Đề bài:
Anh, chị hãy:
1. Lựa chọn một đề tài nghiên cứu khoa học pháp lý cấp độ Tiểu luận tốt
nghiệp hoặc Luận văn cử nhân thuộc một trong bốn nhóm đề tài sau: Bảo
hiến; Chính phủ; Nguyên thủ quốc gia; Chính thể.
2. Tìm tài liệu cho đề tài đó (Ít nhất 10 tài liệu là bài báo cáo khoa học,
sách, giáo trình, luận văn, luận án).
3. Thực hiện tổng quan tài liệu tham khảo đã tìm được.
MỞ ĐẦU
Tư tưởng bảo hiến đã hình thành từ khi xuất hiện những văn bản có
tính hiến pháp nhứng nó thực sự trở nên phổ biến và có tính hiệu lực khi có
hiến pháp thành văn (1787). Hiến pháp là văn bản chính trị - pháp lý, là đạo
luật cơ bản của mỗi quốc gia, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống
chính trị xã hội. Việc bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, bảo đảm Hiến
pháp được tôn trọng và nghiêm chỉnh luôn là vấn đề quan trọng, bảo hiến là
một yêu cầu cấp bách trong đời sống pháp lý. Chính vì vậy, em xin lựa
chọn đề tài “Nhu cầu bảo hiến và xây dựng mơ hình bảo hiến phù hợp
với yêu cầu nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay”.
NỘI DUNG
Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu của các học giả liên quan đến mơ
hình bảo hiến dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể liệt kê một số cơng
trình sau:
Các cơng trình nghiên cứu về Hiến pháp
Sách “Hiến pháp năm 2013 - Sự kết tinh ý chí, trí tuệ tồn dân tộc” do
Báo Nhân Dân phối hợp Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất
bản. Cuốn sách tập hợp đầy đủ nội dung Hiến pháp Việt Nam từ ngày
thành lập nước đến nay cũng như tuyển chọn các ý kiến của các tổ chức, cá
nhân đóng góp những ý kiến tâm huyết, quý báu đại diện cho trí tuệ của
tồn dân tộc. Bằng tâm huyết và trí tuệ của mình, đồng bào, chiến sĩ cả
nước, đồng bào ta ở nước ngồi đã hưởng ứng và tích cực tham gia đóng
góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp; tập trung nghiên cứu, thảo luận
dân chủ, cởi mở và xây dựng; góp nhiều ý kiến cụ thể, thiết thực. Trong
cuốn sách có một số bài viết có giá trị đối với đề tài.
Các cơng trình nghiên cứu về bảo hiến và bảo vệ hiến pháp bằng
pháp luật
Bài viết “Các mơ hình cơ quan bảo hiến trên thế giới và lựa chọn mơ
hình phù hợp với Việt Nam” của PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng đăng tải trên
Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 19 (251), tháng 10/2013, bài viết đã khái
qt 4 nhóm mơ hình bảo hiến trên thế giới và phân tích những nét đặc
trưng của mỗi mơ hình bao gồm mơ hình Tịa án tối cao và Tịa án các cấp
có chức năng bảo hiến – Mơ hình Hoa Kỳ, mơ hình Tịa án Hiến pháp
(Constitutional Court), Mơ hình Hội đồng Hiến pháp (Conseil
Constitutionnel), mơ hình cơ quan lập hiến đồng thời là cơ quan bảo hiến,
từ đó gợi mở mơ hình bảo hiến ở Việt Nam.
Ban Biên tập sửa đổi Hiến pháp năm 1992 với cuốn sách Mơ hình tổ
chức và hoạt động của Hội đồng Hiến pháp ở một số nước trên thế giới
năm 2013. Các tác giả đã đề cập quá trình hình thành và phát triển của các
cơ quan bảo vệ hiến pháp, mô hình bảo vệ Hiến pháp trên thế giới như
Nghị viện, hội đồng Hiến pháp, Tòa án Hiến pháp, Tòa án thường. Các tác
giả luận giải trên cơ sở phân tích mơ hình tổ chức và hoạt động của Hội
đồng Hiến pháp cho rằng đây là loại mơ hình cơ quan bảo hiến được nhiều
nước áp dụng và phù hợp với nguyên tắc, tổ chức bộ máy Nhà nước ở nước
ta từ đó rút ra bài học, kinh nghiệm phục vụ việc nghiên cứu, xây dựng cơ
chế bảo vệ Hiến pháp ở nước ta, phục vụ quá trình sửa đổi Hiến pháp năm
1992.
Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là cơng trình khoa học của tác giả Tào Thị Quyên. Tác giả
đã phân tích cơ sở lý luận của cơ chế bảo hiến trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa: xây dựng một số khái niệm như bảo vệ hiến pháp, cơ chế
bảo vệ Hiến pháp, xác định 3 yếu tố của cơ chế và cho rằng cơ chế bảo vệ
Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam mang các dấu
hiệu phản ánh bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN. Trên cơ sở phân
tích, so sánh các cơ chế bảo vệ Hiến pháp của một số nước trên thế giới
cơng trình rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Phần đánh giá
thực trạng cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam đã cung cấp cơ sở thực tiễn
cho việc tiến hành các hoạt động nhằm hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sách chuyên khảo “Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp Kinh nghiệm thế
giới và Việt Nam” của các tác giả Nguyễn Đăng Dung, Trương Đắc Linh,
Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí. Cơng trình đưa ra
mục đích ra đời và nội dung cơ bản của Hiến pháp tại chương 1, chương 2
phân tích vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong Hiến
pháp Việt Nam trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề cơ
chế bảo hiến – Kinh nghiệm thế giới và mơ hình cho Việt Nam được đề cập
tại chương 3. Nghiên cứu cịn phân tích cơ chế giám sát hiến pháp của Việt
Nam trong lịch sử lập hiến theo Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992
(sửa đổi bổ sung năm 2001) và 2013. Nhóm tác giả cho rằng cũng có thể
đặt vấn đề thành lập Hội đồng Bảo hiến theo mơ hình của Pháp nhưng
khơng cho rằng đây là một sự lựa chọn thích hợp bởi ba lí do sau: “Một là,
Hội đồng Bảo hiến là một sản phẩm đặc thù nhằm thực hiện những toan
tính chính trị của De Gaulle về một nền hành pháp mạnh, rút kinh nghiệm
từ sự thất bại của bốn nền Cộng hòa trước đó. Hai là, vì được thành lập trên
cơ sở toan tính chính trị của De Gaulle nên Hội đồng Bảo hiến mang tính
chất chính trị hơn tư pháp. Ba là, Hội đồng Bảo hiến của Pháp trong quá
trình phát triển của mình đã dần được tư pháp hóa”.
Luận án Tiến sĩ Luật học “Bảo hiến trong Nhà nước pháp quyền” của
tác giả Nguyễn Mậu Tuân. Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận của cơ chế
bảo hiến, mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền và vấn đề bảo hiến, một
số mơ hình bảo hiến tiêu biểu trên thế giới. Tác giả nghiên cứu thực tiễn
xây dựng mơ hình bảo hiến tại Việt Nam trong lịch sử lập pháp, đưa ra giải
pháp xay dựng mơ hình phù hợp với đất nước về hệ thống chính trị, trình
độ phát triển, lịch sử truyền thống. Cơng trình có ý nghĩa thiết thực về mặt
lý luận và thực tiễn, góp phần bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp.
Luận văn Thạc sĩ “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt
Nam hiện nay” năm 2016 của tác giả Tạ Quốc Long, tác giả sử dụng
phương pháp phân tích và tổng hợp nhằm hệ thống hóa những vấn đề lý
luận cơ bản về bảo hiến như: khái niệm, nhu cầu bảo hiến, khái qt một số
mơ hình bảo hiến tiêu biểu trên thế giới và phân tích mơ hình cơ chế bảo
hiến bằng pháp luật ở Việt Nam theo các bản Hiến pháp các năm 1946,
1959, 1980, 1992 và 2013, từ đó sử dụng phương pháp so sánh đưa ra đánh
giá về ưu điểm, hạn chế của mỗi mơ hình trên, việc nghiên cứu về bảo hiến
qua các bản Hiến pháp là sự đúc kết kinh nghiệm, tiếp thu giá trị có chọn
lọc. Tác giả nghiên cứu thực trạng vi hiến, thực trạng áp dụng cơ chế bảo
hiến bằng pháp luật tập trung chủ yếu từ năm 2013 đến nay theo Hiến pháp
năm 2013 và các văn bản pháp luật có liên quan, trên cơ sở đó đề xuất giải
pháp nhằm hồn thiện pháp luật để bảo hiến trên tinh thần Hiến pháp năm
2013. Luận văn đề cập khá toàn diện các vấn đề lý luận về mơ hình bảo
hiến và thực trạng của hoạt động bảo hiến tại Việt Nam với trọng tâm tập
trung vào cơ chế bảo vệ Hiến pháp tuy nhiên luận văn chưa đề cập đến các
yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn mơ hình bảo hiến ở nước ta.
