DANH MỤC VIẾT TẮT
BLHS
CAND
CNTT
HĐND
LĐCĐTS
LHS
MVT
UBND
Bộ luật Hình sự
Cơng an nhân dân
Cơng nghệ thông tin
Hội đồng nhân dân
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Luật Hình sự
Mạng viễn thơng
Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài..................................................................................1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu......................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................4
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài..........................................................5
6. Bố cục đề tài.....................................................................................................6
CHƯƠNG I: NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA
TỘI PHẠM LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN QUA MẠNG XÃ HỘI
CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT HÌNH SỰ.....................................................6
1.1. Nhận thức về tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội......6
1.1.1. Khái niệm về tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội. .6
1.1.2. Đặc điểm pháp lý....................................................................................9
1.2. Nhận thức về hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản qua mạng xã hội trong sinh viên của lực lượng Cảnh sát hình sự.........15
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm về phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt
tài sản qua mạng xã hội của lực lượng cảnh sát hình sự............................15
1.2.2. Cơ sở pháp lý của hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản từ mạng xã hội của lực lượng Cảnh sát hình sự......................20
1.2.3. Nội dung và biện pháp phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản từ mạng xã hội của lực lượng Cảnh sát hình sự...................................22
1.2.4. Mối quan hệ phối hợp trong phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản qua mạng xã hội.........................................................................28
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..................................................................................30
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CĨ LIÊN QUAN VÀ THỰC
TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN QUA MẠNG XÃ HỘI TRONG SINH VIÊN CỦA LỰC
LƯỢNG CẢNH SÁT HÌNH SỰ CƠNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI..........32
2.1. Tình hình đặc điểm có liên quan đến tình trạng tội phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội
.............................................................................................................................32
2.1.1. Tình hình sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn
thành phố Hà Nội...........................................................................................32
2.1.2. Tình hình hình an ninh trật tự xã hội có liên quan...........................34
2.1.3. Tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ mạng xã hội trên
địa bàn thành phố Hà Nội.............................................................................35
2.2. Tổ chức lực lượng và hoạt động của lực lượng Cảnh sát hình sự Cơng
an thành phố Hà Nội trong phịng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản
của sinh viên qua mạng xã hội.........................................................................39
2.2.1. Tổ chức lực lượng, phân cơng, phân cấp trong phịng ngừa tội phạm
lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội của lực lượng
Cảnh sát hình sự Cơng an thành phố Hà Nội..............................................39
2.2.2. Hoạt động của lực lượng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Hà
Nội trong tiến hành các biện pháp phòng ngừa xã hội đối với tội phạm lừa
đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội................................42
2.2.2.1. Thực trạng tiến hành các biện pháp phòng ngừa xã hội................42
2.2.2.2. Thực trạng tiến hành các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ..........44
2.2.3. Thực trạng mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát hình sự
Cơng an thành phố Hà Nội với các lực lượng khác trong phòng ngừa tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội...............47
2.2.3.1. Thực trạng phối hợp với các lực lượng trong ngành Công an......47
2.2.3.2. Thực trạng phối hợp với các lực lượng ngồi ngành Cơng an......48
2.3. Nhận xét, đánh giá chung..........................................................................50
2.3.1. Ưu điểm và kết quả đạt được...............................................................50
2.3.2. Hạn chế, thiếu sót.................................................................................52
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót.......................................55
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..................................................................................60
CHƯƠNG 3: DỰ BÁO VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN QUA MẠNG XÃ HỘI TRONG SINH VIÊN
CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT HÌNH SỰ CƠNG AN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI.....................................................................................................................62
3.1. Dự báo tình hình có liên quan đến hoạt động phịng ngừa tội phạm lừa
đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội trong thời gian tới. .62
3.1.1. Cơ sở dự báo.........................................................................................62
3.1.2. Nội dung dự báo...................................................................................63
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm
lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội trong sinh viên
của lực lượng Cảnh sát hình sự Cơng an thành phố Hà Nội.........................65
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống các quy định của pháp luật có liên quan đến
cơng tác phịng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội
.........................................................................................................................65
3.2.2. Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ, chiến sĩ lực
lượng Cảnh sát hình sự Cơng an thành phố Hà Nội về phòng ngừa tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội trong sinh viên............69
3.2.3. Tham mưu cho lãnh đạo Bộ Công an tăng cường hợp tác quốc tế
trong phịng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản từ mạng xã hội nói riêng (khơng ăn nhập tiêu đề)................................71
3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phương thức, thủ đoạn hoạt
động của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ mạng xã hội nhằm nâng
cao nhận thức, ý thức cảnh giác cho sinh viên.............................................74
3.2.5. Triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp công tác nghiệp vụ cơ
bản của lực lượng Cảnh sát hình sự trong phịng ngừa tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản từ mạng xã hội.................................................................82
3.2.6. Nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát
hình sự với các lực lượng khác trong phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản từ mạng xã hội............................................................................84
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3..................................................................................85
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................88
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ thời đại số như hiện nay, mạng xã hội được ra đời và được
phát triển với tốc độ ngày càng nhanh chóng. Mạng xã hội đã đem lại nhiều lợi
ích, là phương tiện trao đổi và kéo gần khỏang cách giữa tất cả mọi người. Bên
cạnh những lợi ích và cơ hội to lớn cho sự phát triển của quốc gia, thì cuộc cách
mạng cơng nghiệp lần thứ 4 (4.0) cũng đang đặt ra những thách thức khó khăn,
đặc biệt là đối với vấn đề an ninh phi truyền thống và tội phạm sử dụng công
nghệ cao. Tuy chỉ mới xuất hiện trong khoảng một thập kỷ gần đây, nhưng do sự
phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, đặc biệt là mạng Internet, tội phạm
sử dụng công nghệ cao đã phát sinh, tồn tại và phát triển nhanh chóng tại Việt
Nam. Hiện tại, tình hình tội phạm cơng nghệ cao đang tiếp tục diễn biến phức
tạp, khó lường, xảy ra trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh
- quốc phịng của đất nước. Có lẽ chưa khi nào tội phạm sử dụng mạng Internet
để thực hiện hành vi phạm tội lại nhiều như hiện nay khi mà thế giới đang bước
vào thời đại công nghiệp 4.0. Mạng xã hội là cụm từ đã quá quen thuộc với mọi
người, đặc biệt là trong thời đại công nghệ phát triển như ngày nay. Đây là một
trang web hay nền tảng trực tuyến với rất nhiều dạng thức và tính năng khác
nhau, giúp mọi người dễ dàng kết nối từ bất cứ đâu. Con người có thể dễ dàng
trao đổi thơng tin qua mạng xã hội như: zalo, facebook, … Sự phát triển vượt
bậc của công nghệ số đã và đang là nền tảng cho sự phát triển các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, từ các ngành sản xuất, công nghiệp, dịch vụ thông tin đến văn hóa,
giải trí, giao thơng, y tế. Trong tương lai, mạng xã hội ngày càng có vai trị quan
trọng hơn.
Tại Việt Nam trong những năm gần đây, công nghệ thông tin, mạng viễn
thông đã phát triển mạnh mẽ. Song hành với sự phát triển và phổ biến của công
nghệ thông tin, mạng viễn thông là sự xuất hiện ngày càng phức tạp của tội
2
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông đặc biệt là tội phạm
lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội.
Hiện nay ở Việt Nam, tội phạm này đã gây ra những tác hại không nhỏ đến
trật tự, an tồn xã hội. Tình trạng lừa đảo trong lĩnh vực thương mại điện tử và
thanh toán điện tử gia tăng, dẫn đến nhiều hậu quả. Tính từ ngày 25/5/2020 đến
24/5/2021, toàn quốc đã phát hiện xảy ra 5.408 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
trong đó: 2.894 vụ lừa đảo theo các phương thức truyền thống (chiếm hơn
53,5% tổng số vụ phát hiện); 2.514 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không
gian mạng (chiếm 46,5% tổng số vụ).1 Ngoài các thủ đoạn lừa đảo truyền thống,
các đối tượng cịn lợi dụng khơng gian mạng để hoạt động lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, với phương thức thủ đoạn hết sức tinh vi, đa dạng về cách tiếp cận các
nạn nhân, nhiều vụ có lượng lớn người bị hại tham gia tại nhiều địa phương trên
khắp cả nước, một số thủ đoạn điển hình như: Sử dụng mạng xã hội để kết bạn,
thơng báo gửi q, sau đó giả danh nhân viên sân bay, hải quan, thuế để yêu cầu
bị hại nộp tiền cước vận chuyển, thuế, phí, tiền phạt… vào các tài khoản ngân
hàng được chỉ định rồi chiếm đoạt; giả danh cán bộ cơ quan nhà nước, Cơng an,
Viện kiểm sát, Tịa án gọi điện thơng báo chủ thuê bao có liên quan đến vụ án,
vụ việc đang giải quyết rồi đe dọa, yêu cầu bị hại chuyển tiền hoặc khai thác
thông tin tài khoản ngân hàng của bị hại để đăng nhập rồi chuyển tiền vào các
tài khoản khác để chiếm đoạt; chiếm quyền quản trị (hack) hoặc giả lập các tài
khoản mạng xã hội của người khác rồi nhắn tin, lừa gạt người thân quen của chủ
tài khoản chuyển tiền, sau đó chiếm đoạt. Các nạn nhân của tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội thường là người cả tin, chưa có kiến thức và
ít kinh nghiệm trong sử dụng mạng xã hội. Đặc biệt, phần lớn đối tượng sinh
viên mới nhập học còn thiếu hiểu biết đã trở thành đối tượng bị lừa đảo.
