Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Kiểm sát tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.72 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ BÍCH TRÂM

KIỂM SÁT TẠM GIAM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

KIỂM SÁT TẠM GIAM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên: Lê Thị Bích Trâm
Lớp: Cao học Luật, khóa 1 – Phú Yên

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ “Kiểm sát tạm giam theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn của Tiến sỹ Lê Huỳnh Tấn Duy. Những thông tin, tài liệu trong
Luận văn được thu thập một cách khách quan, trung thực, số liệu minh chứng có
nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ cơng trình khoa học nào khác.
Ngày tháng năm 2021
Tác giả

Lê Thị Bích Trâm


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
BLTTHS
BPNC
CQĐT
CQTHTT
TTHS
VKS
VKSND

: Bộ luật hình sự
: Bộ luật tố tụng hình sự
: Biện pháp ngăn chặn
: Cơ quan điều tra
: Cơ quan tiến hành tố tụng
: Tố tụng hình sự

: Viện kiểm sát
: Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KIỂM SÁT CĂN CỨ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM ....... 7
1.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về kiểm sát căn cứ áp dụng biện pháp
tạm giam ................................................................................................................7
1.2. Thực tiễn kiểm sát căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam .........................17
1.2.1. Những kết quả đạt được trong việc kiểm sát căn cứ áp dụng biện pháp
tạm giam .............................................................................................................17
1.2.2. Hạn chế trong việc kiểm sát căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam và
nguyên nhân ........................................................................................................22
1.3. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả kiểm
sát căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam ...........................................................26
1.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về kiểm sát căn cứ áp dụng
biện pháp tạm giam ............................................................................................26
1.3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật về tạm giam.........27
Kết luận Chương 1 ................................................................................................. 30
CHƯƠNG 2. KIỂM SÁT THẨM QUYỀN VÀ THỜI HẠN ÁP DỤNG BIỆN
PHÁP TẠM GIAM ................................................................................................ 31
2.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về kiểm sát thẩm quyền và thời hạn
áp dụng biện pháp tạm giam .............................................................................31
2.2. Thực tiễn kiểm sát thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp tạm
giam ......................................................................................................................39
2.3. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả kiểm
sát thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam..............................42
2.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về kiểm sát thẩm quyền và
thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam ................................................................42

2.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát thẩm quyền và thời hạn áp dụng
biện pháp tạm giam ............................................................................................44
Kết luận Chương 2 ................................................................................................. 45
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn (BPNC) nghiêm khắc nhất trong tố tụng
hình sự, việc áp dụng BPNC này sẽ hạn chế quyền và tự do của cá nhân được hiến
pháp và pháp luật ghi nhận. Trong trường hợp người bị tạm giam oan thì để lại những
hậu quả nặng nề. Và khơng ít trường hợp việc áp dụng, thay thế, hủy bỏ biện pháp
tạm giam chịu sự tác động của tiêu cực. Vấn đề này làm giảm uy tín của các cơ quan
tiến hành tố tụng (THTT) và giảm sút lòng tin của nhân dân vào chủ trương chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Đây là vấn đề nhạy cảm mà thế lực thù địch
lợi dụng để kích động vi phạm nhân quyền… Do đó, bảo vệ quyền con người nói
chung và của người bị tạm giam nói riêng là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng và những người tiến hành tố tụng. Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó kiểm sát tạm giam là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của ngành Kiểm sát nhân dân, nhằm bảo đảm cho việc
tạm giam được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật; phát huy được tác dụng
trong ngăn ngừa tội phạm và đảm bảo các hoạt động tố tụng được tiến hành thuận lợi,
nhanh chóng, giải quyết dứt điểm các vụ án, khơng để xảy ra oan sai.
Trước tình hình tội phạm càng diễn biến gia tăng như hiện nay cho thấy
nhiệm vụ của công tác kiểm sát càng nặng nề hơn bao giờ hết, nhất là hoạt động về
tạm giam có đúng căn cứ, thẩm quyền, thời hạn... theo quy định của pháp luật hay
khơng đều có trách nhiệm của cơng tác kiểm sát. Cùng với đó, yêu cầu về cải cách

tư pháp địi hỏi phải khơng ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó có cơng tác kiểm
sát việc tạm giam. Đặc biệt, Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 48-NQ/TW, Nghị
quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra đối với cơng tác kiểm sát việc tạm giam
đó là tăng cường và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ
quan tư pháp; tăng cường công tác kiểm sát việc tạm giam đảm bảo đúng pháp luật;
phát hiện xử lý, kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, tạm giữ, tạm giam; VKS
các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam; xác
định rõ căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số
loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các
biện pháp tạm giam; xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của cơng dân; hồn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm
tính đồng bộ, dân chủ, cơng khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người...
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn qua áp dụng các quy định về tạm giam trong
BLTTHS năm 2015 những năm gần đây cho thấy căn cứ áp dụng biện pháp tạm