Luận văn thạc sĩ luật hiến pháp và luật hành chính với đề tài: “Bảo vệ
hiến pháp bằng pháp luật tại Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Văn Quyền
năm 2020, luận văn làm rõ cơ sở lý luận về bảo vệ Hiến pháp bằng pháp
luật, đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến bảo vệ Hiến pháp bằng pháp
luật, nội dung cơ bản bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật trên 3 phương diện
là chủ thể, nội dung và phương thức, tổng hợp kinh nghiệm bảo vệ Hiến
pháp bằng pháp luật của một số quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Đức,
Pháp, từ đó nêu ra bài học tham khảo đối với Việt Nam. Từ thực tiễn thi
hành trên thực tế, tác giả xác định nguyên nhân chủ yếu của những bất cập
xuất phát từ nguyên nhân chủ quan qua đó tác giả đưa ra các nhóm giải
quyết hồn thiện bảo vệ Hiến pháp tại Việt Nam về chủ thể bảo vệ Hiến
pháp, về nội dung bảo vệ Hiến pháp và phương thức bảo vệ Hiến pháp và
kiểm soát bảo vệ Hiến pháp.
Luận văn Thạc sĩ Luật học “Nghiên cứu so sánh các mơ hình cơ quan
bảo hiến trên thế giới, xây dựng luận cứ khoa học cho việc thiết lập cơ
quan bảo hiến ở Việt Nam” của tác giải Bùi Bách Thành năm 2014. Luận
văn đã phân tích các vấn đề lý luận về vi hiến, vị trí và vai trị của Hiến
pháp và nhu cầu bảo hiến trong nhà nước pháp quyền. Tác giả nêu rõ: “Bảo
hiến trở thành một đòi hỏi tất yếu của nhà nước pháp quyền. Nếu khơng
bảo hiến hoặc có nhưng khơng hiệu quả thì sẽ dẫn đến tính hiệu lực của
Hiến pháp bị xâm hại, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền khơng được
đảm bảo và sẽ khơng có được Nhà nước pháp quyền”. Tác giả đã phân tích
các mơ hình cơ quan bảo hiến trên thế giới, điểm sáng ở đây là tác giả đã
tìm ra các điểm tương đồng và khác biệt trong các mơ hình trên và đưa ra
một số phương án thiết lập cơ quan bảo hiến phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh kinh tế - xã hội ở Việt Nam trên cơ sở 3 phương án là thành lập cơ
quan bảo vệ Hiến pháp trực thuộc Quốc hội; Thành lập Tòa án Hiến pháp
do Quốc hội thành lập nhưng không thuộc quốc hội mà độc lập với Quốc
hội, độc lập với các cơ quan hành pháp, tư pháp; Trao quyền bảo vệ Hiến
pháp cho Tòa án tối cao.
Luận văn Thạc sĩ Luật học “Mơ hình Tịa án Hiến pháp của một số
nước trên thế giới và vấn đề xây dựng tòa án hiến pháp ở Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Hoàng Anh. Luận văn làm sáng tỏ vấn đề sự cần thiết phải
có một cơ chế bảo hiến của bất kỳ quốc gia nào có Hiến pháp. Phân tích và
đánh giá được những ưu điểm, khuyết điểm đang tồn tại của các mơ hình
bảo hiến cơ bản trên thế giới trên cơ sở nghiên cứu mơ hình tịa án Hiến
pháp của một số quốc gia điển hình là Mỹ, Đức, Thái Lan. Đánh giá các
điều kiện về lý luận, những điểm thuận lợi và khó khăn trong việc thành lập
tòa án hiến pháp độc lập ở Việt Nam. Từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt
Nam.
