BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN QUANG CHÂN
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VỀ VẬT CHẤT
KHI SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VỀ VẬT CHẤT
KHI SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 60.38.01.03
Người hướng dẫn khoa học: PGS TS. Đỗ Văn Đại
Học viên: Nguyễn Quang Chân
Lớp: Cao học luật An Giang – Khóa 1
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Nguyễn Quang Chân
Học viên cao học - CHDSAG – K1 - Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố
tụng Dân sự - Trường Đại Luật TP. HCM
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ luật học “Bồi thường thiệt hại về vật
chất khi sức khỏe bị xâm phạm theo pháp luật Việt Nam” là cơng trình
nghiên cứu khoa học do tôi nghiên cứu và thực hiện. Các thơng tin và số liệu
được sử dụng để phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng và trung thực.
TP. Hồ Chí Minh, ngày
tháng
năm 2021
Tác giả
Nguyễn Quang Chân
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết thường
01
BLDS
Bộ luật dân sự
02
BLLĐ
Bộ luật lao động
03
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
04
DSPT
Dân sự phúc thẩm
05
DSST
Dân sự sơ thẩm
06
HĐTP
Hội đồng thẩm phán
07
HĐXX
Hội đồng xét xử
08
KDTM
Kinh doanh - thương mại
09
QSDĐ
Quyền sử dụng đất
10
TAND
Tòa án nhân dân
11
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
12
TMCP
Thương mại cổ phần
13
UBND
Ủy ban nhân dân
STT
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CÁC THIỆT HẠI VẤT CHẤT DO SỨC KHỎE BỊ XÂM
PHẠM PHÁT SINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRỊ .................................... 9
1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe ......... 9
1.2. Tổn thất về thu nhập cá nhân của người có sức khoẻ bị xâm phạm .. 13
1.2.1. Thu nhập thực tế của người có sức khoẻ bị thiệt hại. .......................... 14
1.2.2. Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người có sức
khoẻ bị thiệt hại ................................................................................................ 15
1.3. Tổn thất của người chăm sóc .................................................................. 17
1.3.1. Mất giảm thu nhập ................................................................................. 17
1.3.2. Chi phí hợp lý ......................................................................................... 18
1.3.3. Số người chăm sóc ................................................................................. 19
1.4. Tổn thất về các chi phí khác ................................................................... 20
Kết luận Chương 1 ................................................................................................. 23
CHƯƠNG 2. CÁC THIỆT HẠI VẬT CHẤT DO SỨC KHỎE BỊ XÂM
PHẠM PHÁT SINH SAU GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRỊ VÀ CÁC THIỆT HẠI
VẬT CHẤT KHÁC ............................................................................................... 24
2.1. Sau giai đoạn điều trị, sức khỏe phục hồi và tiếp tục được theo dõi .. 25
2.2. Sau giai đoạn điều trị, sức khỏe phục hồi một phần ............................ 28
2.3. Sau giai đoạn điều trị, sức khỏe phục hồi với điều kiện phải có thời
gian ................................................................................................................... 31
2.4. Sau giai đoạn điều trị, sức khỏe không phục hồi hoặc chết ................. 33
Kết luận Chương 2 ................................................................................................. 40
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh kinh tế xã hội không ngừng vận động và phát triển như
hiện nay, các loại tội phạm về cố ý gây thương tích, những bồi thường thiệt hại
về dân sự và trách nhiệm bồi thường Nhà nước đối người bị thiệt hại có những
mức bồi thường khác nhau và chưa chuẩn thống nhất.
Một trong những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự nhân phẩm, uy
tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường” (Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015).
Khi sức khỏe của cá nhân bị xâm phạm thì người có hành vi xâm phạm
đến sức khỏe người khác phải có trách nhiệm bồi thường. Tùy theo mức độ gây
tổn thương phải chịu những chế tài nghiêm khắc của Luật Hình sự, nếu chưa đủ
yếu tố xử lý hình sự thì xử lý về dân sự. Trong hình sự cũng phải giải quyết phần
bồi thường trách nhiệm dân sự.
Chế định về bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói chung, bồi thường thiệt
hại do sức khỏe bị xâm phạm nói riêng là một chế định xuất hiện rất sớm trong hệ
thống pháp luật dân sự của nước ta. Tuy nhiên, đến Bộ luật Dân sự (viết tắt là
BLDS) năm 1995, BLDS năm 2005 thì quy định này mới được luật hóa một cách
đầy đủ. Chế định đã được thể chế hóa tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (gọi tắt Nghị quyết
03/2006/NQ-HĐTP) về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005.