2
giam; thẩm quyền, thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam được tốt hơn. Tình trạng
lạm dụng biện pháp tạm giam khơng có căn cứ dần được khắc phục. Kết quả đạt
được đã góp phần hạn chế việc giam, giữ oan sai, bảo đảm tính nghiêm minh và
cơng bằng của pháp luật, quyền con người được bảo đảm thực hiện. Tuy vậy, so với
yêu cầu, công tác kiểm sát việc tạm giam thời gian qua của ngành Kiểm sát có
những hạn chế nhất định, nhiều vi phạm chưa được phát hiện và xử lý kịp thời, vẫn
còn hiện tượng người bị tạm giam khơng có căn cứ, việc lạm dụng biện pháp tạm
giam vẫn còn xảy ra, vi phạm thời hạn tạm giam, nhiều trường hợp tạm giam không
đúng phải ra quyết định trả tự do hoặc thay đổi bằng các BPNC khác; một số trường
hợp giam không đúng dẫn tới oan sai...
Những hạn chế, vướng mắc trên trong thực tiễn do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chính là do thực tiễn phát sinh nhiều vấn đề

mà pháp luật chưa quy định; hoặc có những quy định khơng cịn phù hợp với thực
tiễn nhưng lại chậm thay đổi, chưa có văn bản hướng dẫn thi hành, dẫn đến khó
khăn vướng mắc như quy định về căn cứ tạm giam tại Điều 119 BLTTHS năm 2015
“có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm
trọng”, “có dấu hiệu bỏ trốn”, “có dấu hiệu tiếp tục phạm tội”, đây là những từ diễn
đạt mang tính tùy nghi dẫn đến có sự nhận thức khác nhau của những người vận
dụng; vướng mắc trong việc xác định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam “khơng
có nơi cư trú rõ ràng”, trong thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam...
Tuy nhiên, những hạn chế trong thực tiễn phần lớn là do chính quy định về biện
pháp tạm giam hơn là do quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS đối với việc áp
dụng biện pháp này. Vì khi pháp luật TTHS chưa rõ hoặc cịn thiếu sót thì rất dễ
xảy ra tình trạng giữa các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam có
quan điểm khác nhau và VKS sẽ lúng túng, khơng tìm ra cách giải quyết hợp lý, có
căn cứ1. Cùng với đó theo hiểu biết của tác giả, mặc dù đến nay các cơng trình
nghiên cứu đã cơng bố chỉ ở những khía cạnh khác nhau và nhìn chung việc áp
dụng các quy định pháp luật về áp dụng biện pháp tạm giam trong BLTTHS năm
2015 vẫn có khơng ít những trường hợp khơng đúng pháp luật. Vì những lý do trên,
tác giả đã chọn đề tài “Kiểm sát tạm giam theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm
đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua nghiên cứu và tìm hiểu, tác giả nhận thấy đã có các tài liệu như giáo
trình, sách chuyên khảo liên quan đến đề tài như:
Dương Quốc Nghĩa, Lê Huỳnh Tấn Duy (2020), “Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp dụng một số
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học:“Biện pháp
cưỡng chế trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Trường Đại học Luật Tp. HCM, tháng 10, tr 222

1


3

- Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trìnhLuật tố tụng hình
sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam;
- Nguyễn Ngọc Anh (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, Nxb.Chính trị quốc gia sự thật;
- Nguyễn Đức Mai (2019), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, Nxb.Chính trị quốc gia sự thật;
- Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Đạt (2019), “Kiểm sát tạm giữ, tạm giam
theo Luật Tố tụng hình sự”, Đại học Luật Tp HCM; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn
Văn Linh (2020), “Biện pháp tạm giam theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”.Nội
dung của 02 luận văn này chủ yếu làđánh giá thực trạng quy định biện pháp tạm
giữ, tạm giam theo BLTTHS năm 2003, 2015; phân tích các quy định, căn cứ của
BLTTHS năm 2015 về biện pháp tạm giam trong thực tiễn áp dụng. Các cơng trình
nghiên cứu nêu trên chưa tiếp cận ở góc độ trong thực tiễn kiểm sát việc áp dụng
căn cứ, thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam,
- Dương Quốc Nghĩa, Lê Huỳnh Tấn Duy (2020), “Thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc áp dụng một số biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố
tụng hình sự”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình
sự Việt Nam”, Trường đại học Luật Tp. HCM, tháng 10/2020.
Bài viết đi sâu phân tích, đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự và
thực tiễn thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng một số biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế trong những năm gần đây. Kết quả nghiên cứu cho
thấy bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế nhất định mà
nguyên nhân chính là do sự thiếu rõ ràng, chưa đầy đủ và không hợp lý của chính
các quy định về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự.
Trên sơ cở đó, nhóm tác giả đã đưa ra đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về các
biện pháp này nhằm hồn thiện pháp luật, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng.
- Lê Huỳnh Tấn Duy (2021), “Biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự Việt
Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (duyệt đăng ngày 25/12/2020). Bài viết phân
tích và đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp tạm

giam. Nội dung chính của bài viết tập trung vào việc phát hiện những điểm hạn chế
của luật là nguyên nhân dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Trên
cơ sở đó, tác giả đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
biện pháp ngăn chặn này.
- Bùi Thị Tú Oanh, “Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu lực các bản kháng
nghị, kiến nghị trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự”, Tạp chí


