Tải bản đầy đủ (.doc) (158 trang)

Tổng hợp bài giảng của thầy hiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.57 KB, 158 trang )

Đề 1
Nhà văn Thuận, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết, trong một bài trả lời
phỏng vấn đã phát biều:
T
" ác phẩm nào sẽ có độc giả ấy, một cách viết khác sẽ yêu cầu một cách đọc
khác"
Bằng trải nghiệm văn học, anh/ chị hãy bình luận ý kiến trên.
1. Giải thích:
- Tác phẩm: kết quả của q trình sáng tạo của nhà văn và là đối tượng cho hoạt động
tiếp nhận của độc giả.
* Lưu ý:
+ Các tác phẩm nghệ thuật ln tồn tại vì người khác chứ ko vì nó và cho nó, giống
một bức tranh tồn tại cho người khác ngắm, một bản nhạc tồn tại cho người khác nghe,
một tp văn học tồn tại cho người khác đọc nó.
+ Chữ người tử tù: Tại sao HC khuyên QN bỏ nghề? Tác phẩm ra đời trong tăm tối là
một sự bất cơng cho chính tác phẩm. Vì nó mãi mãi là một bí mật. Nhà văn là người
khai sinh ra tác phẩm nhưng nó chỉ thực sự bắt đầu khi đến với công chúng => Đời
sống đúng nghĩa của nghệ thuật là đời sống của ko gian công.
- Độc giả: Người đọc tp cho nhà văn viết ra, anh ta chính là người thưởng thức, cảm
nhận, cắt nghĩa, sáng tạo ý nghĩa từ nó và về nó.
* Động cơ sáng tạo: muốn bày tỏ, được mã hóa vào ngôn ngữ nghệ thuật, Tuy nhiên ý
đồ ko đồng nhất với ý nghĩa. Ý nghĩa được tạo sinh trong sự tương tác với người đọc
Ví dụ: Bài ca dao thằng Bờm: Có nhiều cách hiểu theo từng giai đoạn:
+ Là bài ca dao trào phúng: phản ánh sự ngốc nghếch, khờ khạo của thằng Bờm
+ Bờm ko khờ khạo

1


=> Đọc là sự sáng tạo: ý nghĩa tác phẩm ko chỉ phụ thuộc vào cấu trúc nội tại của văn
bản mà dựa vào sự tương tác của người đọc. Ko một tp văn học nào có đời sống đúng


nghĩa nếu ko có sự đọc.
* Roland Barthes: Cái chết của tác giả; Cái chết của tác giả đánh dấu sự lên ngơn của
người đọc. Đánh dấu có thể hiểu là nhường chỗ.
=> Đọc văn để tìm ý nghĩa: văn học ko phải là con đường duy nhất nhưng là một trong
những cách để người ta kiến tạo ý nghĩa của thế giới mà mình đang sống và ý nghĩa
của chính mình. ý nghĩa mà ta đúc rút được từ trong trang sách sẽ làm thay đổi thế
giới, khiến thế giới trở nên ý vị. Đau khổ lớn nhất là khi người ta ko hiểu đời sống ta
đâng sống có ý nghĩa gì. (* Bến quê: cái làm cho Nhĩ đau đớn nhất: sắp chết mà chưa
được thực sự sống, mọi thứ nằm ngoài tầm tay)
- Cách viết: bút pháp, phong cách. Tồn bộ hoạt động sáng tạo văn chương có thể quy
giản thành vấn đề cách viết. Viết như thế nào ln quan trọng hơn viết cái gì. Viết như
thế nào là hình thức của thơng điệp, viết cái gì là nội dung của thông điệp, liên
quan đến cách ứng xử với ngôn từ trong văn học.
-> Cách viết ko chỉ thể hiện mối quan hệ giữa nhà văn với hiện thực đời sống mà còn
là lao động của nhà văn trên phương diện ngôn từ, cấu tứ, sự vận dụng, biến hóa mơ
hình thể loại nhằm kiến tạo nên thế giới nghệ thuật.
- Cách viết khác: cách viết mới lạ, dị biệt, có thể phá vỡ khn mẫu đã được định
hình, vênh lệch với hình dung đã được cố định trong nhận thức của người đọc, khiến
người đọc bỡ ngỡ, ngạc nhiên. Bằng việc sáng tạo cách viết, nhà văn có quyền địi hỏi
độc giả có cách đọc khác.
- Cách đọc: Sự cảm nhận, tri nhận thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Đó là cách
chúng ta cắt nghĩa, lí giải, tạo nghĩa cho tác phẩm, bao hàm cả sự đánh giá, thẩm định,
tri nhận tác phẩm nghệ thuật, tái tạo thế giới nghệ thuật.
- Cách đọc khác: mới, thoát ra khỏi những khung đánh giá đã trở thành cứng nhắc,
giáo điều, mở ra những khả năng sáng tạo độc đáo, là cách đọc ra khỏi lối mòn, cách
đọc chứa đựng những khả thể tạo nghĩa mới.
2


=> Ý nghĩa câu nói: Bàn về mối quan hệ, tác động qua lại giữa tác phẩm và người

đọc. Ko có tác phẩm văn học nào ko nằm trong mối quan hệ với người đọc. Mặt khác,
sự sáng tạo của nhà văn đòi hỏi người đọc phải thay đổi. Văn học chỉ thực sự phát
triển khi cả cách viết và cách đọc đều đổi mới. Sự sáng tạo nếu ko tìm được cách đọc
tương ứng thì ko có giá trị, ko thúc đẩy được sự phát triển của văn học.
2. Bàn luận (đánh giá từ phương diện lí luận và thực tiễn)
a> Lí luận:
- Nhà văn khi cầm bút sáng tác đều có những băn khoăn nhất định về đối tượng mà
mình hướng đến. Một số nhà văn trực tiếp hoặc gián tiếp coi sáng tác như là hành vi
"ta gửi cho mình". Tuy nhiên, mình ko đồng nhất với ta -> khách thể hóa cái tơi bản
ngã của mình thành 1 kiểu độc giả khác, một kiểu tồn tại khác. Nó mang dáng dấp của
một độc giả lí tưởng. Khi nhà văn hiểu độc giả là ai thì sẽ biết viết gì, viết như thế nào.
-> Quan niệm về người đọc trở thành một ý thức quan trọng trong sáng tạo của nhà
văn. Hình ảnh độc giả chi phối rất sâu đến việc sáng tác của nhà văn.
- Mỗi kiểu tác phẩm có độc giả tương ứng với nó. Có tác phẩm dành cho đơng đảo độc
giả, có tác phẩm chỉ dành cho độc giả tinh hoa. Có những nhà văn ý thức rõ độc giả
của mình là ai, họ được quyền lựa chọn độc giả của mình. Những tác phẩm thỏa mãn
tầm đón nhận của cơng chúng thường được cơng chúng đón nhận.
* Ví dụ: Nguyễn Nhật Ánh: Viết khá liên tục, gắn với thiếu nhi. Ông hiểu, thỏa mãn
độc giả thiếu nhi ko dễ chút nào, nó vừa có mẫu số chung vừa thay đổi. Ơng ln có
những điều chỉnh cần thiết. Tuy nhiên, NNA ko phải là nhà văn của những độc giả yêu
cầu có sự thách thức về mặt thẩm mĩ, trau dồi sự nghĩ của người đọc.
- Hiểu độc giả của mình là ai và biết được độc giả cần gì, từ đó ý thức mình viết như
thế nào là nỗi băn khoăn thường trực. Thực tế luôn tồn tại 2 hướng:
+ Viết để thỏa mãn công chúng: ko dễ
+ Viết để thách thức tầm đón nhận của cơng chúng: cũng ko dễ. (Thực tế có nhà văn
viết như một cách thách thức 1 lượng độc giả chứ ko phải để thỏa mãn họ). Trong một
3