Qua hơn 20 năm thi hành BLDS năm 1995 và năm 2005 đã góp phần điều
chỉnh các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự, phát
huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể về tài sản và
nhân thân, trong đó có quyền được bảo vệ về sức khỏe. Bên cạnh, những mặt
tích cực của BLDS năm 1995 và năm 2005 đã đạt được, Bộ luật này còn một số
bất cập cần điều chỉnh phù hợp với thực tiễn áp dụng.
Những bất cập của pháp luật dân sự hiện hành là chưa làm rõ và định
lượng được những thiệt hại vật chất trong giai đoạn điều trị và sau điều trị do sức
2
khỏe bị xâm phạm. Những chi phí phát sinh hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng
phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, giảm sút của người bị thiệt hại và xác
định thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút của người bệnh và người chăm sóc
mà trong thực tiễn đang diễn ra và chưa có sự thống nhất trong sự vận dụng pháp
luật cũng như trong việc xem xét giải quyết.
Cụ thể, các vấn đề chưa thống nhất: (i) Các thiệt hại vật chất do sức khoẻ
bị xâm phạm phát sinh trong giai đoạn điều trị; (ii) Thứ hai: Các thiệt hại vật
chất do sức khoẻ bị xâm phạm phát sinh sau giai đoạn điều trị; (iii) Các thiệt hại
vật chất đối người chăm sóc ni bệnh trong giai đoạn bệnh nhân điều trị.
Xuất phát từ những vướng mắc, bất cập trên cho thấy tìm ra giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, tác giả lựa
chọn đề tài: “Bồi thường thiệt hại về vật chất khi sức khỏe bị xâm phạm theo
pháp luật Việt Nam”, làm luận văn của mình, chun ngành luật Dân sự có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn áp dụng pháp luật. Đồng thời có sự so sánh đối
chiếu giữa quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật, để thấy được những thay đổi
tiến bộ, những hạn chế từ đó đề xuất kiến nghị hồn thiện pháp luật Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói chung, bồi thường
thiệt hại về sức khỏe nói riêng, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học: nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo,
luận văn thạc sỹ luật học, dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLDS số 91/2015/QH13 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bài
viết trên các tạp chí liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại do tính mạng bị
xâm phạm, cụ thể:
- Sách chuyên khảo, giáo trình:
Giáo trình: Pháp luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của trường Đại
học Luật TP.HCM (Chủ biên: Đỗ Văn Đại), Nxb. Hồng Đức, năm 2018. Giáo
trình dành một phần để nghiên cứu và trình bày về khái quát trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói chung, vấn đề bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
nói riêng. Đây là cơ sở lý luận bước đầu giúp tác giả định hướng và nghiên cứu
chuyên sâu, phát triển nội dung nghiên cứu trong lĩnh vực thực tiễn áp dụng
3
pháp luật liên quan đến chủ đề bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm,
nhất là đối với việc bồi thường thiệt hại vật chất do sức khỏe bị xâm phạm.
Phùng Trung Tập (2017), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, (Sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Cơng an nhân dân. Tác giả, đã nghiên
cứu, bình luận tổng hợp những quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
và một số trường hợp bồi thường cụ thể theo quy định của pháp luật dân sự Việt
Nam. Đồng thời, tác giải đưa ra một số tình huống, xử lý tình huống đưa ra và
nhận xét cách thức giải quyết tình huống đó nhằm làm rõ những thiệt hại vật chất
khi sức khỏe bị xâm phạm, đặc biệt liên quan đến những thiệt hại vật chất do sức
khỏe bị xâm phạm trong giai đoạn điều trị và sau điều trị.
Đỗ Văn Đại (2016), Luật Bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng Việt Nam Bản án và Bình luận bản án (Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba) - Nhà xuất
bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong quyển
sách này, tác giả đã nghiên cứu khoa học tổng hợp, toàn diện về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam. Trên cơ sở
tuyển chọn, phân tích, bình luận các bản án điển hình. Đồng thời, tác giả còn so
sánh với những quy định của pháp luật nước ngồi nhằm giúp cho người đọc có
cái nhìn tổng qt, đa chiều từ đó tác giả đưa ra những ý kiến đánh giá, kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật. Đây là nguồn tài liệu chuyên khảo, phân tích chuyên
sâu, giúp đánh giá những bất cập pháp luật dân sự với công tác thực tiễn hoạt
động xét xử của tòa án nhân dân các cấp, đặc biệt liên quan đến những thiệt hại
vật chất do sức khỏe bị xâm phạm trong giai đoạn điều trị và sau điều trị nhằm
bổ sung và hoàn thiện luận văn này.
