tích 2,5m2. Ơng bà A, B cho rằng phần đất này không thuộc
quyền sử dụng của riêng ai, mà thuộc quyền quản lý của Nhà nước. Nay bà T lấn
chiếm đất sử dụng. Vì vậy, ơng A bà B khởi kiện yêu cầu bà T phải giữ nguyên hiện
trạng đất trống giữa hai căn nhà và cơng nhận diện tích đất trống này thuộc Nhà
nước quản lý. Trong trường hợp này, nếu ông A bà B chỉ u cầu cơng nhận diện
tích đất đó là của Nhà nước thì ơng A bà B khơng phải là chủ thể giả thiết có quyền
và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, do đó ông A bà B không có tư cách khởi kiện vụ
án nêu trên.5
Tuy nhiên vấn đề đặt ra là theo quy định tại Điều 186 BLTTDS thì cơ quan, tổ
chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ
án tại Tịa án có thẩm quyền để u cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
4
5

Sẽ phân tích ở mục 1.2.
Học viện tư pháp (2007), Kỹ năng giải quyết vụ việc dân sự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 86.


9
nhưng lại không quy định rằng những cá nhân, cơ quan, tổ chức đó có nhất thiết phải
là một bên chủ thể trong quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp hay không?
Nếu hiểu rằng, họ phải là một bên chủ thể đã tham gia vào quan hệ pháp luật
phát sinh tranh chấp đồng thời có quyền và lợi ích hợp pháp giả thiết bị xâm phạm
thì những cá nhân không tham gia trực tiếp vào quan hệ pháp luật phát sinh tranh
chấp mà có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi quan hệ đó sẽ không có
quyền khởi kiện.

Bên cạnh đó, nếu hiểu theo cách này, cơ quan, tổ chức ở đây phải có tư cách
pháp nhân bởi lẽ Điều 1 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chủ thể của quan hệ pháp luật
dân sự gồm cá nhân và pháp nhân.
Do đó, việc quy định chủ thể có quyền khởi kiện gồm “cơ quan, tổ chức, cá
nhân” như Điều 186 BLTTDS để tương thích với chủ thể của quan hệ pháp luật dân
sự quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 thì phải sửa đổi Điều 186 BLTTDS và các
điều luật khác có liên quan theo hướng bỏ cụm từ “cơ quan, tổ chức” mà thay vào
đó là “pháp nhân”.
Cách hiểu này giống với quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp: “Chỉ các
bên đương sự mới có quyền khởi kiện trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Các bên đương sự được tự do chấm dứt tố tụng trước khi hết hạn tố tụng theo quyết
định của Tòa án hoặc theo quy định của pháp luật”.6
Như vậy, pháp luật TTDS Pháp giới hạn chủ thể có quyền khởi kiện, theo đó
“chỉ các bên đương sự” mới có quyền khởi kiện trừ các trường hợp khác theo luật
định. Việc giới hạn chủ thể khởi kiện theo hướng này nhằm mục đích bảo vệ tốt hơn
quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ dân sự đồng thời ngăn chặn hành vi lạm
dụng quyền khởi kiện để khởi kiện tràn lan, hoặc sử dụng quyền khởi kiện vào những
mục đích khơng tốt; đồng thời giúp Tịa án giảm tải được những khởi kiện vơ căn cứ.
Nhưng nếu hiểu, cơ quan, tổ chức, cá nhân tại Điều 186 BLDS 2015 chỉ cần
có quyền và lợi ích hợp pháp giả thiết bị xâm phạm thì người khởi kiện khởi kiện
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khơng nhất thiết phải là một bên trong
quan hệ pháp luật có tranh chấp và cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình cũng khơng phải cần có tư cách pháp nhân.
6

Nhà pháp luật Việt – Pháp (1998), Bộ luật Tố tụng dân sự nước Cộng hịa Pháp, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr. 7.