số trường hợp, việc bướng bỉnh của nhà văn khi từ chối độc giả được hiểu như một sự

can đảm.
* Linda Le trong Sóng gầm: 1 tác phẩm viết về nỗi cay đắng của người viết: Tôi hiểu
độc giả muốn gì nhưng tơi ko đáp ứng, vì nếu cứ chiều chuộng độc giả thì sẽ ko có cú
hích tạo ra sự thay đổi
* Vangoc: Sinh thời ko được thấu hiểu, ko thỏa mãn mĩ cảm của cơng chúng đương
thời. Ơng sống trong sự thống khổ liên miên. Khi ông qua đời, tranh của ông được đưa
đến Pháp, thế giới mới phát hiện ra những gì ơng vẽ là 1 bút pháp hội họa mới. Hiện
tại trở thành di sản nghệ thuật của văn hóa nhân loại, khác đương thời tranh Vangoc đi
ngược lại thẩm mĩ của công chúng.
* Paul Cezanne: Sinh thời, người ta cho rằng toàn vẽ những thứ tầm thường. Bằng sự
lặng thầm của mình, ơng đã tạo ra bút pháp, kĩ thuật mới. Thế giới nhìn táo, lê theo
mắt của Cezanne => một sự tôn vinh muộn màng.
=> Có những tác phẩm nghệ thuật ko thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của cơng chúng
đương thời. Nhưng đó ko phải là 1 tác phẩm dở. Nếu người đọc ko thay đổi cách nghe,
cách đọc sẽ trở nên bảo thủ, giáo điều -> lực cản của nghệ thuật.
b> Thực tiễn:
(Tác phẩm mới ở chỗ nào? buộc người đọc phải thay đổi cách đọc như thế nào? Sự
thay đổi cách đọc ấy có ý nghĩa gì?)
- Thơ mới:
+ Thời kì đầu được xem là lập dị, nhố nhăng, thậm chí ko phải là thơ. tinh thần tự do
của Thơ mới ít nhiều khiêu khích, gây hấn với thơ luật. Trong số các thi sĩ bị phê bình
nặng có Xn Diệu. Thơ XD tây trong tư tưởng và hình thức biểu đạt. Những người
theo quan điểm truyền thống, lòng ham sống, yêu đời của XD bị chê là ích kỉ, nhiều
câu thơ như thơ dịch, thô. -> Trong bối cảnh thuộc địa, việc chê anh tây còn nặng hơn
là chê thơ anh dở.. Vì Tây đồng nghĩa với lai căng ->một sự phán xét về mặt đạo đức.

4


+ Hoài Thanh đại diện cho cách đọc mới, xem thơ XD là nguồn sống dat dào chưa

từng có ở chốn nước non lặng lẽ này. Thơ XD dành cho một lớp người có kinh nghiệm
thẩm mĩ mới, XD thuộc về tuổi trẻ "đã có những người trẻ yêu mến tơi".
=> Thơ mới đã kịp có một lớp cơng chúng mới để bảo vệ những cách tân của mình. Có
những nhà văn đi trước thời đại nhưng ko tìm được cơng chúng. Ví dụ: Nguyễn Đình
Thi với những bài thơ ko vần (Bài Khơng nói, Sáng mắt trong...). Những bài thơ này
là một dấu hiệu thoát ra quỹ đạo của Thơ mới, thuộc về chủ nghĩa ấn tượng, mỗi bài
thơ như những tốc kí, có nhiều qng đứt gãy, tiết chế cảm xúc, đem thơ trở lại với sự
hàm súc và những quãng lặng. Thơ NĐT bị phê phán nặng (Thế Lữ, Thanh Tịnh,
Xuân Diệu), 2 nguwoif ủng hộ là Nguyên Hồng, Văn Cao -> Cái mới trong thơ NĐT
đã ko kịp có một cơng chúng rộng rãi làm bệ đỡ. Theo Đỗ Lai Thúy: đó là những cánh
én nhưng chưa kịp làm nên mùa xuân mới cho thơ ca.
- Nguyễn Minh Châu:
+ Với Bức tranh, NMC đã bắt đầu đánh dấu sự khác biệt. Nhưng đến thập niên 80, với
tập Bến quê và Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngồi xa: nhân
vật khó nhận diện, thơng điệp ko rõ ràng, các nhà phê bình cịn cho rằng NMC đã ko
cịn là mình ở thời kì dấu chân người lính.
+ Tuy nhiên, chính chỗ họ phê bình lại thể hiện sự đổi mới tư duy nghệ thuật của ơng,
buộc độc giả phải đọc khác. NMC địi độc giả cùng suy nghĩ với những vấn đề ông đặt
ra, có sự dân chủ giữa nhà văn, tác phẩm và người đọc. Ko thể thụ động tiếp nhận
thông điệp.
* Chiếc thuyền ngoài xa: nghệ thuật nên viết về cái đẹp hay cái thật? Tại sao cái đẹp
và cái thật ko thể hòa giải với nhau?
* Bức tranh: 1 tác phẩm nghệ thuật vinh danh nghệ thuật nhưng quên đi thân phận cá
nhân con người thì có cịn là tác phẩm chân chính.
+ Những tác phẩm xây dựng nhân vật như hình tượng lưỡng hóa, ko hồn kết: nếu chờ
đợi 1 sự rõ ràng từ tp sẽ khiến người đọc thụ động, rất dễ lừa người đọc, khiến người
đọc tin chứ ko phải băn khoăn về những gì đặt ra.
5