- Luận văn thạc sỹ:
Phạm Thị Hương (2014) “Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức
khỏe theo pháp luật Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học
quốc gia Hà Nội. Trong nội dung đề tài người viết đã tập trung nghiên cứu các vấn
đề lý luận, thực trạng và các quy định pháp luật về vấn đề bồi thường thiệt hại trong
trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm, từ đó tìm ra những điểm bất cập, hạn
chế để đề xuất giải pháp, kiến nghị hoàn thiện. Tuy nhiên, những quy định đề tài
được phân tích đánh giá trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005.
4
- Sách báo tạp chí:
Tạp chí Tồ án nhân dân số 8-2008; Đinh Văn Quế, “Một số ý kiến về
khoản tiền bù đắp về tinh thần do bị xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, uy tín quy định tại Bộ luật dân sự”. Mặc dù nội dung tài liệu đề cập
đến những tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm nhưng bước đầu đã
định lượng được những tồn thất và đề xuất các giá trị bồi thường. Theo đó, nội
dung này vẫn có thể vận dụng linh hoạt để xác định những tổn thất về vật chất do
sức khỏe bị xâm phạm trong và sau điều trị, do áp dụng công thức định lượng,
lượng hóa được các tổn thất nêu trên. Đây là nguồn tài liệu này thật sự giúp tác
giả luận văn có cái nhìn tồn diện hơn, bổ sung và hồn thiện luận văn của mình.
Tạp chí điện tử Tồ án nhân dân ngày 13 tháng 09 năm 2020; Phạm Thị
Thu Thủy, “Vấn đề bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm trong trường
hợp bị hại tham gia bảo hiểm”. Nội dung bài viết tập trung phân tích chuyên sâu
về những khoản bồi thường phát sinh từ bảo hiểm, tức là ngoài khoản bồi thường
thiệt hại theo quy định của pháp luật hiện hành thì người bị thiệt hại được bảo
hiểm bồi thường bình thường trường hợp có tham gia bảo hiểm. Kết quả cơng
trình nghiên cứu này tiếp tục là tài liệu q, hữu ích, giúp hồn thiện luận văn
của tác giả.
Báo cơng lý của Tịa án nhân dân tối cao ngày 08 tháng 06 năm 2018;
Trần Quang Huy, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe,
tính mạng con người là một trong những trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng”. Tác giả bài báo trình bày, khẳng định những điểm tiến bộ của quy
định về chế định bồi thường thiệt hại do xâm phạm về sức khỏe, tính mạng con
người là tương đối toàn diện và dần được hoàn thiện hơn trong quá trình xây
dựng pháp luật. Kết quả nghiên cứu này là nguồn dữ liệu quan trọng, bổ ích, góp
phần hồn thiện luận văn thạc sĩ của tác giả.
Nhìn chung, các đề tài đó đã nêu và phân tích những vấn đề chung về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự; đưa ra các yêu cầu cơ bản
trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các quy định của pháp luật
dân sự trong việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm và uy tín, cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại, các
5
hình thức và mức bồi thường, những trường hợp miễn hoặc giảm trách nhiệm bồi
thường. Tuy nhiên, các đề tài, cơng trình nghiên cứu này hoặc là đã được thực
hiện từ khá lâu hoặc là đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức
khỏe, tính mạng ở dạng tương đối khái qt. Trong khi đó, tình hình xã hội biến
động và thay đổi khơng ngừng, mặt khác, Bộ luật dân sự năm 2015 và luật trách
nhiệm bồi thường Nhà nước đã có nhiều sửa đổi, bổ sung để hồn thiện hơn các
chế định, trong đó có chế định bồi thường thiệt hại về sức khỏe nên đề tài mà tác
giả thực hiện là “Bồi thường thiệt hại về vật chất khi sức khỏe bị xâm phạm theo
pháp luật Việt Nam” sẽ có phạm vi, phương pháp tiếp cận với các đề tài, cơng
trình nghiên cứu trên. Đồng thời có sự so sánh, đối chiếu giữa quy định này và
thực tiễn áp dụng pháp luật để thấy được sự thay đổi, những tiến bộ và hạn chế
của quy định pháp luật từ đó có những kiến nghị đề xuất.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài “Bồi thường thiệt hại về vật chất khi sức khỏe bị xâm phạm theo
pháp luật Việt Nam”. Thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật như
Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, các
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao.
Bộ luật dân sự năm 2015 quy định, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật
chất khi sức sức khỏe bị xâm phạm là loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng hay còn gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do có hành vi trái pháp
luật. Đây là một chế định rất đa dạng và khá phức tạp với nhiều loại, khoản phải
bồi thường như: chi phí cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị
giảm sút của người bị thiệt hại; chi phí cho việc khắc phục hậu quả và khoản tiền
bù đắp tổn thất về tinh thần... Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài
này, tác giả khơng nghiên cứu tồn bộ những vấn đề thuộc chế định bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng mà chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề bồi thường thiệt hại
về vật chất khi sức khỏe bị xâm phạm theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Đồng thời, trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và xem xét thực tiễn áp dụng
pháp luật của một số bản án trong hệ thống Tòa án trên lĩnh vực này, tác giả
mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật.