10

Cách hiểu này tương đồng với quy định của pháp luật TTDS Liên Bang Nga.
Tại khoản 1 Điều 3 BLTTDS Liên Bang Nga quy định: “Cơng dân, tổ chức
có liên quan theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định có quyền khởi kiện u cầu
Tịa án bảo vệ quyền, tự do và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc có tranh chấp”.
Đồng thời tại khoản 1 Điều 4 BLTTDS Liên Bang Nga cũng quy định:
“Công dân, tổ chức có quyền, tự do và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền khởi
kiện VADS tại Tịa án”.7
Thực tiễn áp dụng đã có sự khơng thống nhất giữa cách giải quyết vấn đề này
như sau.
Bản án dân sự phúc thẩm số 18/DS-PT ngày 20/7/2016 của Tòa án nhân dân
(TAND) tỉnh X tuyên ông A phải trả cho bà B số tiền 400.000.000 đồng. Ngày
10/9/2016, ông A bán căn nhà của mình cho bà C, hợp đồng mua bán giữa ông A và
bà C đã được công chứng. Tuy nhiên, sau khi nhận được tiền bán nhà từ bà C, ông
A không trả tiền cho bà B nên bà B đã làm đơn yêu cầu thi hành án gửi Cơ quan thi
hành án dân sự có thẩm quyền, đồng thời khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng mua bán
nhà giữa ông A và bà C. Có ý kiến cho rằng, bà khơng có quyền khởi kiện u cầu
hủy hợp đồng mua bán nhà giữa ông A và bà C, bởi chỉ có các chủ thể của quan hệ
hợp đồng mua bán mới có quyền khởi kiện hủy hợp đồng và các tranh chấp khác
phát sinh từ quan hệ hợp đồng.8
Theo tác giả, nên hiểu theo hướng chủ thể khởi kiện để bảo vệ cho quyền và
lợi ích hợp pháp của chính mình khơng nhất thiết phải là một bên trong quan hệ
pháp luật phát sinh, để quyền khởi kiện của các chủ thể được mở rộng hơn, từ đó
bảo vệ quyền con người, quyền công dân một cách tối đa nhất.
Thứ hai. Không phải là đại diện hợp pháp của người có quyền và lợi ích giả
thiết bị xâm phạm hoặc đang tranh chấp.
Trong TTDS, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình các đương sự
thường tự mình thực hiện quyền khởi kiện của họ, nhưng không phải lúc nào họ
cũng có thể tự mình thực hiện hành vi khởi kiện tại Tòa án. Chẳng hạn như trường
hợp một tổ chức có quyền và lợi ích bị xâm phạm, tổ chức đó không thể thực hiện
7


Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung (2005), Bộ luật Tố tụng dân sự Liên Bang Nga, NXB Tư pháp, tr.52.
Bùi Thị Huyền (2017), “Khởi kiện VADS theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí
Kiểm sát, (12), tr. 32.
8


11
được hành vi khởi kiện mà phải có đại diện đứng ra khởi kiện bảo vệ quyền và lợi
ích cho tổ chức mình. BLTTDS quy định người đại diện hợp pháp của người có
quyền và lợi ích giả thiết bị xâm phạm hoặc đang tranh chấp cũng có quyền khởi
kiện để bảo vệ triệt để quyền được pháp luật bảo hộ cho mọi cá nhân, tổ chức khi
tham gia vào các quan hệ pháp luật.
Thế nhưng, không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng xác định được người đại
diện hợp pháp. Ví dụ như việc khởi kiện các tranh chấp liên quan tới tài sản, hoạt
động của nhóm chủ thể là hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc các tổ chức khác khơng có tư
cách pháp nhân lại chưa được quy định cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng
khác nhau.
Theo Điều 101 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “trường hợp hộ gia đình, tổ
hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các
thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân là
chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại
diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
Tuy nhiên, ai là người có quyền khởi kiện các tranh chấp liên quan tới tài
sản, hoạt động của nhóm chủ thể này vẫn chưa được quy định rõ. Việc khởi kiện
phải do tất cả các thành viên khởi kiện hay một trong số các thành viên đó hay chỉ
cần do người đại diện ủy quyền khởi kiện?
Tương tự như trường hợp xác định người có quyền khởi kiện đối với việc
khởi kiện các tranh chấp liên quan tới tài sản chung của của dịng họ, BLTTDS
2015 chưa có quy định cụ thể.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 tại Điều 211 tài sản chung của
dòng họ là tài sản chung hợp nhất không phân chia. Các thành viên của dòng họ
cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thỏa thuận hoặc theo tập qn
vì lợi ích chung của cộng đồng nhưng khơng được vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội. Vậy khi có tranh chấp về tài sản chung của dịng họ, ai
có quyền khởi kiện?
Trong xã hội Việt Nam, các dịng họ đã được hình thành từ hàng nghìn năm qua.
Các tranh chấp liên quan đến tài sản của dòng họ như nhà thờ họ, đồ thờ
cúng, quyền sử dụng đất… luôn là những tranh chấp phức tạp do khơng có quy định