- Trần Dần với tp Ga cuối (1988):
+ Thơ lãng mạn: Thiên về tâm tình, thổ lộ, cảm xúc được nhận ra dưới ánh sáng của lí
tính, nó sáng rõ. kết cấu của bài thơ lãng mạn khá tuần tự, logic. Thơ lãng mạn giàu
tính văn xi, là dấu hiệu đột phá so với thơ trung đại.
+ CN tượng trưng: khắc phục xu hướng thơ giãi bày, làm cho thơ mất đi sự u uẩn. Đã
đến lúc thơ phải trở về với cái u uẩn, kín đáo, hàm súc. Cn tượng trưng nén lại, nói
bằng biểu tượng nhiều hơn, tạo ra một kinh nghiệm đọc thơ khác. Ví dụ thơ trần dần:
Nhịp điệu, cách gieo vần gợi ta nghĩ đến sự vận động của con tàu ở ga cuối. Trạng thái
dùng dằng trong nội tâm con người. Thay vì miêu tả trực tiếp, nhà thơ dùng yếu tố âm,
vần để ám thị sự bối rối, khắc khoải của con người. Tại sao khi đến đích lại bồn chồn
chứ ko phải hân hoan? Thơ lúc này ko còn là biểu đạt một triết li nào rõ ràng (Thơ ko
dùng để biểu đạt những gì có thể diễn xi được).
- Dương Tường với Romance 3:
+ Mĩ học tượng trưng: Thơ phải thu hồi tài sản của nó từ âm nhạc. tiêu đề bài thơ là 1
ca khúc. -> Liên tưởng như 1 ca khúc đpẹ, các khuôn nhạc được láy đi láy lại, bài thơ
như một bản nhạc.
+ NHững kết hợp từ mới: Đường dương cầm (sang trọng, lịch lãm, dục cảm)
-> Thay vì địi hỏi bài thơ thể hiện thơng điệp gì, thử xem ngơn ngữ bài thơ dẫn dụ ta
vào thế giới gì? Ngơn từ chỉ làm việc khơi dậy cảm giác, khiến người đọc được dẫn dụ
vào thế giới vừa thực vừa hư, vừa lịch lãm, snag trọng, vừa thanh sạch vừa dục cảm.
-> Những con chữ trong bài thơ như một thực thể có diện mạo, có âm vang. Tiếng Việt
có mĩ cảm, có sức gợi, có độ vang vọng. Ngơn ngữ chưa bị cơng cụ hóa hồn toàn.
* Thời covid: tiếng Việt bị tàn phá, 1 sự kết hợp kinh khủng, do biến động dân cư)
-> Bài thơ giải phóng ngơn từ ra khỏi thân phận cơng cụ
3. Nâng cao
- Sáng tạo cách viết là điều ko đơn giản. Vậy 1 cách đọc khác có dễ hình thành ko? Vì
mỗi cách đọc đều phụ thuộc vào nhiều nhân tố (giáo dục, văn hóa, chính trị, lịch sử),
6



khiến cho cách đọc của độc giả ko tiếp cận được với cái mới. Ko phải độc giả có tầm
văn hóa thấp mới bảo thủ. Ngay cả Thế Lữ, Xuân Diệu cũng phê bình NĐT.
-> Muốn đổi mới văn học phải đổi mới cả chính người đọc. Đổi mới người đọc nan
giải nhiều hơn so với người sáng tạo
- Người đọc là 1 tiêu chí để đánh giá văn học, nhưng sự đón nhận của số đơng cơng
chúng ko đồng nghĩa với tp ấy có giá trị bền vững. Có những tác phẩm bị ghẻ lạnh, tấn
công, nhưng theo thời gian, nó lại cắm mốc cho sự phát triển của văn học.

Đề 2:
Có ý kiến cho rằng: nhà văn là kẻ hào phóng: anh ta để độc gải biến trang
viết của anh thành thế giới riêng của họ.
Theo anh/ chị, nhà văn có thật sự là " kẻ hào phóng" như nhận định nói
trên?
* Một số lưu ý:
* Những câu văn lịng vịng: giống như người rê bóng nhưng mãi ko ghi được bàn
* Những cách diễn đạt tu từ bay bổng: kiểu nghệ sĩ nửa mùa, câu văn ko có trọng
lượng, kém hiệu quả trong việc truyền đạt thơng tin, ko có triển vọng, năng lực nghiên
cứu. Tư chất nghiên cứu phải là viết những câu văn ko đánh lừa người đọc theo kiểu
làm dáng.
1. Giải thích:
Trước khi xác định từ khóa cần đọc tổng thể nhận định, quan sát logic ngữ pháp, vì
logic ngữ pháp là logic tư duy. Khi chúng ta hiểu được logic ngữ pháp của nhận định
sẽ giúp ta biết dẫn dắt, chuyển ý một cách logic chứ ko phải dẫn dắt gắng gượng hoặc
điệu đà một cách buồn cười). Đây là câu ghép: vế 2 giải thích cho vế 1, trọng tâm rơi
vào vế 1, bàn về tiếp nhận văn học nhưng trước hết phải xuất phát từ chủ thể sáng tạo.
Nếu đi ngay vào người đọc thì cách mở bài và triển khai sẽ ko logic, dù vẫn có thể
đúng.
7



- Nhà văn (khơng giải thích sâu): là người lao động với ngôn từ để tạo nên tác phẩm
văn học.
- Kẻ hào phóng: (Liên tưởng tới những tính từ cùng trường nghĩa: hào hiệp, rộng rãi,
sẵn sàng cho người khác những gì mình có): một người rộng rãi, thoải mái, sẵn sàng
cho người khác những gì mình có. Những thứ ấy phải là những thứ quý giá, có ý nghĩa
đối với bản thân người cho. Đối với nhà văn, thứ quý giá và ý nghĩa nhất của anh ta
chính là trang viết. Vì trang viết kết tinh giá trị, tình cảm, chứa đựng công phu của nhà
văn trên ngôn ngữ, là những thứ tích đọng những điều sâu thẳm, bí mật, khó nói lên
được bằng thứ ngơn ngữ nào khác).
- Nhà văn trao trang viết của mình cho người đọc. Anh ta ko chỉ cho người khác cái
quý giá mà còn tạo điều kiện cho người nhận được làm những gì mà họ cảm thấy thỏa
mãn nhất đối với bản thân họ. Cụ thể ở đây, độc giả: là người biến trang văn của nhà
văn thành một thế giới riêng của họ. Độc giả trở thành chủ thể sáng tạo biến trang văn
thành một thứ thuộc về đời sống tinh thần của họ.
=> Câu nhận định bàn về vấn đề nhà văn là ai. Có nhiều tiêu chí để định nghĩa nhà
văn, trong có một cách rất quan trọng là chúng ta hình dung nhà văn trong mối quan hệ
với độc giả. Ở mức độ nào đó, nhìn vào người đọc ta có thể hiểu được nhà văn là ai.
=> Bàn về phẩm chất của nhà văn: sự hào phóng. Câu hỏi nhà văn là ai được trả lời
trong mối quan hệ với độc giả của mình.
2. Bàn luận (chỉ ra cái lí của nhận định)
- Từ góc độ lí thuyết:
- Nhà văn tạo ra tác phẩm. tác phẩm văn học chỉ thực sự có đời sống đúng nghĩa khi
nó rời khỏi nhà văn để đến với công chúng. Các nhà lsi lauanj nghệ thuật cho rằng tp
văn học ko phải là vật tồn tại tự nó và cho nó mà nó là một tồn tại cho kẻ khác. Khi
nhà văn đưa tp của mình đến với cơng chúng, đưa những gì đã đúc kết cảm xúc, tư
tưởng, thậm chí chất chứa cả những bí mậtt của mình cho cơng chúng, có nghĩa là từ
đây anh ta trao cho trang viết của mình một đời sống tự do. Độc giả khi tiếp nhận trang
văn, thực chất là tiếp nhận một văn bản chứa đựng những khoảng trống, khoảng trắng,
8