6
Đối với luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã có các quy định bồi
thường do người thực hiện công vụ gây thiệt hại đến sức khỏe, phải bồi thường
theo quy định luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước. Tuy nhiên nếu không thỏa
thuận vẫn phải thực hiện theo con đường tố tụng sẽ đảm bảo quyền lợi cho các
bên. Tuy nhiên, tác giải tập trung trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất sức
khỏe bị xâm phạm theo Bộ luật dân sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được các mục tiêu như trên, tác giả cần làm rõ các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật về các thiệt hại vật chất do
sức khỏe bị xâm phạm phát sinh trong giai đoạn điều trị, chỉ ra những bất cập và
kiến nghị hồn thiện trên cơ sở phân tích pháp luật có đối sánh các bản án của
Tịa án nhân dân các cấp qua hoạt động thực tiễn xét xử.
Thứ hai, phân tích thực trạng và kiến nghị hồn thiện việc áp dụng pháp
luật về các thiệt hại vật chất do sức khỏe bị xâm phạm phát sinh sau giai đoạn
điều trị và các thiệt hại vật chất khác.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu làm sáng tỏ thiệt hại về vật chất khi sức khỏe bị
xâm phạm. Đặc điểm và điều kiện phát sinh bồi thường cũng như chủ thể trong
việc bồi thường và ý nghĩa của việc bồi thường thiệt hại về vật chất khi sức khỏe
bị xâm phạm. Khi sức khỏe bị xâm phạm thì phát sinh nhiều thiệt hại, có thể là
thiệt hại cho người bị xâm phạm, cho người khác bị xâm phạm.
Thứ hai: Nghiên cứu, xác định trách nhiệm bồi thường tổn thất về sức
khỏe, tinh thần làm thiệt hại đến tài sản trong một số trường hợp cụ thể theo quy
định của Bộ luật dân sự năm 2015 gồm: Khi sức khỏe cá nhân bị xâm phạm.
Trong đó đối người có sức khỏe bị xâm phạm có 2 loại thiệt hại gồm thiệt hại về
vật chất và tổn thất tinh thần. Thiệt hại về vật chất được chia làm 2 giai đoạn
gồm giai đoạn điều trị và giai đoạn sau điều trị.
Thứ ba: Đánh giá thực trạng xét xử của hệ thống Tòa án trong việc áp
dụng pháp luật khi giải quyết bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần
7
dẫn đến thiệt hại về tài sản do sức khỏe bị xâm phạm hay thiệt hại về tài sản do
sức khỏe bị xâm phạm. Qua đó tìm ra những điểm vướng mắc, bất cập tồn tại và
đề xuất các giải pháp khắc phục.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, để hoàn thành đề tài luận văn tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học:
Chương I và chương II: Dùng phương pháp phân tích, phương pháp so
sánh, phương pháp chứng minh phương pháp tổng hợp, phương pháp logic để so
sánh các quy định về bồi thường thiệt hại trong giai đoạn điều trị bệnh và sau
giai đoạn điều trị bệnh. Trong trường hợp sức khỏe bị xâm phạm trong Bộ luật
dân sự và các văn bản pháp luật liên quan, phương pháp phân tích dùng để chỉ rõ
các quy định của pháp luật, các cơng trình nghiên cứu hiện có và các tài liệu
khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan thiệt hại được bồi thường
cho bệnh nhân và người chăm sóc cho bệnh nhân bao gồm các chi phí hợp lý cho
việc cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe, mất thu nhập, thiệt hại vật chất và
các chi phí hợp lý khác trong giai đoạn điều trị.
Phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh;
tham khảo ý kiến của các chuyên gia … để thực hiện những nội dung đã đặt
ra.Trong đó, tác giả sử dụng 03 phương pháp: (i) phương pháp phân tích; (ii)
phương pháp tổng hợp và (iii) phương pháp so sánh. Áp dụng 03 phương pháp
vào chương 1 và 2 cùng lúc; (i) phương pháp phân tích, phân tích thực trạng bất
cập của các quy định pháp luật trong khi đó (ii) phương pháp tổng hợp, từ lý
luận cùng với kết quả phân tích sẽ tổng hợp để đưa ra nhận định, kết hợp với (iii)
phương pháp so sánh cùng từ kết quả phân tích bản án. Đưa ra cho từng nhận
định của tác giả, được sử dụng để đánh giá vấn đề pháp lý trong các bản án có
liên quan đến đề tài của luận văn, đồng thời đánh giá việc áp dụng pháp luật
trong bản án, đưa ra những kiến nghị phù hợp.