Thời gian qua, lực lượng cảnh sát cơng an thành phố Hà Nội nói riêng và
cơng an trên cả nước nói chung đã tích cực thực hiện công tác tuyên truyền, phổ
1 />
3
biến về các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước trong cơng tác
phịng ngừa các hành vi lừa đảo chiểm đoạt tài sản. Tuy nhiên, pháp luật Hình
sự Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể về tội phạm này vì thế nên trong
việc xử lý và phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội
còn những điểm hạn chế nhất định, chưa đạt yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm hiện nay, cũng như trong thời gian tới. Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng quy
định của Bộ luật hình sự để xét xử tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua
mạng xã hội trong những năm qua cịn ít, chủ yếu là xử phạt hành chính. Hoạt
động ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã
hội là vấn đề mới bởi tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội được
hình thành và tăng mạnh trong vài năm trở lại đây, khi mạng xã hội ngày càng
phát triển. Bên cạnh đó, vấn đề này chưa thực sự được nhiều tác giả nghiên cứu
đến. Ngoài ra, mạng xã hội hiện nay đã trở thành môi trường, không gian sống,
phương tiện liên lạc của sinh viên dẫn đến tội phạm lợi dụng phương thức này
nhằm chiếm đoạt tài sản. Xuât phát từ thực tế trên, tác giả nhận thấy đề tài:
“Hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên
qua mạng xã hội theo chức năng của lực lượng cảnh sát hình sự cơng an
thành phố Hà Nội” là cần thiết phải nghiên cứu. Vì vậy, tác giả sẽ phân tích và
làm rõ đề tài này trong bài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là: trên cơ sở nghiên cứu và làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn chức năng của lực lượng cảnh sát trong hoạt
động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã
hội từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hoạt động phòng ngừa
tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội trong giai
đoạn hiện nay và trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, đề tài
nghiên cứu khoa học tập trung thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
4
+ Phân tích, làm rõ các khái niệm, đối tượng, phạm vi và đặc điểm của hoạt
động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã
hội của lực lượng cảnh sát.
+ Phân tích, làm rõ nội dung hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt
tài sản của sinh viên qua mạng xã hội của lực lượng cảnh sát.
+ Khảo sát tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng
xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội.
+ Đánh giá hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh
viên qua mạng xã hội của lực lượng cảnh sát, tìm ra những nguyên nhân của
những tồn tại, khó khăn vướng mắt cần phải khắc phục giải quyết.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động phòng ngừa tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội của lực lượng
cảnh sát.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài nghiên cứu khoa học là những vấn đề lý
luận thực tiễn về hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của
sinh viên qua mạng xã hội của lực lượng cảnh sát, các chức năng của lực lượng
cảnh sát hình sự dưới góc độ Luật hình sự thuộc chuyên ngành Luật hình sự và
Tố tụng hình sự.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài nghiên cứu khoa học:
+ Nội dung: Đề tài nghiên cứu khoa học là những vấn đề lý luận thực tiễn
về hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua
mạng xã hội của lực lượng cảnh sát; chức năng của lực lượng cảnh sát hình sự
trong hoạt động phòng chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên
qua mạng xã hội.
