Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Chế tài hủy bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng theo công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.37 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------TRUNG TÂM QUẢN LÝ ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO
VÀ ĐÀO TẠO QUỐC TẾ

TRẦN LÊ MINH TRÚC

CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG KHI
CHƯA TỚI THỜI HẠN THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG THEO CƠNG ƯỚC VIÊN
1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HĨA QUỐC TẾ:
QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Quốc tế
Niên khóa: 2014 - 2018

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------TRUNG TÂM QUẢN LÝ ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO
VÀ ĐÀO TẠO QUỐC TẾ

TRẦN LÊ MINH TRÚC

CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG KHI
CHƯA TỚI THỜI HẠN THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG THEO CƠNG ƯỚC VIÊN


1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HĨA QUỐC TẾ:
QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Quốc tế
Niên khóa: 2014 - 2018

Người hướng dẫn khoa học: Ths. Nguyễn Thị Lan Hương
Người thực hiện: Trần Lê Minh Trúc
MSSV: 1453801013280
Lớp: CLC 39A
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Ths. Nguyễn Thị Lan
Hương, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài
liệu tham khảo.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả

Trần Lê Minh Trúc


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận này, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến
Ths. Nguyễn Thị Lan Hương – người đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm

và giúp đỡ tác giả về chuyên mơn cũng như kỹ năng trong q trình tìm tịi và
nghiên cứu khóa luận. Sự hướng dẫn nhiệt tình của Cơ từ những ngày đầu tiên khi
nghiên cứu khóa luận là nguồn động viên lớn cho tác giả trong suốt q trình thực
hiện khóa luận này.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Quý Thầy Cô tại Trường Đại
Học Luật Tp.HCM trong suốt những năm tháng qua đã dạy dỗ và truyền đạt kiến
thức cho tác giả.
Cuối cùng, tác giả xin cảm ơn cha mẹ, gia đình, bạn bè luôn là chỗ dựa tinh
thần vững chắc, là động lực to lớn cho tác giả trong suốt thời gian qua nói chung và
q trình thực hiện khóa luận này nói riêng.

Tác giả

Trần Lê Minh Trúc


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
1. CISG

Tiếng Anh

Tiếng Việt

United Nations Convention Công ước Liên Hợp
on

Contracts

for


the quốc về Hợp đồng mua

International Sale of Goods
2. PECL

Principles

of

European Bộ nguyên tắc Luật hợp
đồng Châu Âu

Contract Law
3. PICC

bán hàng hóa quốc tế

Principles of International Bộ nguyên tắc hợp đồng
Conmercial Contract

thương mại quốc tế của
UNIDROIT
Luật Thương mại 2005

4. LTM 2005
5. UNIDROIT

Unidroit
International


Principles

of Nguyên tắc Hợp đồng

Conmmercial thương mại quốc tế

Contracts
6. Tp. HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

7. BLDS

Bộ luật Dân sự


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1................................................................................................................7
QUY ĐỊNH VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG KHI CHƯA TỚI THỜI HẠN THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG TRONG CISG .........................................................................7
1.1

Khái niệm “vi phạm khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng” và “hủy

bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng” ......................................7
1.1.1 Khái niệm “vi phạm khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng” ..............8
1.1.2 Khái niệm “hủy bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng”..
........................................................................................................................10

1.2

Mục đích, ý nghĩa của chế tài hủy bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn

thực hiện hợp đồng trong CISG ............................................................................12
1.3

Cơ sở áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn thực hiện

hợp đồng ...................................................................................................................14
1.3.1 Cơ sở áp dụng đối với hợp đồng giao hàng một lần ..................................14
a)

Hủy bỏ phải được thực hiện trước ngày thực hiện hợp đồng .........................15

b)

“Rõ ràng rằng một bên sẽ gây ra vi phạm cơ bản hợp đồng” .......................15

c)

Thông báo hợp lý về ý định tuyên bố hủy bỏ hợp đồng và nghĩa vụ cung cấp

bảo đảm đầy đủ .........................................................................................................21
1.3.2 Cơ sở áp dụng đối với hợp đồng giao hàng từng phần ..............................24
a)

Điều kiện “lý do xác đáng để cho rằng sẽ có một sự vi phạm cơ bản đối với

các lô hàng sẽ được giao trong tương lai” ...............................................................25

b)

Tuyên bố hủy bỏ “trong một thời hạn hợp lý” ...............................................27

1.4

Mối liên hệ giữa hủy bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp

đồng với tạm ngừng thực hiện hợp đồng (Điều 71) .............................................29
1.4.1 “Rõ ràng” và “có dấu hiệu cho thấy”..........................................................29


1.4.2 “Vi phạm cơ bản” và “Phần đáng kể” ........................................................30
1.4.3 Yêu cầu thông báo và việc cung cấp bảo đảm thực hiện ...........................31
CHƯƠNG 2..............................................................................................................36
CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG KHI CHƯA TỚI THỜI HẠN THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG THEO CISG TRONG THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP........................................................................................................................36
2.1