6. Dự kiến kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm chỉ ra các vấn đề trong việc áp dụng pháp
luật khi giải quyết các tranh chấp của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
8
hành tố tụng nhằm giúp cái nhìn tồn diện hơn trong giải quyết tranh chấp về bồi
thường thiệt hại về vật chất khi sức khỏe bị xâm phạm.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngồi Lời nói đầu, Kết luận chương 1, chương 2, Phần kết luận và Danh
mục tài liệu tham khảo, tác giả dự kiến bố cục đề tài luận văn sẽ thực hiện trong
khoản 40 trang chia thành 2 chương gồm:
Chương 1. Các thiệt hại vật chất do sức khỏe bị xâm hại phát sinh trong
giai đoạn điều trị.
Chương 2. Các thiệt hại vật chất do sức khỏe bị xâm hại phát sinh sau giai
đoạn điều trị.
9
CHƯƠNG 1
CÁC THIỆT HẠI VẤT CHẤT DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
PHÁT SINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRỊ
Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những loại
tranh chấp dân sự phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, việc xác định thiệt hại vật chất
do sức khỏe bị xâm phạm và mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về sức
khỏe, thu nhập, người chăm sóc và các chi phí khác phải căn cứ vào mức độ tổn
thất về vật chất cịn có những vướng mắc trên thực tế. Đây là “Trách nhiệm dân
sự là một căn cứ làm phát sinh một quan hệ nghĩa vụ của chủ thể xác định
được”1 sẽ được quan tâm, làm rõ trong trong chương này.
1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe
Tại điểm a Mục 5 Phần I Nghị quyết 03/2006/MQ-HĐTP quy định
“Người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu rõ từng khoản thiệt hại
thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng từ hoặc giấy biên
nhận hợp lệ về các khoản chi phí hợp lý của người bị hại”. Tuy nhiên chứng từ
hóa đơn không phải là chứng cứ duy nhất để xác định thiệt hại vì có thể tồn tại
những chi phí hợp lý khác mà khơng có hóa đơn.
Bảo vệ sức khỏe khơng bị xâm phạm chính là bảo vệ quyền con người và
theo quy định của pháp luật hiện hành, các tổn thất về sức khỏe do sức khỏe bị
xâm phạm được bồi thường bao gồm những nội dung cơ bản sau đây2:
Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức
năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: Tiền thuê phương tiện
đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị
y tế, chi phí chiếu, chụp X-quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền
máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ,
tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại theo chỉ định
của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và
các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng
Phùng Trung Tập (2017), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, (Sách chuyên khảo), Nhà xuất
bản Công an nhân dân, tr 5.
2
Tại Điểm 1.1 Khoản 1 mục II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 của Hội đồng
thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao, có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
1
10
chống và khắc phục thẩm mỹ… để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của
cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).
Từ các quy định pháp luật về bồi thường hại vật chất nêu trên, tác giả cho
rằng cần làm rõ thêm danh mục chi phí và nhu cầu về chi phí là khác nhau:
Thứ nhất, chi phí cho các các thiết bị y tế, thuốc chữa bệnh, phương tiện đi
lại. Theo đó, thiết bị trong nước hay nhập khẩu, thuốc chữa bệnh chất lượng
thông thường và chất lượng cao, phương tiện đi lại trung bình hay cao cấp. Các
chi phí nêu trên là rất khác nhau do chất lượng cứu chữa, bồi dưỡng và phục hồi
sức khỏe là không giống nhau. Tác giả cho rằng cần phải có danh mục chi phí
hợp lý và hợp pháp thì mới đảm bảo thực thi pháp luật trong đời sống thực tiễn
và nâng cao chất lượng xét xử của các bản án.
Thứ hai, nhu cầu chi phí cho các cộng đồng dân cư, vùng miền là khác
nhau. Trong thực tế, nhu cầu chi phí của dân cư đơ thị thơng thường cao hơn các
vùng nông thôn và miền núi, dân cư lao động cơ bắp và không cơ bắp khá khác
nhau cho nhu cầu cứu chữa, bồi dưỡng và phục hồi sức khỏe. Qua đó, tác giả cho
rằng nhu cầu chi phí cứu chữa khơng chỉ dừng lại trong nước mà cịn chữa bệnh
tại các quốc gia có chất lượng dịch vụ y tế phát triển cao. Như vậy việc định hình
khung nhu cầu chi phí hợp lý góp hồn thiện và nâng cao chất lượng về cứu
chữa, bồi dưỡng và phục hồi sức khỏe khi bị xâm phạm.