+ Về không gian: Thành phố Hà Nội.
+ Về thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2021.
5
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và phương pháp duy vật
lịch sử, Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp
và phương pháp so sánh luật.
Phương pháp phân tích được sử dụng trong tất cả các chương của đề tài
nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở phân tích các cơng trình nghiên cứu của các tác
giả trong và ngồi nước về hoạt động phịng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt
tài sản của sinh viên qua mạng xã hội của lực lượng cảnh sát, bài nghiên cứu
khoa học tổng hợp, phân loại các nghiên cứu đó theo từng trường phái và từng
vấn đề nghiên cứu. Từ đó có cái nhìn tổng thể về tình hình nghiên cứu đối với
hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua
mạng xã hội của lực lượng cảnh sát tại thành phố Hà Nội.
Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp được sử dụng để phân
tích những vấn đề lý luận, các quan điểm khoa học, từ đó tổng hợp, khái quát
thành hệ thống những vấn đề lý luận về hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội của lực lượng cảnh sát.
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp thường xuyên sử dụng để
phân tích làm rõ các quy định của Luật hình sự Việt Nam về hoạt động phòng
ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội của lực
lượng cảnh sát và thực tiễn áp dụng các quy định này trong những năm qua ở
Việt Nam. Bên cạnh đó, phương pháp so sánh luật cũng được sử dụng để phân
tích về hoạt động phịng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên
qua mạng xã hội của lực lượng cảnh sát.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài có ý nghĩa trong việc làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên
qua mạng xã hội của lực lượng cảnh sát theo quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam. Đồng thời, đánh giá được thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật
6
về hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua
mạng xã hội của lực lượng cảnh sát hiện nay tại thành phố Hà Nội. Từ đó nhận
biết được những ưu điểm và bất cập trong các vấn đề về hoạt động phòng ngừa
tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội của lực
lượng cảnh sát. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu khoa học này đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và các quy định nhằm đảm bảo để có
thể áp dụng một cách có hiệu quả hơn trong thực tiễn tại Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Việc thực hiện đề tài có giá trị tham khảo và nghiên
cứu trong quá trình thực hiện, áp dụng các quy định pháp luật về hoạt động
phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội
của lực lượng cảnh sát. Đồng thời, các lý giải và đề xuất trong bài nghiên cứu
khoa học có giá trị tham khảo đối với các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền trong nghiên cứu xây dựng và hồn thiện quy định pháp luật về hoạt động
phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của sinh viên qua mạng xã hội
của lực lượng cảnh sát trong Bộ luật Hình sự ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của đề tài nghiên cứu khoa học được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Nhận thức chung về hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội của lực lượng cảnh sát hình sự.
Chương 2: Đặc điểm tình hình có liên quan và thực trạng hoạt động phòng
ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội trong sinh viên của
lực lượng cảnh sát hình sự cơng an thành phố Hà Nội.
Chương 3: Dự báo và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hiệu quả hoạt
động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội trong
sinh viên của lực lượng cảnh sát hình sự công an thành phố Hà Nội.
7
CHƯƠNG I: NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA
TỘI PHẠM LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN QUA MẠNG XÃ HỘI
CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT HÌNH SỰ
1.1. Nhận thức về tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội
1.1.1. Khái niệm về tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội
Trong các năm trở lại đây, mạng xã hội trở thành cầu nối giúp mọ người
giảm khoảng cách với nhau. Bên cạnh những ưu điểm mà mạng xã hội đem lại
như tạo sự giao lưu, tương tác, kết bạn, bán hàng, ... thì khơng thể tránh khỏi
những hạn chế khi sử dụng mạng xã hội. Đã có rất nhiều đối tượng lợi dụng sự
tin tưởng, cả tin mà lừa đảo chiếm đoạt tài sản với hành vi ngày càng đa dạng
hơn. Đối tượng của bọn lừa đảo chủ yếu là những sinh viên đang cần việc làm,
người già và cả những người đang cần tìm việc làm.