những thứ mà nhà văn đã "bỏ lại" cho họ. Tp văn học nào cũng đầy những yếu tố mơ
hồ, nghịch lí, những thứ ko nói hết, vì thế nó hiện diện trước mắt chúng ta là một thực
thể gây chú ý, gợi băn khoăn. Nó ko hiện diện trước mắt chúng ta như một thứ đã hoàn
tất mà như một "đề án" cịn bỏ ngỏ. Thực tế đó khiến người đọc ko thể thụ động khi
đối diện với văn bản nghệ thuật mà nhà văn trao cho mình. Người đọc phải kích hoạt
sự tưởng tượng mà nhà văn trao cho mình, kích hoạt cảm xúc trong thế giới tinh thần
của mình để tái tạo lại trong tâm trí cái thế giới hình tượng do nhà văn tạo nên. Bằng
vốn đọc, vốn sống, vốn ngôn ngữ, người đọc thực hiện các thao tác liên kết các yếu tố
trong văn bản nghệ thuật lại để tạo thành một chỉnh thể, chỉnh thể ấy gợi ra một ý
nghĩa, đó chính là mối liên hệ giữa tp với người đọc. Tp ấy có thể làm cho người đọc
nhìn thấy những gì, nhận ra những gì, thấy được cái gì mà trước khi đọc văn bản, mình
chưa từng thấy. Và tất cả những gì mình vừa thấy, nó có ý nghĩa như thế nào trong
hành trình nhận thức của chúng ta về đời sống, về thế giới, về chính bản thân mình, có
điều gì nó làm chúng at ko thể nghĩ như trước được nữa.
Ví dụ: Người đàn bà ngồi đan (Ý Nhi) một cột mốc quan trong của thơ ca hậu chiến
- Nhan đề: tất cả những từ này đều có trong từ điển. Nhưng ý nghĩa của 1 tp văn học
ko phải là thứ có sẵn. Bài thơ sáng tác năm1984. Ta phải hình dung cơng việc ngồi
đan: đó ko phải là cơng việc to lớn mà rất đỗi bình thường trong cuộc sống hàng ngày.
Điều này có ý nghĩa gì? cần quan tâm đến thời điểm mà bài thơ này sáng tác: 1-1984,
đó là thời điểm hậu chiến. Trước đó ko phải người phụ nữ ko được tạo hình trong văn
học nghệ thuật, nhưng suốt những năm chiến tranh, ta sẽ chỉ bắt gặp một người con
gái Sông La, em như trời biển quê ta, hiên ngang đứng giữa trời, những mẹ cầm súng,
cô gái tiền phương. Bản thân nhan đề bài thơ đặt trong tính quy chiếu liên văn bản đó
lập tức phát lộ một ý nghĩa đối với người đọc: viết về một người phụ nữ vô danh làm
một cơng việc bình thường trong đời sống hàng ngày, tự bản thân điều đó đã chứa
đựng 1 thứ mĩ cảm mới, chưa đựng một sự tương phản với những cách tạo hình về phụ
nữ vốn có. Thơ trước 1975 đặt người phụ nữ trong ko gian sử thi, nhìn họ bằng cái
nhìn của nam giới (nam giới ở đây là một trường giá trị, chịu chi phối cái nhìn của thời
đại). Ý Nhi khắc họa người phụ nữ trong một ko gian phi sử thi. Trước đó, thơ văn

cách mạng miêu tả người phụ nữ từ điểm nhìn nam giới. bài thơ này người phụ nữ
nhìn chính cái giới của mình.
9


-> Tồn bộ bài thơ ko có từ nào tân kì mà rất đỗi giản dị. Người phụ nữ được tạo hình
thơng qua một loạt các cặp từ trái nghĩa: nhẫn nại- vội vã, thông qua hàng loạt cấu
trúc(vừa- vừa; hay- hay), ko có một điều gì rõ ràng. Bài thơ miêu tả một con người
bình thường, làm một cơng việc rất đỗi bình thường, nhưng cả bài thơ vẫn gợi nên một
sự bí ẩn. Phát hiện ra sự bí ẩn của cái đời thường là một cuộc cách mạng mĩ học của
thơ sau 1975
Bài thơ ko có mọt thơng điệp đạo đức nào. Nó đề xuất với chúng ta về con
nguwoif đời thường. Câu chữ trên bề mặt ko gợi tả cảm xúc trực tiếp, cảm xúc được
nén lại ở độ sâu. Nói như Chế Lan Viên là phải giấu tình cảm của mình đi như ém
quân trong rừng vắng, tình cảm phải nén lại cao độ, tạo 1 không gian tưởng tượng
rộng rãi cho độc giả. Bài thơ mời độc giả cùng lặng ngắm một người phụ nữ trong đời
thường, cảm nhận sự bí ẩn của cái hàng ngày, nhận ra sự thống nhất của hàng loạt các
mặt đối lập, tạo nên cấu trúc hài hào. mà cấu trúc hài hịa được coi là cấu trúc điển
hình của cái đẹp.
Bài thơ giải phóng người phụ nữ ra khỏi tất cả những hình ảnh thường được
gắn liền với người phụ nữ như tảo tần chịu thương chịu khó, anh hùng bất khuất. Đó là
một người phụ nữ rất đỗi cá nhân, riêng tư, vừa bình thản vừa có sự xáo động trong
nội tâm, một người phụ nữ vừa hiện diện trong đời thường vừa bí ẩn, vừa gần gũi vừa
xa xơi. nhìn người phụ nữ như một đối tượng thẩm mĩ chứ ko phải là một hiện thân
của đạo đức.

-> Văn bản do nhà văn viết ra đã đi vào thế giới tinh thần con người, trở thành sự kiện
trong hoạt động nhận thức của con người.

Đề 3

Trong buổi lễ khai giảng năm học 2021-2022 của khoa văn học trường
ĐHKHXHNVTPHCM, nhà giáo Huỳnh Như Phương đặt câu hỏi:
10


Trong hồn cảnh khắc nghiệt vừa qua, khơng tránh khỏi có lúc chúng ta tự
hỏi văn học để làm gì, văn học cần cho ai. Văn học có cần cho người bệnh đang
giành giật từng hơi thở trong bệnh viện dã chiến? Văn học có cần cho người mẹ già
đẩy chiếc xe với chút tài sản bé mọn trên đường về miền Tây? Văn học có cần cho
đơi vợ chồng trẻ chở con thơ dưới mưa gió trên đỉnh đèo Hải Vân theo đoàn người
tránh dịch?
Bằng trải nghiệm văn học, anh/ chị hãu trả lời câu hỏi trên của nhà giáo HNP.
* Dàn ý:
1. Lịch sử của văn học đi liền với lịch sử của những thái độ, định kiến dành cho
nó nhẹ thì người ta hồ nghi, nặng thì người ta đổ lỗi kết án.
Tình thế mà văn chương thường trực bị tra xét: văn chương có ý nghĩa gì, văn
chương liệu có thể có tác dụng gì trong những bối cảnh khốc liệt mà lịch sử nhân loại.
Không chỉ các triết gia, các nhà chính trị, xã hội học ngờ vực về tính hữu ích của văn
chương trong bối cảnh khủng hoảng mà hơn ai hết, nhà thơ, nhà văn là những người dễ
nhạy cảm về địa vị của văn chương trong những cơn biến động của thời cuộc. Tác
phẩm của những nhà văn lớn nhất thhường là những hiện tượng bị ngờ vực, bị chất
vấn, thậm chí bị đổ lỗi nhiều nhất, rằng họ vô dụng, vô ích trong những biến cố khủng
hoảng của nhân loại:
-> Văn chương thực ra ko làm được điều gì cho những con người được nhắc đến trong
bài phát biểu của HNP. Văn chương ko thể biến nó thành Ơsin để giúp cho bệnh nhân
dành lại sự sống của mình. Văn chương có nhiều bài tùy bút viết về ẩm thực nhưng tất
cả những tuyệt bút ấy đều ko biến thành thức ăn để có thể xoa dịu những con người
đnag bị dồn vào bước đường cùng. Đó là những con người yếu thế nhất trong đời
sống.
-> Rất nhiều nhà văn đau đời, thương đời, nhưng cũng như Đỗ Phủ, họ muốn xây dựng