4
Kiểm sát, số 11/2017, tr 23-27. Bài viết tập trung phân tích đánh giá thực trạng việc
kháng nghị, kiến nghị trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam và đề xuất giải pháp nâng
cao chất lượng, hiệu lực kháng nghị, kiến nghị.
- Đặng Thị Mai Hương (2018), “Một số kỹ năng và kinh nghiệm trong công
tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam” Tạp chí Kiểm sát, số 18/2018, tr 38-45. Bài
viết bàn về kỹ năng và trao đổi kinh nghiệm trong việc phát hiện nêu một số dạng vi
phạm thường gặp trong hoạt động tạm giữ, tạm giam, như: Vi phạm về thủ tục, hồ
sơ; về chế độ quản lý người bị tạm giữ, tạm giam; vi phạm về thực hiện chế độ đối
với người tạm giữ, tạm giam…
Ngoài ra, cịn nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả khác đã được đăng
trong các tập san, tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Tồ án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát…
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn
kiểm sát căn cứ, thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam. Trên cơ sở
đó, tác giả đưa ra kiến nghị, giải pháp hồn thiện pháp luật, góp phần nâng cao hiệu
quả của cơng tác kiểm sát tạm giam theo yêu cầu cải cách tư pháp.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện được những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau đây:

- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, quy định pháp luật thực định và
trách nhiệm của Viện kiểm sát trong kiểm sát căn cứ, thẩm quyền và thời hạn áp
dụng biện pháp tạm giam.
- Khảo sát, đánh giá hoạt động kiểm sát việc tạm giam của VKSND; nguyên
nhân, điều kiện và các yếu tố tác động đến hoạt động kiểm sát; chỉ ra những bất cập
của những yếu tố pháp luật, chủ trương, chính sách và chỉ dẫn nghiệp vụ về hoạt
động kiểm sát việc tạm giam của VKSND.
- Đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật, các chỉ dẫn nghiệp vụ nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động kiểm sát căn cứ, thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp
tạm giam của VKS trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận, quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện việc kiểm sát căn cứ, thẩm quyền và thời
hạn áp dụng biện pháp tạm giam của VKSND.


5
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật về kiểm sát căn cứ,
thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam từ giai đoạn điều tra đến xét xử
phúc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam, tập trung chủ yếu vào quy
định của BLTTHS năm 2015. Luận văn chỉ nghiên cứu quy định về kiểm sát căn
cứ, thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam của VKSND đối với bị
can, bị cáo là người đủ 18 tuổi trở lên.
Về không gian: Luận văn khảo sát thực tiễn kiểm sát căn cứ, thẩm quyền và
thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam trên phạm vi cả nước, một số địa phương như
Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang và tỉnh Phú Yên.
Về thời gian: Luận văn khảo sát thực tiễn kiểm sát căn cứ, thẩm quyền và
thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam của VKSND từ năm 2016 đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với những quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp.
Để thực hiện luận văn, tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu
phổ biến trong khoa học pháp lý như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích, giải thích và
đánh giá các quy định về kiểm sát căn cứ, thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện
pháp tạm giam; đồng thời đánh giá tổng hợp những hạn chế, bất cập trong quy định
và thực tiễn kiểm sát căn cứ, thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp này; từ đó
đề xuất những giải pháp hồn thiện pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả trong
kiểm sát việc tạm giam.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để đối chiếu, so sánh quy định tạm
giam theo quy định BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015 trong quá trình kiểm sát để
thấy được vai trò, trách nhiệm của VKSND trong các hoạt động này; đồng thời chỉ
ra những điểm khơng tương thích, mâu thuẫn hoặc chồng chéo.
- Phương pháp thống kê: thu thập và tổng hợp các tài liệu, số liệu về thực tiễn
kiểm sát căn cứ, thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam.
- Phương pháp nghiên cứu các vụ án điển hình: nghiên cứu các vụ án thực tế
có phát sinh vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật, làm rõ vướng mắc trong
quá trình kiểm sát căn cứ, thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về kiểm sát căn cứ, thẩm
quyền và thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam; đồng thời xác định những vướng


6
mắc, bất cập và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật
TTHS liên quan đến lĩnh vực hoạt động kiểm sát tạm giam. Đồng thời, luận văn
cũng tiến hành khảo sát thực tiễn, thu thập số liệu, tài liệu thực tiễn phản ánh thực

trạng kiểm sát tạm giam trên phạm vi cả nước, qua đó đánh giá những ưu, nhược
điểm và ngun nhân chính của những hạn chế, vướng mắc để đưa ra những kiến
nghị,giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả
công tác kiểm sát tạm giam của VKSND trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận văn được kết cấu như sau:
Chương 1. Kiểm sát căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Chương 2. Kiểm sát thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam


7
CHƯƠNG 1
KIỂM SÁT CĂN CỨ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM
1.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về kiểm sát căn cứ áp dụng biện
pháp tạm giam
Trước khi phân tích, đánh giá quy định của luật TTHS về kiểm sát căn cứ áp
dụng biện pháp tạm giam, việc nhận thức đúng đắn về một số vấn đề mang tính lý
luận như khái niệm, đặc điểm của tạm giam; khái niệm, đặc điểm của kiểm sát căn
cứ áp dụng BPNC này là rất cần thiết.
- Khái niệm, đặc điểm của biện pháp tạm giam
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về biện pháp tạm giam, tuy nhiên nhận
thức chung nhất về khái niệm tạm giam theo giáo trình Luật tố tụng hình sự của
trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thì: “Tạm giam là một biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can,
bị cáo trong những trường hợp luật định nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc tạo điều
kiện thuận lợi cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án”.2 Từ khái
niệm trên có thể thấytạm giam là một BPNC có tính nghiêm khắc nhất tronghệ
thống các BPNC của TTHS Việt Nam. Đây là biện pháp cưỡng chế mang tính
quyền lực nhà nước, tác động trực tiếp đến sự tự do của người bị áp dụng, do đó chủ

thể áp dụng phải là cơ quan, cá nhân được nhà nước trao quyền.
- Khái niệm căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam là những tiêu chí, điều kiện được quy định
trong luật TTHS làm cơ sở pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng căn cứ vào đó lựa chọn và áp dụng. Căn cứ tạm giam có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng, là những cơ sở để các CQTHTT xác định được trường hợp nào cần tiến hành
áp dụng biện pháp tạm giam, đảm bảo các trường hợp tạm giam được thực hiện đúng
quy định pháp luật, đồng thời tránh trường hợp cơ quan có thẩm quyền lạm dụng việc
tạm giam như một biện pháp điều tra hay như hình phạt đối với người phạm tội, qua
đó góp phần bảo vệ các quyền con người, quyền công dân của họ.
- Khái niệm, đặc điểm kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam
Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam là hoạt động của VKS trong việc
vận dụng các quy định của pháp luật về tạm giam để kiểm sát các trường hợp áp
dụng biện pháp tạm giam của các cơ quan có thẩm quyền đối với bị can, bị cáo
nhằm đảm bảo việc tạm giam được chấp hành nghiêm minh, thực hiện có căn cứ và
đúng đối tượng, đảm bảo quyền con người và các quyền khác của họ được tôn
Võ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2017), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Hồng Đức –
Hội luật gia Việt Nam, tr.314.

2


8
trọng. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là một nhóm quyền
năng pháp lý của VKS, có nội dung là kiểm tra, giám sát trực tiếp và liên tục về căn
cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng BPNC của cơ quan có thẩm quyền. Từ khái niệm
này, có thể rút ra một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam là hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp tạm giam của các CQTHTT,
người THTT có thẩm quyền theo quy định pháp luật TTHS từ thời điểm nhận được

các tài liệu phản ánh việc tạm giam và kết thúc khi có quyết định thay đổi, hủy bỏ
việc áp dụng. Hoạt động này của VKS tiến hành cơng khai, trực tiếp, đồng thời theo
đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS; đề cập một cách toàn diện mọi hành vi tố tụng
từ giai đoạn khởi tố đến xét xử.
Thứ hai, chủ thể của hoạt động kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam chỉ
có thể là Kiểm sát viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND có thẩm quyền theo
quy định của BLTTHS, Luật tổ chức VKSND. Quá trình thực hiện hoạt động kiểm
sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam thì các chủ thể này chỉ được áp dụng
các biện pháp, chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, đối tượng của hoạt động kiểm sát là việc tuân theo pháp luật của các
cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giam nhằm đảm bảo việc
tạm giam được thực hiện theo đúng quy định pháp luật.
Như vậy, kiểm sát căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam là một trong số các
nội dung của kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam nói chung. Đối tượng kiểm
sát ở đây là việc tuân theo pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền (trong phạm vi
luận văn này là Cơ quan điều tra và Tòa án) khi áp dụng quy định về căn cứ/trường
hợp tạm giam.
Mục đích kiểm sát căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam là nhằm đảm bảo các
trường hợp tạm giam của các cơ quan có thẩm quyền trong TTHS được thực hiện
đúng pháp luật; góp phần bảo đảm cho việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm có hiệu quả, bảo đảm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận
lợi, thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước XHCN trong việc đấu tranh phòng
chống tội phạm.
Quy định của pháp luật về căn cứ (trường hợp) tạm giam và nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS khi kiểm sát căn cứ tạm giam.
- Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong hệ thống biện pháp
ngăn chặn hiện nay, bởi lẽ tác động của tạm giam đến người bị áp dụng là khá lớn,
hạn chế phần nào quyền tự do đã được Hiến định của bị can, bị cáo. Do đó pháp