Thực tiễn giải quyết tranh chấp đối với hợp đồng giao hàng một lần .....36

2.1.1 “Rõ ràng rằng một bên sẽ gây ra vi phạm cơ bản đến hợp đồng” ...........36
2.1.2 Thông báo hợp lý về ý định hủy bỏ và tuyên bố hủy bỏ hợp đồng ..........40
2.1.3 Nghĩa vụ cung cấp bảo đảm đầy đủ ............................................................43
2.1.4 Một số trường hợp áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng không phù hợp ....45
2.2

Thực tiễn giải quyết tranh chấp đối với hợp đồng giao hàng từng phần 49


2.2.1 Có lý do xác đáng để cho rằng sẽ có một sự vi phạm cơ bản hợp đồng đối
với những lần giao hàng trong tương lai ...............................................................49
2.2.2 Thời hạn hợp lý để tuyên bố hủy bỏ............................................................56
2.3

Bình luận và đánh giá ...................................................................................58

KẾT LUẬN ..............................................................................................................61


1

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng phát triển của thời đại, Việt Nam ngày càng tăng cường hội
nhập khu vực và quốc tế, do đó, hoạt động mua bán hàng hóa diễn ra sơi nổi và phát
triển. Cụ thể, năm 2017 ghi nhận kỷ lục trong xuất, nhập khẩu khi tổng mức lưu
chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu của Việt Nam đã vượt mốc 400 tỷ USD1.
Ngày 18/12/2015, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 84 của
CISG – điều này mang ý nghĩa to lớn trong việc đánh dấu mở đầu mới của Việt
Nam trên thị trường giao dịch thế giới. CISG có hiệu lực áp dụng tại Việt Nam sẽ
tạo điều kiện cho thương nhân Việt Nam khi tham gia giao kết hợp đồng với thương
nhân nước ngồi có một hành lang pháp lý thống nhất điều chỉnh mối quan hệ về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Khi tham gia vào hoạt động mua bán hàng hóa, cụ thể là thiết lập các hợp
đồng, các bên trong giao dịch đều mong muốn đạt được những lợi ích nhất định.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, lợi ích của một hoặc các bên khơng đạt được
trên thực tế vì nhiều lý do khác nhau. Một trong những lý do xuất phát từ vi phạm
trước thời hạn thực hiện hợp đồng. Nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, CISG – với tư cách là văn bản pháp lý

quốc tế quan trọng, đã điều chỉnh vấn đề này một cách linh hoạt và tiến bộ. Khi xuất
hiện vi phạm trước thời hạn thực hiện hợp đồng, CISG đã ghi nhận những biện pháp
khắc phục như cho phép một bên tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ hoặc hủy bỏ hợp
đồng. Tuy nhiên, cách quy định của CISG về chế tài hủy bỏ hợp đồng, đặc biệt là
hủy bỏ khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng còn nhiều tranh cãi thể hiện trong
cách dùng từ chưa được giải thích rõ ràng, dẫn đến việc áp dụng trên thực tế chưa
thật sự thống nhất. Do đó, tác giả mong muốn xem xét ở góc độ lý luận và đặc biệt
là thực tiễn áp dụng của quy định này, từ đó có thể đưa ra cách hiểu và giải thích

1

/>

2

pháp luật chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Một số luận văn, khóa luận tốt nghiệp, bài báo khoa học có liên quan
Chế tài hủy bỏ hợp đồng trong CISG nói chung và hủy bỏ trong trường hợp
khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng được đề cập trong một số nghiên cứu của
các tác giả dưới đây:
-

Phạm Thị Trong - Luận văn thạc sỹ luật học (2006), Trường Đại Học Luật
Tp.HCM, “Vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ - Sự
cần thiết phải điều chỉnh trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam”. Luận văn
nghiên cứu toàn diện các vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện
nghĩa vụ từ khái quát quy định, hệ quả pháp lý bao gồm hoãn thực hiện nghĩa
vụ và hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung vào phần lý luận,
chưa nghiên cứu vấn đề ở góc độ thực tiễn áp dụng cũng như quy định tại

Điều 73 CISG về trường hợp giao hàng từng phần.

-

Nguyễn Thị Việt Hà - Luận văn thạc sỹ luật học (2010), Trường Đại Học
Luật Tp.HCM, “Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng
thương mại”. Luận văn này tập trung nghiên cứu hai chế tài quan trọng là
đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng nhưng giới hạn phạm vi nghiên cứu là LTM
2005, so sánh với CISG chứ chưa nghiên cứu tập trung những chế tài này
trên cơ sở CISG và đặc biệt là việc hủy bỏ do vi phạm trước thời hạn thực
hiện hợp đồng.