ngơi nhà nghìn gian để chứa tất cả dân chúng lầm than, nhưng họ chẳng có phương
11


tiện để tạo dựng ngôi nhà vật chất ấy để che chắn cho cặp vợ chồng đèo con qua đèo
Hải Vân được.
-> Tại sao văn chương ko làm đc như thế? Vì những con người được nhắc đến trong
bài phát biểu này đang phải vật lộn trong hoàn cảnh sinh tồn vơ cùng khắc nghiệt để
sống sót, để đảm bảo trạng thái sinh tồn của mình. Trong hồn cảnh như thế, thứ người
ta cần nhất chính là những thứ có tính thiết yếu. Nó giúp cho họ có thể duy trì sự sống
của mình. Văn chương ko tạo ra sức mạnh vất chất có thể giúp con người ta sống sót.
-> Đây chính là điều khiến các nhà văn hay day dứt, hổ thẹn. Họ ko giúp được gì mang
tính bức thiết. Chế Lan Viên trong 1 bài thơ có tính tự thú: Ai- tơi: kể về cuộc gặp gỡ
giữa nhà thơ với người lính cịn sót lại, 1 trong 30 người kia....Người lính cần 1 câu
thơ giải đáp về đời/ Tôi ú ớ/ Người ấy nhắc câu thơ tôi làm người ấy xung phong mà
tôi xấu hổ/ .... -> Đơi khi chính hồn cảnh khắc nghiệt trong đời sống, các nhà thơ
thường nhạy cảm hơn chúng ta, dễ cảm thấy mình vơ dụng.
* Covid: là bối cảnh mang tính thời sự, nhưng mặt khác đây ko phải là lần đầu tiên
nhân loại nói chung và VN nói riêng phải đối mặt với 1 hoàn cảnh khắc nghiệt như
thế.
2. Văn chương vẫn còn tồn tại cùng với đời sống con người, cho dù địa vị của nó,
nói như Diêm Liên Khoa là rất đỗi khiêm nhường, chỉ là 1 diễn viên phụ. Nhưng
nó vẫn có đó trong đời sống. Nói như Heghen: Cái gì tồn tại nghĩa là nó có lí
Tại sao nhân loại trải qua bao nhiêu cơn khủng hoảng, bao nhiêu cơn khủng
hoảng là bấy nhiêu lần văn học bị người ta hồ nghi? nhưng văn học ko biến mất. Vậy
hẳn là văn học vẫn cần cho ai đó, nó thỏa mãn mục đích, nhu cầu của con người.
a> Văn học cần cho các nhà văn:
- Chính các bối cảnh khủng hoảng lại đòi hỏi nhà văn phải lựa chọn chỗ đứng, lựa
chọn vai trị phát ngơn của mình, cất tiếng cho những con người yếu thế nhất trong đời
sống xã hội. Dương Tường: Tôi đứng về phe nước mắt. Phe nước mắt: rất đông, nhưng

họ thường bị vơ hình hóa trong cấu trúc xã hội, thường trở thành những thực thể bị mờ

12


hóa, bị khuất mặt trong đời sống xã hội, tiếng nói của họ thường bị làm cho câm lặng
đi trong cấu trúc xã hội.
- Báo chí, truyền thơng có thể đưa tin bà mẹ đẩy hàng rong, cặp vợ chồng đèo con
vượt qua đèo Hải Vân trong cơn mưa gió . Những hình ảnh đó có thể ngày hơm nay
làm chúng ta xúc động, nhưng trong 1 xã hội thông tin thác lũ ào ạt, ngày mai đã có
thứ khác làm chúng ta bức xúc, đau đớn. Truyền thơng có thể ghi lại hình ảnh, sự kiện,
nhưng cịn nỗi niềm của họ, những cảm giác ấm ức của họ, nỗi lo âu về 1 đời sống vô
cùng bấp bênh của họ, tất cả những thứ đó cần đến người kể chuyện để ghi lại. Đó
chính là lúc cần đến nhà văn.
* Levi: tp Có được là người? . Ơng là nhà văn gốc do Thái. Trong chiến tranh thế giới
2, cũng như nhiều người Do Thái khác, ông đã từng bị lùa vào trại tập trung người Do
Thái, những trải nghiệm vơ cùng cay đắng, tủi nhục, kinh hồng trong những ngày
tháng bị giam đã khiến ông viết nên cuốn tự truyện. Đây là tp quan trọng nhất của
dòng văn chương gắn liền với những nạn nhân người Do Thái trong chế độ phát xít.
Tp cho chúng ta thấy lịch sử nhân loại có những trang u ám và khốc liệt như thế nào..
Nhà văn tâm sự: khi ông bị bắt, nếm trải những tủi nhục kinh hồng, ơng và những
người Do Thái khác có nhiều lí do để chết hơn nhiều lí do để sống. Nhưng chính trong
hồn cảnh ấy người ta nhận ra chết ko khó, sống mới khó, sống 1 đời sống đáng sống
càng khó hơn. Và ko chỉ sống cho cá nhân mình. Ơng phân tích rõ ràng vì sao mình
phải vượt qua tất cả những sự hành hạ ấy, vì mình cần phải sống, để những nỗi đau của
con người trong bối cảnh này được kể lại. Nếu ko được kể, những nỗi đau ấy rất dễ bị
hư vơ hóa, và đó chính là điều bất cơng.
=> Văn chương địi cơng bằng cho con người theo cách: địi cho những gì bị câm lặng
được lên tiếng, được hiện hữu. -> Phải có văn chương con người ta mới nhận ra có
những nỗi đau như thế nào. Những gì bên trong của con người đều cần đến văn

chương
*Lưu Quang Vũ: Thơ hay đời loạn.... -> Thơ hay: trong bối cảnh thời loạn nó cịn
thường bị kết án là vị kỉ. Vì ít khi nó hi sinh nó để trở thành vũ khí có tính tun
truyền. Thơ hay càng là thứ xa xỉ, nhưng cũng có thể phản biện lại LQV: đời loạn
thường là bối cảnh của thơ hay, xuất hiện thứ văn chương vô cùng can đảm khi nó
13