9
luật chỉ cho phép được tạm giam đối với người hội đủ các căn cứ luật định. Tuỳ
từng giai đoạn giải quyết vụ án khác nhau mà các chủ thể ban hành lệnh hoặc quyết
định áp dụng biện pháp tạm giam; các lệnh hoặc quyết định này phải gửi cho VKS
để kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Trong giai đoạn điều tra, khi xác định có tội phạm đã xảy ra trên thực tế,
cũng như xác định rõ đối tượng đã thực hiện hành vi phạm tội, CQĐT sẽ quyết định
khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can. Khi xét thấy có căn cứ để áp dụng
biện pháp tạm giam thì CQĐT ra lệnh tạm giam hoặc lệnh bắt bị can để tạm giam
và chuyển lệnh đó cùng các tài liệu liên quan đến việc áp dụng biện pháp tạm giam
để VKS cùng cấp kiểm tra, xem xét đồng thời phê chuẩn trước khi thi hành.
Việc áp dụng biện pháp tạm giam của CQĐT chịu sự giám sát chặt chẽ của
VKS thông qua hoạt động kiểm tra, đánh giá các tài liệu mà CQĐT dùng làm căn cứ
cho việc áp dụng của mình. Các hoạt động này là tiền đề để VKS tiến hành phê chuẩn
hoặc không phê chuẩn việc áp dụng biện pháp tạm giam3. Quyết định phê chuẩn của
VKS là kết quả của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với việc áp dụng
biện pháp tạm giam của CQĐT. Để phê chuẩn được chính xác và đúng pháp luật,
VKS phải kiểm sát chặt chẽ khơng chỉ tính có căn cứ mà cịn cả tính hợp pháp trong
việc áp dụng biện pháp tạm giam. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh
tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, VKS
phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn4. Nếu xét thấy việc áp dụng của
CQĐT có căn cứ theo quy định pháp luật thì VKS ra quyết định phê chuẩn lệnh tạm
giam của CQĐT và lệnh này sẽ có hiệu lực thi hành. Ngược lại, nếu xét thấy khơng
có căn cứ áp dụng thì VKS ra quyết định không phê chuẩn lệnh tạm giam của CQĐT
và đương nhiên lệnh đó khơng có hiệu lực thi hành.
VKS kiểm sát căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam được thực hiện chủ yếu thơng
qua hình thức kiểm sát gián tiếp bằng việc nghiên cứu hồ sơ và các tài liệu liên quan
đến việc đề nghị áp dụng biện pháp tạm giam mà CQĐT chuyển cho VKS để xét phê
chuẩn. Qua đó, VKS phải đảm bảo việc tạm giam chỉ được áp dụng khi có căn cứ theo

quy định pháp luật.Cụ thể đó là những căn cứ được quy định tại các khoản 1,2,3,4 Điều
119 BLTTHS năm 2015.5 Theo đó, các CQTHTT có thẩm quyền có thể áp dụng biện
pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo trongcác trường hợp cụ thể như sau:
Thứ nhất, bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
Trường hợp này người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã bị cơ quan có

Xem Khoản 5 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Xem Khoản 5 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
5
Đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi còn phải căn cứ vào quy định tại Điều 419 BLTTHS năm 2015.
3
4


10
thẩm quyền khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng; tức là hành vi
phạm tội có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn hoặc đặc biệt lớn6.
Có thể nhận thấy, nội dung trên phản ánh tiêu chí để áp dụng biện pháp tạm
giam trong trường hợp này dựa trên kết quả phân loại tội phạm, tức là chỉ cần bị
can, bị cáo về tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì có thể đã bị áp
dụng biện pháp tạm giam mà không cần bất kỳ yếu tố nào khác. Điều này khơng
phù hợp với mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đó là, kịp thời ngăn
chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án.
Quy định như vậy có thể dẫn đến việc áp dụng biện pháp tạm giam trên thực tế
không phản ánh được bản chất, thái độ và hành vi của người có hành vi nguy hiểm
rất lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội làm ảnh hưởng đến quyền con người và quyền
công dân của người bị áp dụng. Không thể nhận định chủ quan cho rằng tất cả các
bị can, bị cáo về tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì họ sẽ gây khó
khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn. Thực

tế xảy ra có nhiều trường hợp bị can thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nhưng sau khi thực hiện hành vi phạm
tội đã có thái độ ăn năn, hối cải, tích cực phối hợp với các CQTHTT để cung cấp
các tài liệu, chứng cứ giúp cho việc làm rõ tội phạm. Đây là điểm hạn chế của quy
định pháp luật hiện hành, cần hoàn thiện để đảm bảo việc áp dụng biện pháp tạm
giam đúng với mục đích của BPNC.
Thứ hai, bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy
định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các
trường hợp: (a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; (b) khơng
có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; (c) bỏ trốn và bị
bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; (d) tiếp tục phạm tội hoặc có
dấu hiệu tiếp tục phạm tội; (đ) có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác
khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ
vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người
làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Về căn cứ “khơng có nơi cư trú rõ ràng” được quy định ở trên. Để xác định
nơi cư trú chúng ta cần căn cứ vào hướng dẫn được quy định tại khoản 4 Điều 2
Nghị quyết số 01 ngày 24/4/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của Bộ luật hình sự về tha tù trước thời
hạn có điều kiện và khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 02 ngày 15/5/2018 của Hội đồng
6

Xem điểm c, d khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015.