-

Bùi Thị Bích Sơn – Khóa luận tốt nghiệp (2011), Trường Đại Học Luật
Tp.HCM, “Tuyên bố hủy hợp đồng và hậu quả pháp lí của việc tuyên bố hủy
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên 1980 và theo pháp
luật thương mại Việt Nam 2005”. Tác giả nghiên cứu vấn đề ở góc độ rộng,
nêu những căn cứ áp dụng chế tài và hậu quả pháp lý, đặt trong tương quan
so sánh với LTM 2005, tuy nhiên khóa luận chưa nghiên cứu sâu về hủy bỏ


3

khi chưa đến thời hạn thực hiện hợp đồng, cũng như chưa phân tích việc áp
dụng CISG ở chế tài này trên thực tế.
-

Võ Sỹ Mạnh - Luận văn tiến sỹ luật học (2015), Trường Đại Học Luật
Tp.HCM, “Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp

đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định hướng hồn thiện các quy định có
liên quan của pháp luật Việt Nam”. Luận văn này nghiên cứu khá sâu rộng
về vi phạm cơ bản dẫn đến hủy bỏ hợp đồng. Đặc biệt, luận văn có đề cập
đến vi phạm cơ bản dự đoán trước (là cơ sở để hủy bỏ hợp đồng do vi phạm
khi chưa đến thời hạn thực hiện hợp đồng) dưới góc độ lý luận và thực tiễn
nhưng chưa phân tích rõ ràng căn cứ theo quy định CISG để áp dụng chế tài
này trong trường hợp chưa đến thời hạn thực hiện hợp đồng.

-

Huỳnh Thị Bảo Trân - Khóa luận tốt nghiệp (2016), Trường Đại Học Luật
Tp.HCM, “Căn cứ áp dụng chế tài hủy hợp đồng theo Công ước Viên 1980
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: quy định pháp luật và thực tiễn tài
phán”. Đề tài nghiên cứu lý luận và quy định cụ thể của CISG về căn cứ áp
dụng chế tài hủy, chủ yếu dưới góc độ hủy bỏ do vi phạm cơ bản và hủy bỏ
do bên vi phạm không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong thời hạn bổ sung.
Tuy nhiên, đề tài chưa nghiên cứu sâu sắc trường hợp hủy bỏ hợp đồng do vi
phạm trước thời hạn thực hiện, chỉ đưa ra cơ sở pháp lý trong trường hợp vi
phạm trước hạn là vi phạm cơ bản và khơng phân tích ở khía cạnh thực tiễn
áp dụng quy định này.

-

Nguyễn Thị Hương Lan - Luận văn thạc sỹ luật học (2017), Trường Đại Học
Luật Tp.HCM, “Hủy bỏ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế do vi phạm cơ
bản”. Luận văn nghiên cứu khá đầy đủ và tồn diện về hủy bỏ hợp đồng
dưới góc độ “vi phạm cơ bản”, có tham khảo pháp luật Việt Nam, Bộ nguyên
tắc UNIDROIT và PECL. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra các trường hợp thực
tiễn áp dụng “hủy bỏ hợp đồng”. Nhưng nhìn chung, đề tài nghiên cứu này
không đề cập đến hủy bỏ khi chưa đến thời hạn thực hiện hợp đồng.



4

-

Bài viết “Một số vấn đề về hủy hợp đồng do vi phạm hợp đồng khi chưa đến
thời hạn thực hiện nghĩa vụ”2 của hai tác giả Đặng Huỳnh Thiên Vy và
Nguyễn Xuân Mỹ Hiền (Giảng viên Bộ môn Luật Thương mại quốc tế, Khoa
Luật Quốc tế, Trường Đại Học Luật Tp.HCM). Bài viết này trình bày mục
đích, điều kiện áp dụng và bình luận các bản án có liên quan đối với quy định
tại Điều 72 CISG một cách cụ thể và rõ ràng. Tuy nhiên, bài viết chưa đề cập
đến trường hợp hủy hợp đồng giao hàng từng phần khi chưa đến thời hạn
thực hiện hợp đồng (Điều 73 CISG).
Các bài viết, chuyên đề nghiên cứu khoa học có liên quan ở nước ngồi

-

Bài nghiên cứu “The remedial provisions in the Vienna Sales Convention:
Some common law Perspectives”3 của tác giả Jacob S.Ziegel. Tác giả nêu ra
quy định Điều 72 CISG một cách rất ngắn gọn, đặt ra một số vấn đề pháp lý
liên quan tới hủy bỏ do vi phạm trước khi đến hạn thực hiện hợp đồng.

-

Bài nghiên cứu “Commentary on the International Sales Law – Article 72”4
của tác giả Trevor Bennett. Bài viết nghiên cứu từ quy định lịch sử của Điều
72 CISG và đặt trong tương quan so sánh với Điều 71 CISG về chế định tạm
ngừng thực hiện nghĩa vụ - có mối liên hệ mật thiết về điều kiện là “vi phạm
dự đoán trước hạn thực hiện nghĩa vụ”.


-

Bài nghiên cứu “Suspension or avoidance due to anticipatory breach:
Perspectives from Arts. 71/72 CISG, the UNIDROIT Principles, PECL and

Đặng Huỳnh Thiên Vy, Nguyễn Xuân Mỹ Hiền, (05/2017) “Một số vấn đề về hủy hợp đồng do vi phạm hợp
đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ”, Tài liệu hội thảo “Nghiên cứu Công ước Viên 1980 về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”, Đại
Học Luật Tp.HCM, trang 138 – 148.
3
Jacob S.Ziegel, The Remedial Provisions in the Vienna Sales Convention: Some Common Law
Perspectives, đăng tại International Sales: The United Nations Convention on Contracts for the International
Sale of Goods, Matthew Bender (1984), tham khảo tại />truy cập ngày 01/04/2018.
4
Trevor Bennett, Commentary on the International Sales Law: The 1980 Vienna Sale Convention, Cesare
Massimo Bianca & Michael Joachim Bonell eds., Milan (1987), tham khảo tại
truy cập ngày 01/04/2018.
2