Vụ việc thứ nhất:
Bản án số 94/2019 HSST ngày 26/11/2019 của TAND TP. Châu Đốc,
Tỉnh An Giang, xét xử tội cố ý gây thương tích, cụ thể tóm tắt vụ án như sau:
Thành và Tính đã mâu thuẫn trước nên Thành bàn với nhiều người trong bàn
nhậu đi đánh Tính, tất cả Thành, Sơn, Nghĩa, Dương đồng ý. Khi đến nơi, Thành
nhìn thấy Tính và Vũ đang đứng trong phịng số 14 nên xơng vào dùng tay đánh
nhiều cái (2,3 cái) vào vùng mặt Tính. Vũ vào vào ôm Thành can ngăn bị Thành
vùng giẫy, xô đẩy Vũ té ngã ngửa xuống nền gạch; Thành tiếp tục dùng chân đạp
nhiều cái trúng vùng ngực của Vũ, bất tĩnh. Cùng lúc Dương nhặt ly thủy tinh
ném trúng vùng đầu và dùng tay đánh nhiều cái vào đầu của Tính, được Sơn,
Nghĩa can ngăn Tính bỏ chạy ra ngoài đến bến xe khách, Dương đuổi theo dùng
vỏ chay bia thủy tinh đánh trúng vùng đầu của Tính. Mọi người can ngăn đưa
11
Tính, Vũ đến đi cấp cứu; Thành, Sơn, Nghĩa bỏ về. Vũ do vết thương lòng ngực
nặng, chuyển bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh điều trị, khơng phục
hồi, ngày 23/4/2019, Vũ chết tại Bệnh Viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo đó, Thành và Dương và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất
cho bị hại và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan, số tiền phải bồi thường,
cụ thể bồi thường cho các kế thừa của bị hại Vũ và tiến cấp dưỡng một lần nuôi
cháu Lê Tuấn Kiệt, sinh ngày 09/7/2010 với tổng số tiền 112.000.000 đồng Trong
giai đoạn điều trị gia đình của Thành đã giao tạm ứng trước 150.000.000 đồng cho
bà Mai (tổng số bà Mai nhận được bồi thường là 262.000.000đ).
Nhận xét: Trong vụ án trên khoản chi phí hợp lý cho việc cứu chữa được
liệt kê Điểm 1.1 Khoản 1 mục II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP. Thực tế cho
thấy các chi phí gọi là hợp lý nêu trên có nhiều khung giá khác nhau, chất lượng
khác nhau, điều kiện điều trị trong nước và quốc tế cũng khác nhau và nhu cầu
điều trị của các cá nhân là khác nhau. Do bị hại yêu cầu chung số tiền bồi thường
chung cho cứu chữa và thiệt hại tính mạng sức khỏe trong giai đoạn điều trị tổng
số tiền là 150.000.000 đồng nên tịa án cơng nhận
Vụ việc thứ hai:
Bản án số 105/2018/DS-ST ngày 05/12/2018 của Tòa án nhân dân huyện
Bình Đại tỉnh Bến Tre trong vụ “tranh chấp bồi thường thiệt hại sức khỏe bị xâm
phạm” giữa chị Võ Thị T và bà Phan Thi Đ, chị Đào Nguyên Th. Nội dung như
sau: Chị T đang bán tại chợ và có mâu thuẩn với bà Đ nên cải vã. Chị Th con
ruột Đ bán kế bên chạy đạp vào người chị T, bà Đ đè lên người, bóp miệng làm
chị T ngất xỉu, Th tiếp tục đánh T. hậu quả T bị gãy xương mắt cá ngoài cẳng
chân phải, điều trị tại bệnh viện huyện sau chuyển bệnh viện chấn thương chỉnh
hình tại thành phố Hồ Chí Minh. Chị T yêu cầu bồi thường gồm tiền thuốc,, chi
phí đi lại, ăn uống, giám định, phí phẩu thuật …với số tiền 97.856.900 đồng. Tịa
án huyện Bình Đại xét xử chỉ chấp nhận 8.928.900đ gồm các khoản chi phí điều
trị, tiền tàu xe, tái khám và mất thu nhập…và không chấp nhận các chi phí phẩu
thuật lấy ốc inox trong chân trong thời gian tới và thể hiện trong bản án do ca mổ
chưa được thực hiện, thiệt hại hay chi phí mà chị T yêu cầu chỉ mang tính suy
đốn nên chưa có cơ sở chấp nhận
12
Vụ việc thứ ba: Bản án số 64/2019/DS-ST ngày 10/10/2019 của Tịa án
tỉnh Đắc Nơng nhận định: “Đối chi phí cấp cứu và các lần khám bệnh, do ông M
không cung cấp được hóa đơn, chứng từ hợp lệ nên Hội đồng xét xử không chấp
nhận. Đối tiền mua mật, thuốc bắc điều trị do khơng có căn cứ nên xử không
chấp nhận”. Việc cung cấp chứng từ chứng minh cho thiệt hại còn bảo đảm cho