đứng về phe nước mắt. Chưa có 1 biến cố khủng hoảng nào trong lịch sử nhân loại mà
lại ko có những nhà văn tình nguyện làm chứng cho những khoảnh khắc cùng cực nhất
của kiếp người. Chúng ta biết gì về thời đại ND nếu chúng ta ko có ND và truyện
Kiều? Đọc lịch sử ta chỉ biết các phe phái đánh nhau. Cịn con người nếm trải những
gì trong bối cảnh đó, con người ta đau khổ ra sao, hoang mang thế nào, đọc lịch sử ta
ko thể thấy. Mọi thứ chỉ cịn là các diễn ngơn của lịch sử. Cái cay đăng cùng cực và cả
sự phi thường của con người, lịch sử ko ghi lại, Nó là cái riêng tư, cá nhân mà ngôn
ngữ sử học ko chạm tới được.
=> Chính lúc này, văn chương bộc lộ quyền năng của nó: Nó mạnh nhất khi chạm đến
cái yếu, mạnh nhất khi làm hiện hữu những trải nghiệm thống khổ, những đau xót và
vẻ đẹp của con người mà trong những hồn cảnh khốc liệt, nó mới hiện ra một cách
thấm thía nhất. Văn học cần cho nhà văn vì trong những bối cảnh khốc liệt, nó đòi hỏi
nhà văn buộc phải lựa chọn chỗ đứng, lựa chọn làm chứng nhân cho những nếm trải
của con người trong bối cảnh khốc liệt. => Văn học mạnh nhất khi nó đứng về phái kẻ
yếu.
b> Văn học cịn cần cho chúng ta:
- Chúng ta: Những người ít nhiều trong hồn cảnh khắc nhiệt này, ta thấy mình có đặc
quyền hơn những con người khốn khổ, những con người rất đơng về số lượng nhưng
ln chịu đựng thiệt thịi, ln bơ vơ.
- Văn học giúp chúng ta hiểu được sự phức tạp của thế giới, hiểu được những nông nỗi
của con người trong cuộc đời này, giúp ta hiểu đc ko phải ai cũng có đặc quyền như ta.
*Tiểu luận "Tại sao văn học": văn học có tinh thần phê phán. Chính phẩm chất này

của văn học khiến nó giữ được tính cần thiết đối với xã hội. Ko phải chỉ văn học hiện
thực mới phê phán. Tinh thần phê phán khiến văn học giúp ta nhìn thấy được sự phức
tạp của đời sống. Trong biến cố đại dịch, nhiều người ngạc nhiên vì hình như trải
nghiệm bất thường này của nhân loại đã được tiên báo trong văn chương.
*Dịch hach (Camus): viết cách đây hơn nửa thế kỉ, nhưng nhiều thứ trong cuốn tiểu
thuyết ấy ko còn là hư cấu, nó hóa thân thành hiện thực mà ta đang trải nghiệm. Tại
sao tp viết từ lâu lại có thể cho chúng ta thấy rõ... vì Xưa nay văn chương vốn nhạy
14


cảm trước những diễn biến phức tạp của đời sống. Nó nhạy cảm trước những thứ bất
thường tồn tại trong hình thức bình thường. Tp kết thúc khi đại dịch đột ngột qua đi,
mọi người lại hân hoan. Con người trong tp đó sống một đời sống rỗng, cạn kiệt tất cả
những khả năng biết suy tư- một trong những thứ đánh dấu con người biết sống. Dịch
hạch tràn đến, con người nghĩ đơn giản là do Chúa, và nên cầu nguyện Chúa. Nhưng
nhân vật trung tâm cuốn tiểu thuyết cho rằng nếu đây là hình phạt của Chúa thì Chúa
có lí hay ko khi lấy đi sinh mạng của cả những đứa trẻ? Chúa là phi lí. Cầu nguyện 1
vị Chúa phi lí như vậy chẳng giải quyết đc gì. Thế giới này Chúa đã rời bỏ đi để chúng
ta hành động. Trạng thái bình thường như cũ khi dịch hạch qua đi nó khiến cho nhân
vật cảm thấy ái ngại, bởi vì chính trạng thái ấy là nguồn cơn của dịch hạch chứ ko phải
do thượng đế nào tạo ra.
*Covid 19: tưởng chỉ liên quan đến sức khỏe, thể chất, nhưng căn nguyên của nó
thuộc về tinh thần. Lỗ Tấn: nếu làm nghề y, ông chỉ cứu được sinh mạng của những
con người cá nhân, nhưng để chữa được bệnh của cộng địng thì cần đến ngịi bút,
Sekhop ko cực đoan đến thế, vừa hành nghề bác sĩ vừa viết văn=> Có những thứ thuốc
men ko chữa được, chỉ văn chương mới chữa đc vì nó có tính phê phán. Văn chương
bắt được những căn bệnh bất bình thường đã bị bình thường hóa.
* Nguyễn Ngọc Tư: Dịch bệnh làm lộ rõ cái vô định, cái phức tạp đến ko cùng của
cuộc đời này. Văn chương vốn dĩ xưa nay là thứ nhạy cảm nhất về những thứ bất định,
phức tạp ấy, nó ln là thứ chống lại cách nhìn dễ dãi và hời hợt, chống lại cái sự lười

suy tư.
* Chiếc thuyền ngồi xa: sự bất bình đẳng của xã hội đơi khi bị mờ hóa đi bởi những
thứ dễ dàng: kết truyện, bức ảnh Phùng chụp thành công hơn cả mong đợi. Người ta
ko chỉ coi bức ảnh của Phùng là bức ảnh lịch hết tháng thì lật sang trang mới, mà coi
như 1 tp nghệ thuật độc lập, người ta mua nó treo trong nhà để lúc nào cũng nhìn cái
đẹp ấy. Trong trường hợp này, cái đẹp có 1 chức năng quan trọng: nó khiến người ta
cảm thấy dễ chịu. Nhưng để cho chúng ta cảm thấy dễ chịu, con người bị biến thành
vết mực tàu lịe nhịe, khung cảnh cần có 1 lớp sương hồng làm cho mọi thứ trở nên
mờ ảo, hư thực. Và khi ta đắm say trong cái đẹp đó, ta đâu biết có những con người bị
đẩy mãi ngồi xa. Chúng ta say sưa với cái đẹp mà quên mất đi cuộc sống sở dĩ nó đẹp
15


là vì nó che đi cái khổ. Người nghệ sĩ mà lại truy cầu cái đẹp đó thì đó có phải là cái
đẹp đúng nghĩa ko? Khi theo đuổi một cái đẹp như vậy có phải phải nghệ sĩ đã duy trì
sự bất bình đẳng ko? Và sự bất bình đẳng này cịn khó giải quyết hơn sự bất bình đẳng
cơ học.
-> Đọc văn là phải biết phản tư, người đọc văn đúng nghĩa là người phải biết day dứt ,
phải hiểu cái mình đang có đơi khi nó là hệ quả của người khác ko có. Văn chương
giúp chúng ta ko chỉ biết phê phán cái bên ngồi mình, giúp ta nhận ra mọi thứ trong
cuộc đời ko phải như chúng ta đang có và đang nghĩ. Và khi ta biết rằng ko phải ai
cũng như ta thì đó là nền tảng quan trọng nhất của sự cảm thông. Môt trong những thứ
văn học dạy cho ta cảm thông nhất là ko phải ai cũng như ta. Ta ở trong ánh sáng thì ta
biết rằng ko phải ai cũng đc lôi ra ánh sáng. Văn chương thường làm cho ta thấy
những cái bị khuất lấp trong cuộc đời, sự suy tư đó cũng rất quan trọng, nó làm cho ta
bớt ích kỉ. Văn chương giúp ta hiểu cuộc đời là phức tạp, hiểu được con người có vơ
số những trải nghiệm trong đời sống này, họ có những uẩn khúc, ko thể lấy mình ra
làm hệ quy chiếu. Nó làm cho người đọc day dứt, bất an, đây cũng chính là biểu hiện
của sự sống. (! triết gia cổ đại Hi lạp: một cuộc đời nếu ko biết tự xét lại thì là một
cuộc đời chưa đáng sống. )