12
nhất quán về tư cách chủ thể khởi kiện đối với khởi kiện của dịng họ, khơng ít vụ
án liên quan đến tài sản của dòng họ phải xét xử nhiều lần do xác định sai tư cách
khởi kiện và bỏ sót người tham gia tố tụng. Việc giải quyết các tranh chấp đó là một
loại án khó điển hình khơng chỉ vì số lượng đương sự nhiều, giấy tờ chứng minh sở
hữu không rõ ràng, phải áp dụng đến tập qn… mà khó khăn lớn nhất chính là sự
thiếu vắng các quy định của pháp luật về đại diện của dịng họ.9
Về xác định người có quyền khởi kiện đối với khởi kiện liên quan tới tài sản
của dòng họ, tồn tại 3 quan điểm:
Một là mỗi cá nhân thành viên của dịng họ có quyền tự mình hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tranh chấp về tài sản chung của dòng họ để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của dịng họ.
Hai là trưởng họ có quyền đại diện cho dịng họ khởi kiện vụ án tranh chấp
về tài sản chung của dòng họ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của dòng họ.
Ba là tất cả thành viên của dòng họ có quyền ủy quyền cho pháp nhân, cá
nhân khác khởi kiện vụ án tranh chấp về tài sản chung của dịng họ để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của dòng họ.
Một vướng mắc khác xảy ra là chưa có quy định cụ thể xác định thành viên
của dòng họ.

Dòng họ theo nghĩa thông thường là những người cùng họ và có quan hệ
huyết thống. Tuy nhiên, cách xác định dịng họ có ảnh hưởng của các yếu tố tập
qn, vùng miền khác nhau. Có dịng họ được xác định chỉ gồm những người cùng
huyết thống là nam giới (suất đinh). Có dòng họ xác định gồm những người cùng họ
có quan hệ huyết thống khơng phân biệt nam nữ. Có dịng họ cịn bao gồm chồng
hoặc vợ của những người cùng họ.10
Như vậy, với mỗi cách xác định dòng họ khác nhau lại xác định thành viên
khác nhau. Trong trường hợp xảy ra tranh chấp về tư cách thành viên của dịng họ
thì các đương sự phải chứng minh mình là thành viên hay khơng là thành viên bằng
cách chứng minh về sự thỏa thuận hay quy ước của dòng họ đó về thành viên.
9

Nguyễn Minh Hằng, “Đại diện của dòng họ vẫn là khoảng trống”, (truy cập ngày 16/05/2019).
10
Chu Xuân Minh, “Giải quyết tranh chấp tài sản chung của dòng họ”, (truy cập ngày 20/5/2019).


13
Thực tiễn xét xử cũng khơng thống nhất, ví dụ: vụ án tranh chấp về quyền sử
dụng đất và nhà thờ họ giữa ngun đơn dịng họ Nguyễn Đức thơn T, xã P, huyện C,
tỉnh H với bị đơn bà Nguyễn Thị Th. Đơn khởi kiện ban đầu do các ông Nguyễn Đức
N, Nguyễn Đức H và Nguyễn Đức T đại diện cho dòng họ ký tên, kèm theo là bản
danh sách ký tên của 20 người là các thành viên dịng họ Nguyễn Đức đang sinh sống
tại thơn T ủy quyền cho 3 người này khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã
chấp nhận tư cách khởi kiện của 3 người trên. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm và phúc
thẩm đều bị TAND tối cao hủy trong đó có nhận xét: “Q trình giải quyết vụ án,
Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm chưa xác minh chính xác được dịng họ
Nguyễn Đức có bao nhiêu người và có những ai ủy quyền cho ơng H, ông N, ông T
nhưng lại xác định ba ông là đại diện dịng họ, từ đó chấp nhận với tư cách đại diện
nguyên đơn là chưa đủ căn cứ”. Sau khi thụ lý, giải quyết lại vụ án theo trình tự sơ