5

Case Law”5 của tác giả Chengwei Liu. Bài viết nghiên cứu rất sâu sắc và
toàn diện về cả chế tài tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ và hủy bỏ hợp đồng do
vi phạm trước hạn, đặc biệt còn so sánh với Bộ nguyên tắc UNIDROIT,
PECL và án lệ trên thế giới.
-

Bài nghiên cứu “Anticipatory Breach under the United Nations Convention

on Contracts for the International Sale of Goods”6 của tác giả Mercédeh
Azeredo da Silveira. Bài viết phân tích rất đầy đủ các vấn đề xoay quanh hủy
bỏ do vi phạm trước thời hạn thực hiện hợp đồng từ hợp đồng giao hàng một
lần đến hợp đồng giao hàng từng phần. Bài viết đề cập điều kiện, hậu quả
hủy bỏ và so sánh với quy định trong Bộ nguyên tắc UNIDROIT và PECL.

3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu quy định và thực tiễn áp dụng chế tài “hủy bỏ
do vi phạm khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng” trong CISG, đồng thời so
sánh trong tương quan với Bộ nguyên tắc UNIDROIT và PECL.
Thứ nhất, làm rõ vấn đề lý luận về quy định hủy bỏ do vi phạm khi chưa tới
thời hạn thực hiện hợp đồng, tập trung chủ yếu vào căn cứ pháp lý và tham khảo các
quy định của văn bản khác như Bộ nguyên tắc UNIDROIT, PECL.
Thứ hai, so sánh mối tương quan giữa quy định có liên quan tới vi phạm
trước hạn như tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ (Điều 71 CISG), từ đó đúc kết ra
những đặc trưng cơ bản của quy định hủy bỏ hợp đồng tại Điều 72 CISG.
Thứ ba, nghiên cứu, phân tích cũng như bình luận thực tiễn áp dụng chế định
hủy bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng thông qua những vụ
tranh chấp đã được Tòa án, Trọng tài giải quyết trên thực tế.
Tác giả sẽ kế thừa những nghiên cứu của các học giả trong và ngồi nước ở
góc độ khái qt chung về hủy bỏ hợp đồng, căn cứ hủy bỏ và hậu quả pháp lý của
5

Chengwei Liu, Suspension or Avoidance due to Anticipatory breach: Perspectives from Art. 71/72 CISG,
the
UNDROIT
Principles,
PECL
and
Case

Law,
tham
khảo
tại
truy cập ngày 01/04/2018.
6
Mercédeh Azeredo da Silveira, Anticipatory Breach under the United Nations Convention
on
Contracts
for
the
International
Sale
of
Goods,
tham
khảo
tại
truy cập 01/04/2018.


6

hủy bỏ hợp đồng sau khi đến hạn thực hiện. Trong phạm vi nghiên cứu của khóa
luận này, tác giả tập trung nghiên cứu chế định hủy bỏ trong khía cạnh khi chưa tới
thời hạn thực hiện hợp đồng ở góc độ lý luận và thực tiễn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây để thực hiện khóa luận
tốt nghiệp này:
-


Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng xun suốt trong tồn bộ
khóa luận để làm rõ những căn cứ áp dụng và cách hiểu trên thực tế của quy
định này trong CISG. Phương pháp được tác giả sử dụng kết hợp với các
phương pháp khác để nêu lên quan điểm của tác giả đồng thời nhận xét quy
định pháp luật dưới góc độ nghiên cứu khoa học.

-

Phương pháp so sánh, đối chiếu: được sử dụng chủ yếu tại Chương 1 của
khóa luận. Tác giả sử dụng phương pháp này để chỉ ra tương quan giữa quy
định của CISG và UNIDROIT cũng như PECL để đưa ra góc nhìn tồn diện
của vấn đề. Ngoài ra, tác giả cũng áp dụng phương pháp này tại Chương 2 để
liên kết các vụ kiện trên thực tế với nhau và bình luận nhằm đạt được mục
tiêu nghiên cứu.

-

Phương pháp hệ thống hóa: được sử dụng xuyên suốt để sắp xếp nội dung
của khóa luận thành một hệ thống hồn chỉnh, hợp lý và từ đó có thể tiếp cận
vấn đề một cách đầy đủ, dễ dàng hơn.