Luận văn Thạc sĩ Luật học “Xây dựng các cơ chế nhà nước bảo vệ
Hiến pháp ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của tác giả Trịnh
Phương Thảo. Luận văn đã hệ thống hóa những cơ sở lý luận cơ bản về cơ
chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp, vị trí, vai trò của các cơ quan nhà nước
trong thực thi nhiệm vụ bảo hiến. Tác giả đã nghiên cứu về thực trạng cơ
chế nhà nước và nhận xét những điểm còn tồn tại, hạn chế của cơ chế nhà
nước bảo vệ Hiến pháp ở nước ta. Phân tích nhu cầu khách quan địi hỏi
phải hồn thiện hệ thống pháp luật nhằm nâng cao hoạt động của cơ chế
nhà nước bảo vệ Hiến pháp, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm tăng
cường hiệu quả hoạt động của cơ chế bảo hiến ở nước ta. Theo tác giả, khi
nhìn nhận về “khái niệm cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp” cần phải xem
xét một cách tồn diện cả hai khía cạnh đó là: “yếu tố tổ chức” và “yếu tố
hoạt động” của khái niệm “cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp”. Bên cạnh
đó tác giả cho rằng: “Những bất ổn bộc lộ rõ nét trong từng hoạt động bảo
hiến do cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp thực hiện, trước hết là ở phương
diện giám sát, kiểm tra sự tuân thủ và thực thi Hiến pháp”. Từ đó đưa ra
phương hướng và các giải pháp xây dựng, hoàn thiện cơ chế nhà nước bảo
vệ Hiến pháp Việt Nam, trong đó “giải pháp đầu tiên và trước hết là hoàn
thiện nội dung Hiến pháp nước ta”.
Luận văn Thạc sĩ Luật học “Sự lựa chọn mơ hình bảo hiến ở Việt
Nam” năm 2015 của tác giả Bùi Hải Đường. Luận văn nghiên cứu các đặc
điểm của các cơ quan bảo vệ Hiến pháp trên thế giới. Không chỉ vậy cịn
tìm hiểu tại sao các quốc gia lại lựa chọn mơ hình bảo hiến đó nhằm tìm ra
sự tương đồng với hoàn cảnh thực tiễn ở Việt Nam. Nghiên cứu cơ chế bảo
hiến cho Việt Nam và yêu cầu cần thiết cho sự đổi mới mơ hình, đưa ra các
kiến nghị một mơ hình bảo hiến phù hợp với đặc điểm của Việt Nam. Tác
giả cho rằng: “Mơ hình bảo hiến hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng
nhà nước của nhân, do nhân dân, và vì nhân dân … Việt Nam cần thiết
phải tồn tại mơ hình bảo hiến độc lập, có cơ quan chuyên trách, được giao
quyền hạn nhất định nhằm có thể xử lý hành vi vi hiến, bảo vệ giá trị tối
cao của Hiến pháp”. Theo tác giả, mơ hình Hội đồng Hiến pháp là mơ hình
phù hợp và khả thi nhất cho Việt Nam, bên cạnh đó tác giả đã nêu được các
khuyến nghị bao gồm: nhiệm vụ, chức năng cơ bản, cơ cấu tổ chức - cách
thức thành lập; trình tự thủ tục hoạt động của hội đồng, hiệu lực pháp lý
phán quyết của hội đồng.
Bài viết “Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn
Võ Linh Giang tại Tạp chí Luật học số 6/2019. Bài viết phân tích các vấn
đề lí luận và thực tiễn quy định pháp luật về cơ chế ở Việt Nam theo hai
tiêu chí là chủ thể và trình tự thủ tục, so sánh với pháp luật một số quốc gia
và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay theo
hướng: Ban hành văn bản điều chỉnh riêng về cơ chế bảo vệ Hiến pháp
trong đó xác định rõ vai trị giải thích Hiến pháp của UBTV Quốc hội và
quy định chủ thể duy nhất có thẩm quyền bảo vệ Hiến pháp; thành lập Hội
đồng bảo hiến theo mô hình của Cộng hịa Pháp, dựa trên các phân tích, tác
giả cho rằng việc thành lập Hội đồng bảo hiến theo mơ hình của Pháp là
giải pháp phù hợp hơn so với thành lập một tòa án độc lập.