Mặc dù vậy, hiện nay trong BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 (nay gọi là
BLHS năm 2015) vẫn chưa có quy định về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua
mạng xã hội” thay vào đó ta hiểu hành vi phạm tội của tội này là thực hiện
thơng qua mạng xã hội. Chính vì thế nên chưa có định nghĩa cụ thể về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội. Vì thế, để đưa ra khái niệm về tội phạm
này, trước hết cần làm rõ khái niệm về mạng xã hội và về tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
Mạng xã hội là cụm từ đã quá quen thuộc với mọi người, đặc biệt là trong
thời đại công nghệ phát triển như ngày nay. Mạng xã hội, hay cịn có thể biết
đến dưới những tên gọi khác như "cộng đồng ảo"hay "trang hồ sơ", là một trang
web mang mọi người đến với nhau để nói chuyện, chia sẻ ý tưởng và sở thích,
hay làm quen với những người bạn mới. Dịch vụ mạng xã hội có những tính
năng như chat, e-mail, phim ảnh, voice chat, chia sẻ file, blog và xã luận. Mạng
đổi mới hoàn toàn cách cư dân mạng liên kết với nhau và trở thành một phần tất
yếu của mỗi ngày cho hàng trăm triệu thành viên khắp thế giới. Các dịch vụ này
8
có nhiều phương cách để các thành viên tìm kiếm bạn bè, đối tác: dựa theo
group (ví dụ như tên trường hoặc tên thành phố), dựa trên thông tin cá nhân (như
địa chỉ e-mail hoặc screen name), hoặc dựa trên sở thích cá nhân (như thể thao,
phim ảnh, sách báo, hoặc ca nhạc), lĩnh vực quan tâm: kinh doanh, mua bán.
Căn cứ theo quy định tại khoản 7, Điều 2 Luật An ninh mạng số
24/2018/QH14 quy định: "Tội phạm mạng là hành vi sử dụng không gian mạng,
công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để thực hiện tội phạm được quy
định tại Bộ luật Hình sự.” Theo đó, các hành vi sử dụng mạng xã hội thực hiện
những hành vi thỏa mãn các hành vi cấu thành của một tội phạm được quy định
trong BLHS thì sẽ bị coi là phạm tội.
Sau đó, BLHS số 100/2015/QH13 cũng có quy định tại Điều 8 về định
nghĩa tội phạm như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự do người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự an tồn xã
hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cơng dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Theo đó, các nhóm tội phạm ở phần “Các tội phạm” trong đó có các tội
xâm phạm sở hữu. Khoa học hình sự đã đưa ra khái niệm chung đối với các tội
xâm phạm sở hữu như sau: “Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến
quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân”. Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu, vì vậy khái niệm Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn khái niệm chung của các tội xâm phạm sở hữu,
đồng thời phải thỏa mãn các các dấu hiệu đặc thù nói riêng.
Căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 174 của BLHS năm 2015 thì tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản có những đặc điểm sau:
9
Thứ nhất, lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi xâm hại đến quyền sở hữu
của người khác, thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã
hội là dấu hiệu quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Vì vậy, tính chất
và mức độ của thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là nguy hiểm
"đáng kể"hay "không đáng kể"cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm luật tội phạm hóa
và phi tội phạm hóa. Bộ luật hình sự 2015 quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản do nó đã xâm hại đến sở hữu của nhà nước, tập thể, cá nhân là quan hệ xã
hội được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản của người khác, không những xâm hại đến sở hữu mà còn xâm hại đến sự
phát triển của các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, cũng như xâm
hại đến trật tự an tồn xã hội… Vì vậy, việc quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản của người khác trong luật hình sự là cần thiết, góp phần bảo vệ sở hữu nhà
nước, sở hữu của tập thể là cá nhân thông qua đó thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế và trật tự an toàn xã hội.
Thứ hai, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nằm trong nhóm tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt, do đó nó cũng có hành vi chiếm đoạt như những tội
chiếm đoạt khác. Điểm khác biệt là ở chỗ, hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo
được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối là cho chủ sở hữu nhầm tưởng tự nguyện
trao tài sản cho người phạm tội. Chiếm đoạt còn được hiểu là "chiếm của người
khác bằng cách dựa vào quyền hành, sức mạnh vũ lực".
Dưới góc độ pháp luật hình sự "chiếm đoạt tài sản"là hành vi cố ý chuyển
dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của
mình hoặc "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản của người
khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người hoặc cho người khác mà
mình quan tâm".