11
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự
về án treo, theo đó “nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được
xác định cụ thể theo quy định của Luật cư trú”.
Đồng thời, theo quy định tại Điều 12 Luật Cư trú:

“1. Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên
sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú...
2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cơng dân theo quy định
tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của cơng dân là nơi người đó đang sinh sống.”
Như vậy, việc xác định một người có nơi cư trú rõ ràng là thuộc một trong các
trường hợp: Nơi cư trú, nơi thường trú, nơi tạm trú hoặc nơi người đó đang sinh sống.
Trong thực tế có nhiều vụ án gặp khó khăn trong q trình tiến hành điều tra, truy tố,
xét xử đối với người có hành vi phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng nhưng họ có
nơi cư trú cách rất xa nơi họ thực hiện hành vi phạm tội (trong quá trình đi du lịch, đi
làm theo xe tải đường dài… đến địa phương khác thì thực hiện hành vi phạm tội).Họ
có nơi cư trú rõ ràng vì họ có nơi cư trú, nơi thường trú hoặc nơi tạm trú (ngoại tỉnh)
và cũng không tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn. Do đó, bị can khơng thuộc trường hợp
có thể tạm giam. Tuy nhiên, khi khơng tạm giam thì đối tượng phạm tội có điều kiện
bỏ trốn, các CQTHTT gặp khó khăn, trở ngại trong việc điều tra, thu thập chứng cứ
làm rõ hành vi phạm tội vì bị can ở ngoại tỉnh, mỗi triệu tập để làm việc thì rất mất
thời gian, làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án.Điển hình như vụ án sau7:
Vào khoảng 12 giờ 00 ngày 13/3, nhận được tin báo từ quần chúng nhân dân,
CQĐT Công an thị xã BC tiến hành kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang 05 đối tượng
đang có hành vi đánh bạc dưới hình thức lắc bầu cua thắng thua bằng tiền tại thùng
hàng (hầm xe) của xe khách nhà xe BM, biển kiểm soát 77B-000.15 đang đậu tại
bến xe Mỹ Phước thuộc khu phố 6, phường Thới Hòa, thị xã BC, tỉnh Bình Dương.
Lực lượng Cơng an thu giữ trên chiếu bạc số tiền 9.160.000 đồng; 01 bộ lắc bầu cua
gồm: 01 đĩa bằng kim loại màu trắng, 01 nắp đậy bằng kim loại màu trắng đã qua sử
dụng và 03 hột lập phương bằng giấy bên trên mỗi mặt có in hình bầu, của, tơm, cá,
gà, nai, 01 tấm bìa cứng bên trên được chia làm 06 ơ, mỗi ô đều có ghi chữ bầu,
cua, tôm, cá, gà, nai để hoạt động đánh bạc. Lực lượng Công an lập biên bản bắt
quả tang, thu giữ tang vật để điều tra làm rõ. Tại CQĐT Trương Văn Hịa, Nguyễn
Hồng Hiền, Lê Thanh Đồn, Nguyễn Bình Hưng, Huỳnh Trường Chinh đã khai
nhận tồn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai phù hợp với tài liệu, chứng cứ thu
thập được trong hồ sơ vụ án. Qua điều tra xác định các đối tượng trên có địa chỉ

thường trú tại xã MT, huyện PM, tỉnh Bình Định.
7

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.


12
Trương Văn Hòa và đồng phạm phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có
nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nên đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 119 BLTTHS
năm 2015 thì đây khơng thuộc trường hợp tạm giam. Vì vậy CQTHTT thị xã BC,
tỉnh Bình Dương áp dụng biện pháp cấm đi khởi nơi cư trú đối với Trương Văn Hòa
và đồng phạm. Tuy nhiên, sau đó CQĐT gặp khó khăn trong việc điều tra thu thập tài
liệu, chứng cứ vụ án vì các bị can có nơi cư trú ở rất xa nơi thực hiện tội phạm (cách
nhau khoảng 677 km), mất thời gian đi lại khi CQTHTT triệu tập làm việc.
Một vấn đề khác cần xem xét, đó là quy định về căn cứ tạm giam tại Điều
119 BLTTHS năm 2015 như“có dấu hiệu bỏ trốn”, “có dấu hiệu tiếp tục phạm tội”,
đây là những từ diễn đạt mang tính tùy nghi, dẫn đến có sự nhận thức khác nhau của
những người vận dụng. Để xác định được các dấu hiệu này trong quá trình giải
quyết vụ án, các CQTHTT phải dựa vào các yếu tố thái độ, ý thức chủ quan, diễn
biến hành vi của bị can, bị cáo sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, các
CQTHTT không thể xác định được những vấn đề đó ngay sau khi đã khởi tố vụ án,
khởi tố bị can mà cần phải có một khoảng thời gian nhất định để xem xét, đánh giá.
Hơn nữa, ý thức chủ quan của bị can hoặc bị cáo là điều khó có chứng cứ để xác
định rằng bị can, bị cáo đang có ý định tiếp tục thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội và thực tế cũng hiếm có trường hợp nào bị can, bị cáo thừa nhận họ đang có ý
định phạm tội trừ trường hợp các CQTHTT đã thu thập được các tài liệu, chứng cứ
như các công cụ, phương tiện, tài liệu mà họ chuẩn bị để phạm tội.
Trong vụ án đã dẫn chứng ở trên, 05 đối tượng là tài xế xe tải đường dài bị
bắt quả tang đang đánh bạc tại địa phương nơi chở hàng đến, với định lượng tiền đủ
xử lý về tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015. CQĐT đã áp dụng