-> Văn chương xưa nay với tinh thần dám bắt bệnh của nó, nó cực kì nhạy cảm trước
những tình thế, nguy cơ của xã hội con người, những cái bất bình thường bị biến thành
bình thường, thành thói quen, thành những thứ được nhiều người chấp nhận, nó đã bị
chốt chặt lại thành 1 bản chất nào đó. Văn chương làm cho con người ta giật mình vì
nhiều khi nó ko cịn là hư cấu, nó là thực tại (như thế giới của Kafka). Văn chương
giúp chúng ta hiểu về thực tại và hiểu về chính mình, làm cho chúng ta là những chủ
thể biết phản tư, biết suy nghĩ. Vì nếu ko suy nghĩ thì coi như chỉ sống sót mà ko sống.
c> Văn chương cịn cần cho con người nói chung
- Những con người được nhắc đến trong đề bài: rất đơng. văn chương có cần cho họ
ko?
- Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, điều đầu tiên mà người ta cần là sống sót. Nhưng con
người ko chỉ cần sống sót mà cịn cần sống. Để sống, người ta ko chỉ được đảm bảo
16


các nhu cầu vật chất, nó chỉ duy trì trạng thái sinh tồn chứ chưa chắc giúp cpn người
biết sống.
* Covid: cái đáng sợ nhất ko phải là bản thân con virut, mà trên thực tế, để chiến đấu
với nó, ta đã biết cách dùng vacxin. bản thân con virut ko phải là 1 bài tốn khó giải,
nhưng có một thứ nghiêm trọng mà người ta chưa nhận ra được, đó là hậu quả tinh
thần mà con virut để lại: Tỉ lệ các người mắc bệnh tinh thần trong thời kì covid gia
tăng đột biến, nhiều người bị trầm cảm nặng, đời sống bị phong tỏa làm cho rất nhiều
năng lượng tinh thần của con người bị cạn kiệt. Những thứ thuộc về tinh thần thì ko
chữa được bằng vacxin. Văn chương là hình thái tinh thần, chỉ văn chương mới thỏa
mãn được (-> Liên hệ: Trong thời kì covid hoành hành ở Châu Âu, tại sao trên youtut
cho phép phát miễn phí những vở diễn kinh điển của nghệ thuật châu Âu như vở Hồ
thiên nga? -> Vì văn học nghệ thuật giúp con người được bồi đắp về tinh thần để
kháng cự lại sự khốc liệt của hoàn cảnh. Con người cần tinh thần vững vàng.
- Văn học thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người bằng cách nào? Trong bối cảnh
khủng hoảng, con người có rất nhiều nhu cầu liên quan đến tinh thần mà văn học hồn

tồn có thể đáp ứng:
+ Nhu cầu được hi vọng: Những tp nào cực kì thấm thía về khổ đau là những tp nói
hay nhất về hi vọng. Ví dụ bài Tình yêu và hạnh phúc của Aragon: khổ đau khiến
con người ta thấy hạnh phúc và tình yêu ko phải là thứ ảo tưởng mà là thứ có thật.
* Mười ngày(Bocaxio): 7 người chạy trốn dịch hạch đen, họ tá túc trong một lâu đài
bị bỏ hoang, để quên đi nỗi sợ thần chết đang rình rập. Họ kể cho nhau nghe những
câu chuyện, những câu chuyện ấy xưng tụng những giá trị nhân bản nhất của cuộc đời
này, nó khiến con người ta biết cười vào cái chết. Chính khả năng biết cười vào cái
chết nó làm cho con người trở nên cứng cỏi. Và phải như vậy thì nhân loại mới giã từ
đại dịch để bước vào thời kì phục hưng đc. -> Văn chương cho ta niềm lạc quan và khả
năng hi vọng nhưng hi vọng ko đồng nhất với ảo tưởng, hão huyền. Khi con người bị
đẩy vào tình cảnh khốn cùng thì lạc quan là thứ có thật, đã từng làm nên sức mạnh của
con người để chống chọi lại nghịch cảnh.

17


+ Nhu cầu được giải khuây, thư giãn: đây là nhu cầu nhân bản của con người. Nếu
như con người ko có sự giải khy thì sẽ bị vắt kiệt rất nhanh. Trong đời sống trung cổ
Châu Âu, nơi mọi thứ cực kì hà khắc thì xã hội ấy vẫn phải có hội hè, vì nó chính là
nơi người ta có thể vứt bỏ tất cả những luật lệ của đời sống thường ngày, nơi con
người ta có cảm giác quên mất đi mỗi ngày mình sống là mỗi ngày tiến tới cái chết,
nơi con người ta được vui chơi, được xả những năng lượng bị kìm nén. Lễ hội canavan
là thứ tự do nhất của thời kì trung cổ. Văn chương ln được hình dung là lễ hội
cacnavan như thế, vì nó ln cãi lại những trật tự, những luật lệ thơng thường. Khi
hịa vào cuộc chơi, rất nhiều những tôn ti bị bãi bỏ, những giáo điều bị bãi bỏ, bị thách
thức.
-> Giải trí của văn chương khác với các hình thức giải trí thơng thường ở chỗ nó có
tính thẩm mĩ. Nó ko văt kiệt tinh thần của chúng ta như những hình thức khác. Văn
chương ko bao giờ làm cho chúng ta giải khuây theo kiểu cười xong rồi quên, khóc

nức nở xong rồi quên, mà ở mức độ nào đó, ta ln được trải nghiệm thanh lọc cảm
xúc. Đây mới là thứ khiến chúng ta cân bằng lại chính mình tốt nhất.
-> Nhu cầu giải thoát thực tại: văn chương là thế giới hư cấu cho nên dễ tạo ra cho
chúng ta khả năng vượt thốt thực tại (ví dụ: haribote: tp hư cấu, phiêu lưu hoang
đường. Thế hệ đầu tiên đọc tp, họ chờ đợi tác giả ra sách ko khác gì ơng vua chờ đợi
nàng Xeheharat kể chuyện -> Vì người ta được đắm chìm vào trong thế giới của các
khả thể. Đấy là thế giới của sự tưởng tượng bay bổng, nơi người ta tin các giá trị lớn
có thể bảo vệ được chính thế giới mà chúng ta đang sống. Tp này ko phải là câu
chuyện dành cho trẻ con đơn thuần.
+ Nhu cầu về các giá trị thẩm mĩ:
-> Đây là nhu cầu tinh thần quan trọng nhất, vì con người ko chỉ cần sống sót mà cần
sống, muốn sống thì con người ta phải hướng tới ý nghĩa, mà các giá trị thẩm mĩ chính
là những phạm trù kết tinh những ý nghĩa nhất của đời sống, đồng thời các giá trị thẩm
mĩ bao giờ cũng bền hơn hết thảy. Chúng ta có thể sống sót qua những biến cố nhưng
khi chúng ta ko bảo về đc những giá trị tinh thần lớn nhất của đời sống này thì chúng
ta sẽ đi qua cơn khủng hoảng ấy trong trạng thái trống rỗng. Trạng thái trống rỗng ấy
là thứ tổn thương dai dẳng nhất nó tạo ra cho một đời người.
18