Như vậy, dựa theo quy định về khái niệm về tội phạm lừa đảo chiếm đoạt
tài sản qua mạng xã hội được hiểu theo định nghĩa sau đây: “Tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội là hành vi cố ý sử dụng không gian mạng,
10
công nghệ thông tin, mạng xã hội nhằm biến chuyển một cách trái pháp luật tài
sản của người khác thành tài khoản của mình hoặc một nhóm người.”
1.1.2. Đặc điểm pháp lý
Xét về hành vi phạm tội, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã
hội có đầy đủ các đặc điểm pháp lý của hành vi chiếm đoạt tài sản. Cụ thể như
sau:
Một là, mặt khách quan của tội phạm:
- Về hành vi khách quan: (1) Hành vi của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là
dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác mà ngay lúc đó,
người bị hại khơng biết được có hành vi gian dối; (2) Dùng thủ đoạn gian dối là
đưa ra thông tin giả, không đúng với sự thật nhưng làm cho người bị lừa dối tin
đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thơng tin giả có thể
được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết
thư), bằng hành động, bằng hình ảnh…hoặc kết hợp bằng nhiều cách thức khác
nhau. Hiện nay, thủ đoạn lừa đảo của tội phạm rất tinh vi, tội phạm thường thực
hiện hành vi lừa đảo trên các trang mạng xã hội hoặc các trang web, sau khi đã
chiếm đoạt được tài sản, tội phạm sẽ cắt đứt mọi liên hệ với người bị hại và
thường người bị hại khơng biết hoặc biết những thơng tin khơng chính xác về tội
phạm.
Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội
chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt
bằng thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành
vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, khơng có thủ
đoạn thuộc về tư tưởng, suy nghĩ của người phạm tội lại khơng được biểu hiện
ra bên ngồi bằng hành vi, cũng chính vì thế mà khi phân tích các dấu hiệu
khách quan cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản một số quan điểm cho rằng
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hai hành vi khách quan là hành vi “gian dối” và
hành vi “chiếm đoạt”, nói như thế cũng khơng phải là khơng có căn cứ. Tuy
11
nhiên, điều luật quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản
của người khác…” nên không thể coi thủ đoạn phạm tội là một hành vi khách
quan được vì thủ đoạn chính là phương thức để đạt mục đích mà biểu hiện của
thủ đoạn gian dối lại bao gồm nhiều hành vi khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh
cụ thể khác mà người phạm tội thực hiện hành vi đó nhằm đánh lừa người khác.
Ví dụ: A nói dối với B là mẹ của A ốm phải đưa vào bệnh viện cấp cứu; B
tin và đưa xe máy cho A để A đưa mẹ đi cấp cứu. A đem xe máy của B ra tiệm
cầm đồ cầm cố lấy 10.000.000 đồng, sử dụng vào mục đích đánh bạc và đã thua
hết. Nhưng trong một hoàn cảnh khác, A khơng nói dối với B là mẹ của mình bị
bệnh mà lại nói dối với B là mượn xe chở bạn gái về rồi đem cầm cố lấy tiền
đánh bạc. Như vậy việc người phạm tội có hành vi cụ thể nào để đánh lừa được
người khác là phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và do người phạm tội
lựa chọn sao cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin mà tự nguyện giao
tài sản cho người phạm tội.
Đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn gian dối của
người phạm tội phải có trước hành vi chiếm đoạt và là nguyên nhân trực tiếp
khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản cho người phạm tội. Thủ đoạn gian
dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước khi việc giao tài sản giữa
người bị hại với người phạm tội thì mới là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì khơng
phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tùy trường hợp cụ thể, thủ đoạn gian dối
đó có thể là hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác, ví dụ như
tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Để lừa được chủ sở hữu hoặc người
quản lý tài sản, người phạm tội sử dụng nhiều cách khác nhau như: bằng lời nói
dối, giả mạo giấy tờ, giả danh người có chức vụ quyền hạn, giả danh các cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội để thông qua việc ký kết hợp đồng…Thực tế để
xác định hành vi gian dối, thường căn cứ vào các chứng từ, tài liệu, giấy tờ giả
(như Hợp đồng mua bán, Giấy chứng nhận sở hữu nhà, đất, giấy vay tiền…) mà
12
đối tượng dùng để tạo niềm tin cho chủ tài sản, làm cho chủ tài sản tin để giao
tài sản để xác định.