việc điều của người bị thiệt hại là có thật và việc điều trị này phát sinh từ vết
thương do chính người vi phạm tác động đến chứ khơng phải những chi phí từ
thiệt hại khác. Trên thực tế có những vụ việc người có sức khỏe bị xâm phạm
phải điều trị nhưng khơng phải chính từ thiệt hại xảy ra do người có hành vi xâm
phạm mà họ có từ căn bệnh khác
Từ nội dung phân tích ba bản án nêu trên, tác giả tập trung chi phí bồi
thường thiệt hại dân sự trong giai đoạn điều trị bệnh và các bản án trên chưa làm
rõ được chi phí cứu chữa và chi phí hợp lý cho việc cứu chữa điều trị bệnh của
người bệnh và người chăm sóc cho bệnh nhân các chi phí khác được loại trừ khi
người bệnh có những loại bệnh không do người xâm hại gây ra. Do đó các quy
định pháp luật về bồi thường thiệt hại cần làm rõ khung chi phí và nhu cầu chi
phí hợp lý phù hợp với nhu cầu cứu chữa bệnh với chất lượng cao và chi phí lớn.
Thiệt hại được chiết tính rõ cụ thể do người có hành vi xâm phạm gây ra bệnh
chi phí cứu chữa bồi dưỡng phục hồi sức khỏe.Các khoản khác trong chi phí cứu
chữa mà người xâm phạm tác động vào sức khỏe có ảnh hưởng đến bệnh lý khác
trước khi bị xâm phạm đã có của bệnh nhân. Các chi phí và tổn thất của người
chăm sóc bệnh nhân bao gồm các chi phí mà họ bỏ ra và các tổn thất khác do
mất thời gian chăm sóc mà họ bị thiệt hại.
Vấn đề đặt ra phát sinh trên thực tế đều được chấp nhận bồi thường, người
bị xâm phạm phải đưa ra chứng cứ chứng minh và chỉ khi các chứng cứ này
được chấp nhận thì mới được bồi thường. Tuy nhiên trên thực tế có trường hợp
với những chi phí phát sinh trong việc cấp cứu, cứu chữa khơng thể có được
những bằng chứng cần thiết, ví vụ như người bị xâm phạm sức khỏe được vận
chuyển bằng xe hon đa đầu, quá trình vận chuyển chuyển sang xe cấp cứu hoặc
lúc đầu được cấp cứu tại cơ sở tư nhân sau đó chuyển viện…Do đó, tác giả cho
rằng người bị xâm hại có thể chỉ lấy các xác nhận của những người liên quan
hoặc xác nhận của người cứu chữa ban đầu để làm căn cứ chứng minh cho các
13
chi phí. Khi xét xử hoặc giải quyết vấn đề thì phải xem đó là những chi phí hợp
lý cho việc cứu chữa.
Từ các phân tích nêu trên, tác giả đề xuất kiến nghị hoàn thiện các quy định
pháp luật liên quan đến BLDS 2015 và các văn bản pháp luật hiện hành như sau:
Kiến nghị, các chi phí hợp lý trong thời gian điều trị, bổ sung và hoàn
thiện các quy định pháp luật về khung chi phí cụ thể trong quy định khoản 1
Điều 590 BLDS 2015 về phần “chi phí thực tế cần thiết” trong giai đoạn cấp cứu
điều trị. chi tiết danh mục phí chữa trị trong nước và nước ngoài; tại trung tâm
thành phố lớn: HCM, Đà Nẵng Hà Nội và các tỉnh trong cả nước. Khoản chi phí
nào là phát sinh thực tế trong quá trình cứu chữa bồi dưỡng cho người bị thiệt
hại sức khỏe, cho người chăm sóc bệnh nhân, thiệt hại và tính mức bồi thường.
Để có cách hiểu và áp dụng thống nhất trong quá trình xét xử.
1.2. Tổn thất về thu nhập cá nhân của người có sức khoẻ bị xâm phạm
Bộ luật Dân sự 2015 quy định với nội dung “Thiệt hại sức khỏe bị xâm phạm
bao gồm: thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút của người bị thiệt hại” Như vậy chỉ
khi thu nhập thực tế bị giảm hay mất thì người bị thiệt hại mới được bồi thường mất
giảm thu nhập.. Thực chất, đây được coi là phần thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
bởi chính việc gây thiệt hại cho sức khỏe của người bị xâm phạm dẫn đến hậu quả
họ mất đi khoản thu nhập mà đáng lẽ họ được hưởng nếu khơng có sự kiện gây thiệt
hại. Người ni và chăm sóc bệnh cũng bị tổn thất và mất thu nhập. Vì vậy, người
gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường những tổn thất đó.
Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP cũng đề cập với quy định “Bị suy giảm
khả năng lao động vĩnh viễn từ 81%” nhưng cơ sở xác định trạng thái của người
bị thiệt hại ở mức độ “Mất khả năng lao động” hay “Mất hoàn toàn khả năng lao
động” thì cũng chưa có sự quy định cụ thể. Vấn đề này cũng có quan điểm
“Nghiên cứu thực tiễn xét xử cho thấy khi tỷ lệ thương tật 90% trở lên thì Tịa án
theo hướng mất hồn tồn khả năng lao động”. Trên thực tế người bị thiệt hại có
thể bị suy giảm 40%, 50% khả năng lao động hoặc thấp hơn mức suy giảm này,
trường hợp này khơng có cơ sở để xác định người bị thiệt hại bị mất hoàn toàn
khả năng lao động của người bị thiệt hại đang ở mức độ nào với tỷ lệ thương tật
tương ứng nên dựa vào sự quy định của Thông tư số 32/BYT/TT, ngày 23 tháng
14
8 năm 1976 của Bộ y tế ban hành tiêu chuẩn thương tật và tiêu chuẩn mất sức
lao động mới, theo đó xác định cụ thể khả năng lao động như sau: “Hạng A là
hạng tàn phế, mất sức từ 81% đến 100%; Hạng B là hạng mất sức lao động từ
61% đến 80% tạm thời hoặc lâu dài; Hạng C là hạng giảm sức từ 41% đến
60%”. Căn cứ vào quy định trên có thể xác định cụ thể khả năng lao động của
người bị thiệt hại tương ứng với mức độ thương tật mà người bị thiệt hại đang
gánh chịu. Như vậy có thể xác định tỷ lệ thương tật 81% trở lên “Mất hoàn toàn
khả năng lao động”, tỷ lệ thương tật từ 61% đến 81% “Mất khả năng lao động”,
tỷ lệ thương tật dưới 60% là giảm sút khả năng lao động. Việc xác định này hoàn
toàn phù hợp với những thiệt hại thực tế xảy ra.
Tổn thất về thu nhập cá nhân của người có sức khoẻ bị xâm phạm phải
được bồi thường bao gồm nhưng nội dung cơ bản sau đây3: Thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm
người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khỏe bị xâm phạm họ phải
đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ
được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó. Đối người
chăm sóc cho bệnh nhân thì thời gian chăm sóc cứu chữa cũng như khoản thời
gian sau điều trị bệnh cũng cần người chăm sóc thì cũng được bồi thường.
1.2.1. Thu nhập thực tế của người có sức khoẻ bị thiệt hại.
(1) Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn
định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào
mức lương, tiền cơng của tháng liền kề trước khi người bị xâm phạm sức khỏe nhân
với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại;
(2) Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và
hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì
lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất
cả các tháng) trước khi sức khỏe bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác
định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại;
(3) Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập
thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu
Tại Điểm 1.2 Khoản 1 mục II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
3
15
nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định
khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại;
(4) Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc
và chưa có thu nhập thực tế thì khơng được bồi thường theo quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 609 BLDS 2005.
1.2.2. Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người có sức
khoẻ bị thiệt hại
Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian
điều trị có hay khơng. Nếu có thì tổng hợp số thu nhập là bao nhiêu. Bước hai:
Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều
trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn tại
điểm a tiểu mục 1.2 Nghị quyết số 03. Nếu khơng có khoản thu nhập thực tế nào
của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị
thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của
người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại
khơng bị mất.
Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi
sức khỏe bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do
sức khỏe bị xâm phạm, A phải điều trị nên khơng có khoản thu nhập nào. Trong
trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất. Ví dụ 2: B làm công cho một
công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế của B trước khi sức khỏe bị xâm
phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 600 ngàn đồng. Do sức khỏe bị xâm
phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương
là 300 ngàn đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị
giảm sút 300 ngàn đồng. Ví dụ 3: C là cơng chức có thu nhập hàng tháng ổn định
500 ngàn đồng. Do sức khỏe bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều
trị cơ quan vẫn trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập
thực tế của C không bị mất.
Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Nghị quyết số 03/2006 HĐTP và BLDS
2015 chưa đưa ra được cách tính cũng như dự tính được thiệt hại vật chất đối sức
khỏe bị xâm phạm như trường hợp ông Vũ là một kỹ sư cơ khí lành nghề làm