Bài viết “Bàn về mơ hình bảo hiến ở Việt Nam: Từ giám sát bởi Quốc
hội chuyển sang tài phán bằng Tòa án Hiến Pháp” của tác giả Bùi Xuân
Đức. Bài viết phân tích giám sát hiến pháp ở Việt Nam từ góc độ bảo vệ
Hiến pháp. Tác giả đã đặt ra vấn đề xây dựng cơ chế giám sát hiến pháp, sự
lựa chọn cơ chế thích hợp và tiến tới thiết lập một cơ quan tài phán hiến
pháp độc lập – Tòa án hiến pháp. Tác giả Bùi Xuân Đức phân tích sự cần
thiết phải xây dựng cơ chế bảo hiến đó là: “đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và khắc phục những hạn chế khiếm
khuyết khi chưa có cơ chế bảo hiến chuyên trách”. Tác giả nêu rõ việc
thành lập cơ quan tài phán hiến pháp độc lập dù được tổ chức dưới hình
thức là Hội đồng bảo hiến, tịa án chung hay tịa độc lập thì nó phải là một
chế định có tính độc lập tương đối và hoạt động như một cơ quan tài phán
theo thủ tục tư pháp, đồng thời xác định đúng thẩm quyền của cơ quan đó.
KẾT LUẬN
Về cơ bản các cơng trình nghiên cứu trên đã khái quát được sự khách
quan của bảo hiến ở Việt Nam và thế giới, phân tích cơ sở lý luận về bảo
hiến, bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật, nghiên cứu các mơ hình bảo hiến
trên thế giới và mơ hình bảo hiến tại Việt Nam qua các bản hiến pháp. Trên
cơ sở phân tích và so sánh, đưa ra một số kinh nghiệm phù hợp cho Việt
Nam. Đây chính là nguồn nhận thức cơ bản và quan trọng, những kiến
thức, cơ sở lý luận để tham khảo, góp phần thực hiện nghiên cứu đề tài.
Xây dựng mơ hình bảo hiến chun trách là q trình lâu dài và khó khăn,
chúng ta khơng nên nóng vội, máy móc, điểm cốt lõi là lựa chọn chính xác
mơ hình bảo hiến và có sự điều chỉnh để phù hợp với Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hoàng Anh (2013), Mơ hình tịa án Hiến pháp của một số nước
trên
2. thế giới và vấn đề xây dựng tòa án hiến pháp ở Việt Nam, Luận văn
Thạc
3. sĩ Luật học, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4. Bùi Xuân Đức (2007), ''Bàn về mơ hình bảo hiến ở Việt Nam: từ giám
sát bởi Quốc hội chuyển sang tài phán bằng Tòa án Hiến pháp'', Tạp chí
Luật học, (8), tr.10-18.
5. Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mơ hình bảo hiến ở Việt Nam Luận văn
Thạc sĩ Luật học”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc
Gia Hà Nội, 2015.
6. Nguyễn Võ Linh Giang, “Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay”,Tạp
chí Luật học số 6/2019, tr. 33-48.
7. Tạ Quốc Long (2016), “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt
Nam hiện nay” Luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia.
8. Lê Văn Quyền (2020), “Bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật tại Việt Nam
hiện nay”, Luận văn thạc sĩ luật hiến pháp và luật hành chính, Học viện
Hành chính Quốc Gia.
9. Tào Thị Quyên (2012), Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp
quyền
10.xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
11.Bùi Bách Thành (2014), “Nghiên cứu so sánh các mơ hình cơ quan bảo
hiến trên thế giới, xây dựng luận cứ khoa học cho việc thiết lập cơ quan
bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội.
12.Trịnh Phương Thảo (2011), Xây dựng các cơ chế Nhà nước bảo vệ Hiến
pháp ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
13.Thái Vĩnh Thắng, “Các mơ hình cơ quan bảo hiến trên thế giới và lựa
chọn mô hình phù hợp với Việt Nam”, Nghiên cứu lập pháp số 19
(251), tháng 10/2013.
14.Nguyễn Mậu Tuân (2012), Bảo hiến trong Nhà nước pháp quyền, Luận
án Tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia, Hà Nội.