Ví dụ: Trong các vụ án lừa đảo Ngân hàng, đối tượng phạm tội thường xây
dựng phương án kinh doanh khống, làm giả hồ sơ tài sản thế chấp…để được vay
vốn sau đó chiếm đoạt mà khơng có khả năng trả nợ.
Đây cũng là đặc điểm để phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Người lừa đảo chiếm đoạt tài sản sử dụng thủ
đoạn gian dối gây lòng tin đối với chủ tài sản, làm chủ tài sản tin tưởng người
phạm tội mà trao tài sản cho họ. Để chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội lừa
đảo phải dùng thủ đoạn gian dối trước. Chính thủ đoạn gian dối là nguyên nhân
làm người có tài sản tin tưởng mà trao tài sản. Người lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản bằng thủ đoạn khác với người lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mặc dù sự
chiếm đoạt tài sản có tính chất gian dối. Người lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản bằng cách vay, mượn, thuê, hợp đồng với chủ tài sản để chủ tài sản giao
tài sản. Họ nhận được tài sản từ chủ tài sản một cách hợp pháp, ngay thẳng. Sau
khi nhận được tài sản người phạm tội mới thực hiện hành vi gian dối chiếm đoạt
tài sản ấy. Sự gian dối chiếm đoạt tài sản sảy ra sau khi nhận được tài sản nên
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là bội tín (phản bội lịng tin) của chủ tài
sản.
- Về hậu quả: Hậu quả của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là làm thiệt hại
về tài sản của người khác. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nếu
hành vi gian dối bị phát hiện trước khi người bị lừa dối giao tài sản hoặc người
bị lừa dối không phát hiện ra hành vi gian dối nhưng khơng thực hiện việc giao
tài sản thì khơng cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời điểm hoàn thành
tội phạm này được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản sau khi
đã dùng thủ đoạn gian dối để làm cho người chủ sở hữu tài sản hoặc người quản
lý tài sản bị mắc lừa giao tài sản cho mình hoặc khơng nhận tài sản đáng lẽ phải
nhận
13
Hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể
là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị
chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị
chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một
trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của
Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc gây ảnh hưởng xấu đến
an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của
người bị hại và gia đình họ. Nhưng khơng vì thế mà cho rằng, phải có thiệt hại
về tài sản (người phạm tội chiếm đoạt được tài sản) thì mới cấu thành tội phạm.
Đối với những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị
lớn hoặc rất lớn như ơtơ, xe máy, máy tính xách tay, điện thoại đắt tiền, đồng hồ
có giá trị rất lớn hoặc tài sản khác có giá trị hàng chục triệu đồng trở lên, thì dù
người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, là phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt
hoặc chuẩn bị phạm tội tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
- Về mối quan hệ nhân quả: Cũng như những tội có cấu thành vật chất khác, hậu
quả và hành vi khách quan của tội phạm có mối quan hệ nhân quả với nhau. Hậu
quả thiệt hại về tài sản phải được xuất phát từ hành vi lừa dối. Nếu việc thiệt hại
về tài sản từ nguyên nhân khác thì sẽ dựa vào những dấu hiệu khách quan để xác
định xem có dấu hiệu của tội phạm không và được pháp luật điều chỉnh như thế
nào. Tuy nhiên, ở đây cũng nên lưu ý là cần phân biệt tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản với những tội phạm có dùng thủ đoạn gian dối khác “tự nguyện” giao tài sản
cho mình, cịn đối với những thủ đoạn gian dối nhưng không phải do người bị
hại tự động giao tài sản của mình thì phải căn cứ vào dấu hiệu khách quan để
xác định tội phạm tương ứng, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm gian
dối nhằm ăn gian, bớt của khách hành hoặc để bán hàng giả nhằm thu lợi bất
chính thì sẽ cấu thành tội lừa dối khách hành hoặc tội buôn bán hàng giả.
14
Hai là, mặt khách thể của tội phạm: Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối
tượng tác động của tội phạm này là tài sản, bao gồm vật, tiền. Việc xâm phạm
quyền sở hữu cũng thể hiện ở hành vi chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người
khác sau khi lừa lấy được tài sản.
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội có
tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm
phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là
một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội
cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình
tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người
phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thốt, gây chết người hoặc
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng
trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác.