* Nỗi buồn chiến tranh: Kiên có thể sống sót qua cuộc chiến, nhưng cuộc chiến ko
rời bỏ Kiên, vì có những thứ Kiên đã bị mất mát trong cuộc chiến đó, nó khiến Kiên đi
qua cuộc chiến nhưng trở về đời thường ko thể nào sống nổi, vì các giá trị lớn đã bị
mất mát. Cuộc chiến có thể khép lại với số đơng nhưng với cá nhân thì cuộc chiến vẫn
cịn hành hạ, ko cịn gì khủng hoảng hơn là nó làm cho người ta rơi vào trạng thái ko
trọng lượng về mặt tinh thần. Nếu thế giới tinh thần của chúng ta ko được bồi đắp bởi
những giá trị lớn, làm cho đời sống con người đáng sống thì đó là 1 bi kịch.
* Hồn Trương Ba: Khi Đế Thích đưa ra đề nghị TB nhập vào hồn cái Tị, TB có chút
đắn đo, vì dù sao, sự sống vẫn là thứ đáng ham muốn, nhưng rồi ngay sau đó TB từ
chối lời đề nghị của Đế Thích. Sống mà làm đau lịng người khác thì sống như thế là

rỗng, còn kinh khủng hơn cái chết -> Từ lúc quyết định như vậy, lòng TB thấy trong
sáng và nhẹ nhõm hơn xưa.
Các biến cố khủng hoảng là những biến cố làm cho các giá trị lớn của đời sống
bị tổn thương, và những sự tổn thương này thường ít được để ý, ít được kêu lên, Nó
ko chỉ lấy đi sinh mạng, ko chỉ đảo lộn xã hội, nó cịn làm tổn thương những giá trị đời
sống.
*Tictok: mọi thứ chỉ cần nhẹ và nông như vậy cũng đủ làm cho chúng ta nguôi khuây
trong giây lát. Tick ni cho chúng ta cảm giác về tính tạm thời của mọi giá trị. Tất
nhiên tính tạm thời đó cũng có thể tạo ra cơ hội. Sự lên ngơi của tictok cũng khiến con
người quên đi những giá trị đích thực.
* Hồ Thiên Nga: vở bale bi kịch, tại sao lại chiếu trên youtut. Giải khuây thôi chưa
đủ, chúng ta cần những giá trị lớn trong đời sống như cái đẹp, cái bi. Nhân loại cần
những khoảnh khắc cảm nhận thế giới trong trạng thái bi kịch. Vì bi kịch là thể loại
dạy chúng ta biết đau cho những giá trị lớn, mà khi con người ko còn biết đau cho
những giá trị lớn thì nó sẽ bị thui chột. Các giá trị thẩm mĩ thường bị thương tổn trong
bối cảnh khủng hoảng vì người ta có cảm giác những thứ đó nó ko có ích dụng gì mấy,
những thứ đó xa vời, người ta chỉ cần những cái tức thời, cấp tốc, cho con người
nguôi khuây trong chốc lát nhưng thiếu những điểm tựa bền vững. Những bối cảnh
khủng hoảng khiến nghệ thuật sẵn sàng biến thành công cụ trực tiếp can dự vào cuộc
đời, ví dụ nó biến thành tun truyền, cổ động, cái đó ko có gì sai, chỉ có điều những
19


thứ đó chỉ có giá trị nhất thời. Chúng ta có thể sống sót nhờ những giá trị nhất thời
nhưng chúng ta ko thể sống nếu ko có các giá trị có tính bền vững, và một trong
những giá trị có tính bền vững nhất là giá trị thẩm mĩ. Nghệ thuật vẫn luôn là nỗ lực
đến tuyệt vọng để giữ lại các khoảnh khắc thầm mĩ của nhân loaị, để khiến con người
biết chiêm ngưỡng cái đẹp, cái bi, khiến con người biết cười nhưng là cái cười thẩm
mĩ chứ ko phải cái cười nguôi khuây, để khiến con người cảm được cái cao cả.
* Bài Tự do (Eluya): Viên ngọc của thơ ca hiện đại hiếm hoi được giới thiệu vào

trong chương trình. Bài thơ ra đời trong 1 hoàn cảnh khắc nghiệt (1942), thời điểm bi
đát bậc nhất trong lịch sử hiện đại của nước Pháp. Cái tâm của văn minh phương Tây,
đất nước của thi ca, nghệ thuật, của những tư tưởng mang tính khai phóng giờ đây
đang bị phát xít xâm chiếm. Cả bài ko có chữ nào nhắc đến biến cố thời sự, chỉ điệp lại
hình ảnh, biến tự do trở thành biểu tượng cực kì duy mĩ, được coi là thánh ca của
kháng chiến Pháp. Người ta cịn thả những bài thơ đó từ trên máy bay xuống để cho
những người đang sống trong hầm trú ẩn của phát xít đọc nó. Bài thơ ko thể hiện
những đổ máu, tang thương, nó chỉ xưng tụng tự do. Tự do ko phải là một khái niệm
triết học trừu tượng , nó là 1 cái gì đó vừa cao cả vừa giản dị, vừa thiêng liêng vừa trần
thế. Tại sao người Pháp gọi nó là thánh ca? Vì khi con người ta cịn xúc động vì tự do,
cịn thấy được vẻ đẹp của tự do thì con người ta sẽ dám sống và dám chết cho nó. Tự
do ở đây ko tồn tại như một mệnh đề triết học mà hóa thân thành hình tượng thơ ca.
Khi nó hóa thân thành hình tượng thơ ca, tự do có thể trở thành thứ để con người
ngưỡng vọng, khao khát. Tự do là tên gọi khác của cái đẹp và cái đẹp trong hoàn cảnh
này nâng con người ta lên trên thực tại. Tự do là thứ đang bị thương tổn nhất thì bài
thơ lại xưng tụng tự do, nó làm cho con người ta cảm thấy sống chết cho tự do là thứ
đáng làm. -> Nghệ thuật luôn nỗ lực giữ lại những giá trị lớn cho đời sống con người,
làm cho đời sống con người đáng sống. Đời sống đáng sống khơng chỉ vì có cơm ăn
áo mặc mà cịn vì biết vươn tới tự do, vươn tới những giá trị lớn trong cuộc đời này ,
những thứ rộng hơn chính đời sống của mình, những thứ đó mới làm cho chúng ta can
đảm.
* Chữ người tử tù: Khi nhìn thấy nét chữ của HC, Quản ngục hiểu rằng chữ ko chỉ
là chữ, cái đẹp của thư pháp là cái đẹp của 1 tinh thần lớn, và cái tinh thần đó sắp phải
đối diện với 1 thứ tàn khốc nhất là cái chết. Nhìn thấy người đại diện cho cái đẹp sắp
20



×