5. Bố cục của khóa luận
Khóa luận gồm ba (03) phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận.
Trong đó, Phần nội dung được chia làm hai (02) chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Quy định về hủy bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp
đồng trong CISG
Chương 2: Chế tài hủy bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng
theo CISG trong thực tiễn giải quyết tranh chấp



7

CHƯƠNG 1
QUY ĐỊNH VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG KHI CHƯA TỚI THỜI HẠN THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG TRONG CISG
Công ước Liên Hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) là
một trong những điều ước quốc tế quan trọng quy định các quy tắc thống nhất điều
chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhằm thúc đẩy việc loại trừ các trở ngại
pháp lý trong thương mại quốc tế và sẽ hỗ trợ cho việc phát triển thương mại quốc
tế7. Xuất phát từ những mục đích trên, CISG hỗ trợ việc duy trì các hợp đồng
thương mại quốc tế, đề cao nguyên tắc thiện chí trong giao dịch nhằm giúp các bên
trong hợp đồng đạt được quyền và lợi ích chính đáng họ hướng tới khi giao kết hợp
đồng. Do vậy, việc hủy bỏ hợp đồng trong CISG chỉ được phép thực hiện khi đáp
ứng những điều kiện được quy định tại CISG “rõ ràng, việc tiếp tục hợp đồng sẽ
gây ra những bất lợi không thể khắc phục được đối với một hoặc cả hai bên trong
hợp đồng”8. Các quy định về hủy bỏ hợp đồng trong CISG là minh chứng của việc
“Công ước nhằm mục đích bảo vệ cam kết ban đầu của các bên và ủng hộ việc thực
hiện cam kết”9. Do đó, dựa vào “favor contractus”, CISG đưa ra những điều kiện
tiên quyết mà các bên trong hợp đồng buộc phải dựa vào để được phép áp dụng chế
tài hủy bỏ này. Về nguyên tắc chung, chế tài hủy hợp đồng được đặt ra khi đến hạn
thực hiện hợp đồng nhưng một bên khơng thực hiện hoặc khơng có khả năng thực
hiện và thỏa mãn các điều kiện hủy bỏ thì bên cịn lại sẽ có quyền áp dụng chế tài
hủy bỏ. Bên cạnh đó, CISG rất tiến bộ và linh hoạt khi quy định hủy bỏ trước khi
đến hạn thực hiện hợp đồng nhằm hạn chế những rủi ro mà các bên phải gánh chịu
khi rõ ràng có căn cứ một bên sẽ vi phạm hợp đồng.
1.1 Khái niệm “vi phạm khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng” và “hủy
bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng”
Lời nói đầu của Cơng ước Viên 1980 - CISG
Mercédeh Azeredo da Silveira, tlđd, xem chú thích số 6, truy cập 23/04/2018.

9
Franco Ferrari (2003), Gap-Filling and Interpretation of the CISG: Overview of International Case
Law, trong International Business Law Journal 221, 229.
7
8


8

1.1.1 Khái niệm “vi phạm khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng”
“Vi phạm khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng” hay còn gọi là “vi phạm
dự đoán trước” là khái niệm tập trung chủ yếu vào khoảng thời gian vi phạm.
Không giống với vi phạm theo nghĩa thông thường, xảy ra khi tới thời hạn thực hiện
hợp đồng, vi phạm dự đốn trước là việc khơng thực hiện, khơng có khả năng thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng trong khoảng thời gian dao động từ sau khi hợp đồng được
kí kết đến trước thời hạn thực hiện theo sự thỏa thuận của các bên. Theo định nghĩa
của từ điển Black’s Law, vi phạm dự đoán trước (anticipatory breach) được hiểu là
vi phạm hợp đồng gây ra bởi sự từ chối thực hiện dự đoán trước của một bên khi
việc thực hiện đến hạn10. Điều quan trọng là sự vi phạm này phải xuất phát từ dự
đốn có căn cứ của một bên trong hợp đồng cho rằng bên kia sẽ khơng thực hiện
hoặc khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn. Về nguyên tắc, vi phạm
hợp đồng dự đoán trước được hiểu là: Trước khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ trong
hợp đồng theo thỏa thuận, nếu bên có quyền biết rằng nghĩa vụ sẽ khơng được thực
hiện hoặc có căn cứ để nghi ngờ rằng nghĩa vụ sẽ khơng thể thực hiện, có thể sử
dụng ngay các quyền hoặc một số quyền mà thông thường chỉ dành cho các trường
hợp nghĩa vụ đã không thực hiện trên thực tế11. Đây là vấn đề vượt ra ngoài lý
thuyết truyền thống về vi phạm hợp đồng, là căn cứ để cho phép bên có quyền có
thể hủy hợp đồng và có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có 12. Cơ sở để xác định
thế nào là vi phạm dự đoán trước sẽ dựa trên:
Một là, thời điểm dự đoán vi phạm sẽ xảy ra. Một bên sẽ có những căn cứ

xác đáng để nghi ngờ rằng hiển nhiên khi tới hạn thực hiện hợp đồng, vi phạm sẽ
xảy ra, chính là khoảng thời gian từ sau khi giao kết hợp đồng tới trước khi các bên
đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Thời điểm đóng vai trị rất quan trọng trong việc
Bryan A.Garner (2008), Black’s Law Dictionary: “A breach of contract caused by a party’s anticipatory
repudiation when performance is due”, trang 200.
11
Vanwijck Alexandre (2004), Điều khoản chấm dứt hợp đồng và điều khoản duy trì hiệu lực hợp đồng, Kỷ
yếu Hội thảo Hợp đồng thương mại quốc tế do Nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức, 13-14/12/2004, Hà Nội,
trang 230.
12
Dương Anh Sơn, Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với vi phạm hợp đồng
khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ, Tạp chí Nhà nước – Pháp luật tháng 04/2006, Viện Nhà nước và
Pháp luật, trang 51.
10