Ba là, mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý
trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy
ra. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có tính chất chiếm đoạt, do lỗi cố ý của
chủ thể, mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của
người bị hại. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có
trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi
đã có tài sản một cách hợp pháp, ngay thẳng rồi mới có ý định chiếm đoạt tài
sản thì khơng phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tùy trường hợp cụ thể,
người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác như tội
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thực tế việc chứng minh ý thức chiếm
đoạt của người phạm tội thường căn cứ vào tài sản thực có, tình trạng tài chính,
15
nhu cầu tài sản của người phạm tội kết hợp với lời khai nhận của người phạm tội
như thế nào. Thông thường trước khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, người phạm tội bị rơi vào hoàn cảnh nợ nần do thua cờ, bạc, lô đề, kinh
doanh…, khơng có khả năng trả nợ cho chủ nợ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt
tài sản.
Bốn là, mặt chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm có thể là bất kỳ
người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo quy định
tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm không phải là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi. Tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì khơng phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ có người trên 16 tuổi mới phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Từ những phân tích này, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những điểm hợp lý
trong khái niệm về tội phạm của BLHS và những vấn đề đã được thực tiễn áp
dụng pháp luật kiểm nghiệm, có thể đưa ra định nghĩa khoa học về Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một tội phạm được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
độ tuổi luật định thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài
sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, cung cấp thông tin sai sự thật làm
cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản nhầm tưởng tự nguyện trao tài sản
cho người phạm tội.
1.2. Nhận thức về hoạt động phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt
tài sản qua mạng xã hội trong sinh viên của lực lượng Cảnh sát hình sự
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm về phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản qua mạng xã hội của lực lượng cảnh sát hình sự
Khái niệm về phịng ngừa tội phạm được hiểu là việc sử dụng hệ thống các
biện pháp mang tính xã hội và nhà nước nhằm khắc phục những nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm, hạn chế và loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống
16
xã hội.2 Theo nghĩa hẹp, chỉ tập trung vào việc ngăn cản tội phạm xảy ra, khắc
phục loại bỏ nguyên nhân điều kiện. Theo nghĩa rộng, ngoài việc ngăn cản tội
phạm xảy ra còn sử dụng các biện pháp để phát hiện xử lý tội phạm kịp thời
Phòng ngừa tội phạm chính là một trong những nội dung quan trọng và
chiếm một vị trí đặc biệt của lý luận về tội phạm học. Nghiên cứu về phịng
ngừa tội phạm chính là nghiên cứu cơ sở, nền tảng và điểm xuất phát để tiếp tục
nghiên cứu những nội dung khác trong lý luận tội phạm học. Cho nên, phòng
ngừa tội phạm vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của tội phạm học, vừa là
mục tiêu, chức năng cơ bản của tội phạm học. Hơn nữa, suy cho cùng thì mục
đích của ngành khoa học về tội phạm học để phòng ngừa tội phạm, để cho tội
phạm không xảy ra, không gây ra các hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Vì vậy, trước khi đưa ra khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội
phạm học cần phải làm sáng tỏ hai nội dung “tội phạm” với tư cách là đối tượng
phòng ngừa và “tội phạm học” với tư cách là hệ thống bao gồm các bộ phận
khác nhau mà lý luận về phịng ngừa tội phạm chính là một bộ phận cấu thành
trong đó chính là một bộ phận cấu thành trong đó. Đúng như GS. TSKH. Đào
Trí Úc đã viết “…Tội phạm học có mục đích đưa ra những kiến nghị về các giải
pháp nhằm tăng cường hiệu quả đấu tranh phịng, chống tội phạm…”.
Do đó, mục đích cuối cùng và quan trọng nhất của ngành khoa học này là
tìm ra được những biện pháp tác động vào quy luật phát sinh, tồn tại và phát
triển của tội phạm, đồng thời khắc phục được nguyên nhân và điều kiện phạm
tội. Tư tưởng về phòng ngừa tội phạm và sự cần thiết của phòng ngừa tội phạm
đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử loài người để bảo vệ, duy trì trật tự và cơng
bằng xã hội, góp phần bảo vệ các lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội. Chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã tiếp tục kế thừa và phát triển
những tư tưởng văn minh và tiến bộ này. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa, tội phạm phát sinh và tồn tại là do những nguyên nhân
2 Trang 273, Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tội phạm học, NXB Hồng Đức, TP. Hồ
Chí Minh