biện pháp tạm giữ và tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can.Tuy nhiên, về việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam thì có các quan điểm khác nhau như sau:
Quan điểm thứ nhất, không áp dụng biện pháp tạm giam nếu khơng có căn cứ
quy định tại khoản 2 Điều 119 BLTTHS năm 2015.
Quan điểm thứ hai, phải áp dụng biện pháp tạm giam vì nếu khơng áp dụng
thì bị can sẽ bỏ trốn vì bị can ở ngoài địa phương nơi xảy ra tội phạm.
Trong trường hợp này tác giả nhận thấy, việc áp biện pháp tạm giam phải có
căn cứ theo quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2015.Tuy nhiên muốn xem xét dấu
hiệu bỏ trốn phải dựa vào yếu tố thời gian và ý thức chủ quan của bị can… nhưng
thực tiễn trường hợp trên đã không đủ yếu tố thời gian để xem xét dấu hiệu bỏ trốn
hoặc tiếp tục phạm tội do đang bị tạm giữ và cũng không bị can nào lại thừa nhận sẽ
bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Từ những lý do đó nên việc áp dụng biện pháp tạm
giam căn cứ theo những dấu hiệu này gặp khó khăn.


13
Thứ ba, bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù
đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
Với quy định này, vấn đề thực tế đặt ra là có nhiều trường hợp người thực hiện hành
vi về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt đến 02 năm, họ không tiếp
tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã nhưng họ có hành vi quy
định tại điểm đ khoản 2 Điều 119, tức là mua chuộc, cưỡng ép, xúi dục, de doạ… bị
hại hoặc nhân chứng hoặc các đối tượng có nhân thân xấu, khơng khai báo, bất hợp
tác gây khó khăn cho q trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến quá trình giải quyết
vụ án có thể bị kéo dài, khơng hiệu quả nhưng các CQTHTT không áp dụng được
biện pháp tạm giam do khoản 3 Điều 119 BLTTHS năm 2015 không quy định về
căn cứ này để áp dụng biện pháp tạm giam. Điều này cần được bổ sung vào quy
định của khoản 3 Điều 119 BLTTHS năm 2015.
Thứ tư, áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai
hoặc đang ni con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà

có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng trong các trường hợp: Bỏ trốn và bị bắt theo quyết
định truy nã; tiếp tục phạm tội; có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người
khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ,
tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế,
trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của
những người này; bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ
xác định nếu khơng tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia8.
Đây là những người được hưởng chính sách nhân đạo theo chính sách hình sự
của Đảng và Nhà nước nhằm tạo cho những người này có điều kiện để chăm sóc về
mặt sức khỏe, cũng như tinh thần nên căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam đối với
họ thu hẹp hơn so với những đối tượng khác. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật
các CQTHTT gặp khó khăn trong việc xác định như thế nào là “người già yếu” và
“người bị bệnh nặng”, về căn cứ không áp dụng biện pháp tạm giam này chưa được
pháp luật quy định cụ thể trong các văn bản hướng dẫn. Điều này làm phát sinh
trong thực tế tình trạng áp dụng BPNC khác hoặc tạm giam không đúng đối tượng
làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo; dẫn đến sự không
thống nhất trong áp dụng pháp luật và gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
Hiện nay, có quy định và hướng dẫn liên quan đến “người bị nặng có thể
được hỗn chấp hành hình phạt tù” theo quy định tại Điều 67 BLHS năm 2015 và
tại Nghị quyết số 01/2007/NĐ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của
BLHS về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp
8

Xem Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015


14
hành hình phạt. Theo đó, các quy định pháp luật này liệt kê một số bệnh như: Ung
thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim
độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, HIV chuyển giai đoạn AIDS đang có các nhiễm