9

xác định vi phạm dự đốn trước vì vi phạm này xuất phát trên cơ sở nghi ngờ của
một bên trong hợp đồng về việc thực hiện rõ ràng sẽ không xảy ra khi đến hạn.
Hai là, vi phạm chưa xảy ra trên thực tế. Khác với vi phạm hợp đồng thơng
thường, một bên có thể chỉ ra việc vi phạm của bên còn lại rất dễ dàng dựa vào việc
khơng thực hiện, khơng có khả năng thực hiện trên cơ sở đã xảy ra. Tuy nhiên, đối
với vi phạm dự đốn trước, việc khơng thực hiện này chỉ dựa vào sự nghi ngờ trên
nền tảng dự đoán rõ ràng của một bên cho rằng bên kia sẽ khơng hồn thành nghĩa
vụ khi đến hạn. Do đó, việc dự đốn này ít nhiều khơng chắc chắn sẽ ln xảy ra
trên thực tế.
Ba là, vi phạm dự đốn trước có thể xuất phát từ những nguyên nhân sau:
ngôn ngữ, hành động của một bên hình thành một lời từ chối chấp nhận hợp đồng
hoặc do một thực tế khách quan, chẳng hạn việc nhà máy của người bán bị phá hủy

do đám cháy, hay việc công bố lệnh cấm vận, hoặc việc kiểm sốt tiền tệ khiến cho
hợp đồng khơng thể được thực hiện trong tương lai 13. Ngoài ra, việc một bên không
đưa ra được bảo đảm đầy đủ khi bên kia yêu cầu một cách đúng đắn cũng được cân
nhắc rằng sẽ xảy ra vi phạm dự đoán trước trong tương lai.
Việc xác định vi phạm dự đoán trước địi hỏi sự chắc chắn cao và khá phức
tạp vì dựa vào cơ sở vi phạm giả định trong tương lai, cũng có thể xuất phát từ sự
nhìn nhận chủ quan của một bên. Do đó, CISG quy định về căn cứ xác định để hạn
chế việc lạm dụng của một bên khi nghi ngờ có vi phạm dự đốn trước xảy ra.
Tóm lại, “vi phạm khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng” hay “vi phạm
dự đoán trước” là việc khơng thực hiện hoặc khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng mà một bên có căn cứ rõ ràng để dự đoán rằng vi phạm sẽ xảy ra khi tới
hạn thực hiện hợp đồng và sự nghi ngờ này phải diễn ra trong khoảng thời gian từ
sau khi giao kết hợp đồng đến trước khi tới hạn thực hiện hợp đồng.

13

UNCITRAL Secretariat, Explanatory Note by the UNCITRAL Secretariat on the United Nations
Convention on Contracts for
the
International Sale of Goods, tham khảo tại
truy cập ngày 23/04/2018.


10

1.1.2 Khái niệm “hủy bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp
đồng”
Hủy bỏ hợp đồng nói chung là chấm dứt việc thực hiện trên thực tế, quyền và
nghĩa vụ của các bên sẽ được giải phóng, trở về thời điểm trước khi giao kết hợp
đồng. Hợp đồng phản ánh ý chí của các bên trên cơ sở tự do thỏa thuận và thiện chí

thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Khi giao kết hợp đồng, các bên đều mong muốn
sẽ đạt được lợi ích hướng tới cuối cùng nhưng việc một bên vi phạm hoặc khơng có
khả năng thực hiện là không hiếm. Do vậy, bên cạnh nguyên tắc “favor contractus”
ưu tiên việc bảo tồn hợp đồng, CISG vẫn có những quy định về việc hủy bỏ khi xảy
ra vi phạm – dường như đi ngược lại với nguyên tắc đã nêu nhưng vô cùng cần thiết
và hủy bỏ đối với vi phạm dự đoán trước cũng không kém phần quan trọng. Nguyên
tắc chung là vi phạm hợp đồng không thể cấu thành trước khi tới hạn và bên kia
phải thất bại trong việc thực hiện cho đến vụ tranh chấp Hoster v. De La Tour 14 một hành động có thể cấu thành vi phạm cơ bản dự đoán trước khi tới hạn thực
hiện15. Điều 72 CISG quy định hủy bỏ hợp đồng do vi phạm khi chưa tới thời hạn
thực hiện hợp đồng đối với hợp đồng giao hàng một lần và Điều 73(2) CISG đề cập
vấn đề này đối với hợp đồng giao hàng từng phần. Quy định này đã được truyền
thống Thông luật (Common law) công nhận dựa trên cơ sở cho rằng việc giới hạn vi
phạm dự đốn trước là khơng cơng bằng bởi vì: “một bên khơng có lý do gì để tiếp
tục bị ràng buộc khi rõ ràng rằng bên kia không thể hoặc sẽ không thực hiện nghĩa
vụ thậm chí trước khi đến hạn16 và việc khơng thể chứng minh khả năng thực hiện
của bên có nghĩa vụ mang theo xác suất rất cao là khi đến hạn, nghĩa vụ ấy cũng
khơng thể hồn thành. Trong khi, truyền thống Dân luật (Civil law) có quan điểm
ngược lại cho rằng việc áp dụng hủy bỏ căn cứ trên vi phạm dự đoán trước là thiếu
Hochster v De La Tour, tham khảo tại truy cập ngày 23/04/2018: 04/1852, De La Tour
thuê người chuyển phát Hochster trong ba tháng trong chuyến đi vòng quanh Châu Âu. Ngày 11/05, De La
Tour hủy bỏ hợp đồng với Hochster vì cho rằng Hochster khơng thể thực hiện nghĩa vụ đã giao kết vì phải ở
lại để thực hiện nghĩa vụ khác đến hạn. Tòa án chấp nhận lập luận của De La Tour, mở đường cho học thuyết
“vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ”.
15
William E. Burby (1949), Business Law, trang 91.
16
Chengwei Liu, tlđd, xem chú thích số 5, truy cập ngày 23/04/2018.
14