thẩm, do các ơng H, N, T khơng cung cấp được đầy đủ văn bản ủy quyền của tất cả
các thành viên trong dòng họ Nguyễn Đức nên TAND huyện C đã ra quyết định đình
chỉ việc giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện cho đương sự. Tại quyết định xét
kháng cáo ngày 19/6/2012, TAND tỉnh H đã hủy quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
với nhận định: “...Việc Tòa án buộc tất cả những người trong dịng họ Nguyễn Đức
đều có văn bản ủy quyền cho 3 ông H, N, T là không thể thực hiện được, bởi lẽ có
những động cơ và lý do khác nhau, có những người là bị đơn hoặc đứng về phía bị
đơn, có những người khơng đứng về bên nào hoặc trước đây đã bị khai trừ ra khỏi họ
nên đương nhiên họ sẽ không ủy quyền cho 3 người này”.11
Qua ví dụ trên nhận thấy, cùng một VADS nhưng lại có các quan điểm giải
quyết khác nhau giữa Tòa án các cấp về việc xác định ai có quyền khởi kiện đối với
khởi kiện của dịng họ. Nếu bắt buộc tất cả những người trong dòng họ ủy quyền
cho một người đại diện thì người đại diện mới có quyền khởi kiện là khơng khả thi
trên thực tế bởi có những dịng họ rất lớn, có nhiều người sinh sống ở nhiều tỉnh,
thành khác nhau và thậm chí có cả người đang định cư ở nước ngồi, có người
khơng xác định được địa chỉ nên khơng thể thu thập được đầy đủ văn bản ủy quyền
khởi kiện. Theo tác giả, đối với tranh chấp giữa các thành viên của hộ gia đình, tổ
hợp tác hoặc tổ chức khơng có tư cách pháp nhân với nhau như tranh chấp của dịng
họ thì chỉ cần một trong số các thành viên của tổ chức đó khởi kiện là Tòa án đã

11

Bùi Thị Huyền (2017), “Khởi kiện VADS theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí
Kiểm sát, (12), tr. 33 - 34.


14
phải thụ lý, các chủ thể cịn lại khơng khởi kiện sẽ tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Thứ ba. Khơng phải là cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hơn nhân và gia

đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm đối tượng Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án
hơn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác tại khoản 5
Điều 187 (Điều 162 BLTTDS 2004 không đề cập tới đối tượng này). Các cá nhân
có quyền khởi kiện ở đây có thể hiểu là cha, mẹ, người thân thích khác có quyền
u cầu Tịa án giải quyết ly hơn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc
mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời
là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.12
Thứ tư. Khơng phải là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Bên cạnh quyền khởi kiện VADS của các cá nhân, cơ quan, tổ chức để yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi cho rằng có sự xâm phạm
hoặc xảy ra tranh chấp; quyền khởi kiện của người đại diện hợp pháp; quyền khởi
kiện của cá nhân trong vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích của người
khác thì pháp luật TTDS còn quy định về quyền khởi kiện VADS của các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích cơng
cộng và lợi ích Nhà nước.
BLTTDS 2015 vừa kế thừa các quy định của luật cũ, vừa mở rộng thêm một
số chủ thể được quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác, lợi ích cơng cộng và lợi ích của Nhà nước, cụ thể như sau:
Một. Bổ sung thêm quyền khởi kiện của Ban chấp hành công đoàn cơ sở
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người yếu thế trong các quan hệ
pháp luật lao động.
BLTTDS 2004 chỉ quy định công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có
quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định. Trong khi đó, BLTTDS
2015 quy định tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động
trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động
12


Khoản 2 Điều 51 Luật Hơn nhân và gia đình 2014.



×