trùng cơ hội và có tiên lượng xấu... thì bị án có thể được hỗn chấp hành án phạt
tù. Về vấn đề “người già yếu”, hiện nay theo Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP thì
Người già được xác định là người từ 70 tuổi trở lên. Còn theo quy định tại Nghị
quyết 01/2007/NQ-HĐTP thì Người già yếu là người: Từ 70 tuổi trở lên; hoặc
người từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên đau ốm. Tuy nhiên, các quy định trên
chỉ hướng dẫn áp dụng đối với trường hợp người bị kết án bị xử phạt tù có bản án
đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án mà khơng hướng dẫn đối với trường hợp căn
cứ áp dụng, huỷ bỏ, thay thế biện pháp tạm giam. Do đó, cần có hướng dẫn cụ thể
thế nào là “người già yếu” và “người bị bệnh nặng” được quy định tại khoản 4
Điều 119 BLTTHS năm 2015.
Thứ năm, một số điều luật của BLTTHS quy định về việc áp dụng biện pháp
tạm giam nhưng lại không thể hiện căn cứ để áp dụng như khoản 3 Điều 278 (tạm
giam để hoàn thành việc xét xử), khoản 1 Điều 329 (tạm giam sau khi tuyên án),
Điều 347 (tạm giam của Tòa án cấp phúc thẩm), khoản 5 Điều 358 (tạm giam của
Hội đồng xét xử phúc thẩm khi hủy bản án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử lại),
Điều 391 (tạm giam của Hội đồng giám đốc thẩm). Do đó, các cơ quan có thẩm
quyền cần hướng dẫn về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam trong các trường hợp
trên để việc áp dụng được thống nhất trong thực tiễn.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Khi kiểm sát căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam, VKS trước hết phải vận dụng
quy định của BLTTHS năm 2015 (như đã phân tích ở trên), đối chiếu với từng trường
hợp cụ thể phản ánh trong hồ sơ xét phê chuẩn. Tiếp đến VKS dựa vào nhiệm vụ,
quyền hạn của mình theo luật định để đưa ra cách giải quyết cho phù hợp, đúng đắn.
Như đã trình bày, tạm giam được áp dụng khi người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị BLHS coi là tội phạm, tuy nhiên không phải tất cả người nào
thực hiện hành vi được coi là tội phạm đều có khả năng bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam mà chỉ có thể áp dụng đối với một số người có hành vi phạm tội
thuộc loại tội phạm cụ thể được quy định tại Điều 9 BLHS năm 2015 và thỏa mãn
quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2015...Chính vì vậy, khi kiểm sát việc áp
dụng biện pháp tạm giam, VKS phải căn cứ vào BLTTHS và BLHS để xác định

tội phạm đang đề nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam có thuộc trường
hợp ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm
trọng.VKS phải nắm vững các căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng, thay đổi và


15
huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam được quy định trong BLTTHS và các văn
bản pháp luật khác để kiểm sát chặt chẽ các trường hợp bị tam giam. Ngồi ra,
VKS phải kiểm tra những thơng tin cá nhân của người bị tạm giam xem có thống
nhất với quyết định khởi tố bị can hay không. Nếu qua kiểm sát phát hiện các
trường hợp tạm giam không đúng đối tượng theo quy định của pháp luật TTHS thì
yêu cầu thay thế hoặc hủy bỏ việc tạm giam.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam, VKS
cần tiến hành các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại khoản 4 Điều 166
BLTTHS năm 2015, khoản 4 Điều 15 Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Điều
17 Quy chế về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra
và truy tố của VKSNDTC ban hành kèm Quyết định số 111 ngày 17/4/2020. Qua
kiểm sát tuân theo pháp luật nếu phát hiện các CQTHTT có thẩm quyền ban
hành lệnh, quyết định tạm giam khơng có căn cứ thì VKS thể hiện quan điểm của
mình thơng qua hoạt động THQCT tùy từng trường hợp, đó có thể khơng phê
chuẩn hoặc hủy bỏ lệnh, quyết định lệnh tạm giam, yêu cầu, kiến nghị, kháng
nghị; quyết định trả tự do ngay cho người đang bị người đang bị tạm giam để
khắc phục, xử lý vi phạm. Đây là kết quả của hoạt động kiểm sát căn cứ áp dụng
biện pháp tạm giam.
Để hoạt động kiểm sát căn cứ tạm giam có hiệu quả, q trình thực hiện
chức năng, VKS phải nghiên cứu để đối chiếu, so sánh các căn cứ mà pháp luật đã
quy định với sự kiện thực tế đã xảy ra như: Tình tiết của vụ án, các tài liệu khác để
xác định chính xác việc áp dụng biện pháp tạm giam, nhân thân và thái độ người
bị áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án... Trường hợp các chứng cứ, tài liệu
chưa phản ánh rõ căn cứ để áp dụng thì VKS cần ban hành văn bản hoặc trao đổi

với CQĐT để yêu cầu điều tra bổ sung các tài liệu phản ánh về các căn cứ được
quy định tại khoản 1,2,3,4 Điều 119 BLTTHS năm 2015. Đó là những tài liệu thể
hiện được hành vi phạm tội của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
khởi tố về tội gì, mức hình phạt và thuộc loại tội phạm nào theo quy định của
BLHS năm 2015. Nếu phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy
định hình phạt tù trên 02 năm thì VKS cần phải kiểm tra các tài liệu phản ánh một
trong các điều kiện như:
- Đã bị áp dụng BPNC khác nhưng vi phạm; BPNC khác đã được áp dụng là
biện pháp nào, vi phạm cụ thể của người bị áp dụng là những vi phạm nào (thể hiện
qua các biên bản vi phạm do cơ quan có thẩm quyền lập).
- Khơng có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can. Tài
liệu phải phản ánh được qua tiến hành xác minh, làm rõ bị can là người đi làm thuê,



×