11

minh bạch, cơng bằng và mang tính chủ quan của một bên17. Đứng trước quan điểm
trái chiều của hai bên, tác giả nghĩ việc quy định hủy bỏ do vi phạm dự đốn trước
có phần hợp lý và thuyết phục, bởi vì khi một bên đã rõ ràng thấy được vi phạm cơ
bản sẽ xảy ra khi đến hạn thực hiện mà họ vẫn phải chờ tới hạn để vi phạm xảy ra
trên thực tế rồi mới được áp dụng chế tài hủy bỏ sẽ hạn chế khả năng khắc phục của
bên có quyền và phải gánh chịu rủi ro mà đáng lẽ có thể ngăn chặn nếu được hủy bỏ
trước khi tới hạn thực hiện. CISG quy định những căn cứ để áp dụng chế tài hủy bỏ
do vi phạm trước hạn và những căn cứ này cũng góp phần hạn chế việc hủy bỏ để
phù hợp với xu hướng chung là giới hạn sự hủy bỏ như một chế tài cuối cùng (last
resort), cũng chính là mong muốn của những quốc gia đang phát triển.
Xuất phát từ sự quan trọng của quy định này, các văn bản pháp lý quốc tế
khác cũng đưa ra các chế tài xử lý khi xảy ra vi phạm dự đoán trước. Cụ thể, Điều
7.3.3 PICC quy định: “Nếu trước ngày thực hiện nghĩa vụ của một bên mà có chứng
cứ rõ ràng là bên kia sẽ vi phạm cơ bản hợp đồng thì bên có chứng cứ có thể chấm
dứt hợp đồng”18. Tương tự, Điều 9:304 PECL19 cũng sử dụng những từ ngữ gần như
giống hệt Điều 7.3.3 PICC khi quy định về vi phạm dự đoán trước. Hơn nữa, các
điều khoản này mang ý nghĩa rất gần với quy định tại Điều 72(1) CISG. Lý do cả ba
văn bản pháp lý quốc tế này quy định như vậy xuất phát từ ý nghĩa một bên không
mong đợi tiếp tục bị ràng buộc bởi hợp đồng khi họ có cơ sở rõ ràng rằng bên kia sẽ
không thực hiện hoặc không thể thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn, đây cũng có thể là
một cách hạn chế rủi ro, tổn thất đối với bên có quyền.
Như vậy, hủy bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn thực hiện hợp đồng trong
CISG được hiểu là chấm dứt việc thực hiện và giải phóng các bên khỏi các nghĩa vụ
theo hợp đồng dựa trên căn cứ là sự nghi ngờ rõ ràng sẽ xảy ra vi phạm dự đoán
trước của một bên khi tới hạn thực hiện hợp đồng phù hợp với quy định của CISG.

Williston, Contracts (rev.ed), đoạn 1307 (footnote 1 của bài viết E.Tabachnik), Anticipatory breach of
contract, trang 149.

18
Điều 7.3.3 PICC: “Where prior to the date for performance by one of the parties it is clear that there will
be a fundamental non-performance by that party, the other party may terminate the contract.”
19
Điều 9:304 PECL: “Where prior to the time for performance by a party it is clear that there will be a
fundamental non-performance by it the other party may terminate the contract.”
17


12

1.2 Mục đích, ý nghĩa của chế tài hủy bỏ hợp đồng khi chưa tới thời hạn
thực hiện hợp đồng trong CISG
Về cơ bản, các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều được thiết lập trên
cơ sở nguyên tắc thiện chí và tự do thỏa thuận của các bên khi giao kết hợp đồng.
Hủy bỏ hợp đồng là việc không mong muốn nhưng rất cần thiết, đặc biệt khi mục
đích cuối cùng của hợp đồng khơng thể đạt được. Câu hỏi đặt ra là, quy định về hủy
bỏ do vi phạm dự đốn trước có mục đích bảo vệ lợi ích của bên dự đốn bị thiệt hại
do vi phạm dự đoán trước hay nhằm trừng phạt bên dự định vi phạm? Câu trả lời sẽ
dựa vào những mong muốn mà quy định này hướng đến.
Một là, hợp đồng khơng nên được tiếp tục duy trì khi có vi phạm cơ bản rõ
ràng trong tương lai, xuất phát từ quan điểm của Thông luật. Cơ sở triết lý của vấn
đề này “dựa trên định đề rằng sẽ không cơng bằng nếu người có quyền, dù chắc
chắn là nghĩa vụ hợp đồng sẽ không được bên kia thực hiện, khơng có bất cứ một
giải pháp tự vệ nào đối với việc này.”20 Giải thích cho quan điểm này, các học giả
đã lập luận: “Một việc vốn dĩ đã được dự đốn chắc chắn khơng thể được thực hiện
khi đến hạn và một việc trên thực tế đã không được thực hiện khi đến hạn đều dẫn
đến hậu quả như nhau21.” Thật vậy, khi đã hiển nhiên rằng hợp đồng khơng thể đạt
được mục đích mà hai bên hướng tới, việc chấm dứt là phù hợp để các bên kịp thời
hạn chế tổn thất và có những hướng xử lý tiếp theo hơn là chờ đợi tới thời hạn mà

vẫn không thể thực hiện hợp đồng.
Hai là, CISG bảo vệ lợi ích của một bên dự đốn “rõ ràng” rằng bên còn lại
sẽ vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng. Đồng thời, CISG còn nhằm ngăn ngừa
bên hối hận vì đã tham gia vào quan hệ hợp đồng, sau đó tun bố tự giải phóng
nghĩa vụ của chính mình hoặc hành động như thể họ được giải phóng khỏi nghĩa vụ
hợp đồng22. Điều khoản này chủ yếu mang tính chất phịng ngừa. Tuy nhiên, các
quốc gia đang phát triển chỉ trích chế tài hủy bỏ trước thời hạn thực hiện hợp đồng
Nguyễn Minh Hằng (2011), Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng, NXB. Từ điển bách khoa, trang 690.
Keith A.Rowley (2001), A brief History of Anticipatory Repudiation in American Contract Law , tham
khảo tại truy cập ngày 23/04/2018.
22
Mercédeh Azeredo da Silveira, tlđd, xem chú thích số 6, truy cập ngày 24/04/2018.
20
21


13

xuất phát từ lý do: họ cho rằng quy định này quá nghiêm khắc khi đặt ra trường hợp
miễn thông báo cho bên có quyền, từ đó bên được dự đoán vi phạm sẽ mất đi cơ hội
cung cấp bảo đảm trước khi bên có quyền tuyên bố hủy bỏ. Hơn nữa, những điều
kiện về kinh tế và bất ổn về chính trị ở các quốc gia đang phát triển có thể làm trầm
trọng thêm những tình huống cho phép bên có quyền hủy bỏ một cách khơng cơng
bằng23. Nỗi lo lắng này dựa trên việc CISG cho phép một bên được quyền hủy bỏ
không cần thông báo trước khi bên kia tuyên bố không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
của họ24. Tuy nhiên, tác giả cho rằng việc quy định như vậy là có căn cứ và phù hợp
vì khi một bên tuyên bố không thực hiện nghĩa vụ, họ cũng không mong đợi sẽ nhận
được thông báo về dự định hủy bỏ của bên kia để đưa ra bảo đảm đầy đủ.
Ba là, chế tài hủy bỏ hỗ trợ cho chế tài tạm ngừng việc thực hiện nghĩa vụ do
vi phạm dự đoán trước trong những trường hợp khơng nên áp dụng tạm ngừng thực

hiện nghĩa vụ. Ví dụ, trường hợp cần ngay lập tức giảm thiểu thiệt hại mà chỉ có
hủy bỏ hợp đồng mới có thể phịng tránh những rủi ro có thể xảy ra. Ngồi ra, các
nhà soạn thảo CISG cũng cân nhắc Điều 71 (tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ) sẽ
không thể đưa ra sự bảo vệ đầy đủ cho bên có quyền nếu vi phạm dự đoán trước là
vi phạm cơ bản. Đối với vi phạm nghiêm trọng như vậy, chế tài hủy bỏ được áp
dụng là cần thiết để bảo vệ những lợi ích bị đe dọa xâm hại và bên bị đe dọa chịu
thiệt hại có thể nhanh chóng tham gia kí kết hợp đồng khác hoặc loại bỏ sự khơng
chắc chắn đối với những cam kết về mặt tài chính,…25. Hơn nữa, hủy bỏ đối với
hợp đồng giao hàng từng phần26 cũng có mục đích nhằm bổ sung cho Điều 51 CISG
(hủy bỏ một phần hàng hóa) khi khơng quy định cụ thể về vấn đề vi phạm trước hạn
đối với hợp đồng giao hàng từng phần. Ngoài ra, Điều 51(1) chỉ đặt ra quyền hủy bỏ
đối với người mua khi quyền lợi bị người bán xâm phạm.
23

M.Gilbey Strub, The Convention on the International Sale of Goods: Anticipatory Repudiation Provisions
and Developing Countries, đăng tại International and Comparative Law Quarterly (1989) 475 – 501, tham
khảo tại trang 187, truy cập ngày 24/04/2018.
24
Điều 72(3) CISG
25
Trevor Bennett, Comments on Article 72, tại Cesare Massimo Bianca & Michael Joachim Bonell,
Commentary on the International Sales -- The 1980 Vienna Sales Convention 525, 529 (Giuffrè 1987), tham
khảo tại trang 527 – 528, truy cập ngày
25/4/2018.
26
Điều 73 CISG




×