MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC PHẨM BÀN VỀ THUẾ
LƯƠNG THỰC CỦA LÊNIN..........................................................................2
1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.................................................................2
1.2. Nội dung chính của tác phẩm.....................................................................4
Chương 2. TƯ TƯỞNG CỦA LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ
NƯỚC TRONG TÁC PHẨM BÀN VỀ THUẾ LƯƠNG THỰC....................7
2.1. Tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước....................................7
2.2. Các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.........................................11
KẾT LUẬN....................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................20
MỞ ĐẦU
V.I.Lênin (1870 - 1924) là vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản Nga và
giai cấp vô sản tồn thế giới. Người đó cống hiến tồn bộ sức lực và trớ tuệ
cho sự nghiệp đấu tranh để giành, giữ chính quyền Xơ Viết và xây dựng
CNXH ở nước Nga. Lênin đó kế thừa và phỏt huy sỏng tạo học thuyết của
C.Mỏc để xây dựng hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Những quan
điểm, tư tưởng của Người về thời kỳ quá độ đó và đang được vận dụng ở
nhiều quốc gia. Đặc biệt, lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước một trong những nội dung cơ bản của Người được trình bày trong tác phẩm:
"Bàn về thuế lương thực" (được xuất bản năm 1921), là tư tưởng hoàn toàn
mới mẻ chưa có tiền lệ về mặt lý luận cũng như thực tiễn về bước quá độ lên
CNXH ở những nước tiểu nông. Người cho thấy sự cần thiết của chủ nghĩa tư
bản nhà nước trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH trong thời
kỳ qúa độ và các hình thái của nó mà trước đây Mác và Ăngghen chưa đề cập
tới. Như vậy, CNTB nhà nước thực chất là gỡ? Nó có vai trị, tác dụng như
thế nào trong thời kỳ quá độ? Các hình thức biểu hiện của CNTB nhà nước ra
sao? Cần vận dụng lý luận về CNTB nhà nước của Lênin vào thực tiễn Việt
Nam như thế nào? Để phân tích từ các vấn đề trên, em chọn đề tài “Tư tưởng
của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong tác phẩm bàn về thuế lương
thực” để làm tiểu luận cho môn học của mình.
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC PHẨM BÀN VỀ THUẾ LƯƠNG THỰC
CỦA LÊNIN
1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa tới sự
xuất hiện của nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới, mở đầu một thời đại
mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Trước bối
cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản Nga mới bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt,
do đó nó khơng chịu khoanh tay đầu hàng mà tìm mọi cách để chống lại nhà
nước Xô viết để giành lại thiên đường đã mất. Nên giai cấp tư sản Nga đã cấu
kết với 14 nước đế quốc do Anh, Pháp cầm đầu hịng bóp chết nhà nước Xô
viết non trẻ.
Về kinh tế - xã hội: Nền kinh tế quốc dân bị suy sụp nặng nề: trên 20
triệu người chết trong đó 1/7 dân số nước Nga, khoảng 30% là nam giới ở độ
tuổi lao động. Nguồn của cải bị tiêu huỷ trong các cuộc chiến tranh đó rất lớn,
1/4 tài sản quốc dân bị tiêu huỷ. Đại đa số các xí nghiệp cơng nghiệp ở tình
trạng đình đốn, nhiều nhà máy ngừng hoạt động, đặc biệt các ngành công
nghiệp nặng, so với trước chiến tranh, sản lượng công nghiệp nặng giảm 7
lần. Ngành giao thông ở vào tình trạng tê liệt, do nhiên liệu thiếu, lương thực
thực phẩm khơng đủ. “Thêm vào đó, nạn mất mùa năm 1920, nạn thiếu thức
ăn gia súc, nạn chết súc vật” làm cho đời sống nhân dân điêu đứng đến mức
khơng thể chịu nổi. Tình hình kinh tế, xã hội như vậy dẫn đến tình chính trị
trở nên phức tạp.
Về kết cấu kinh tế, xã hội, giai cấp: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
gồm kinh tế gia trưởng, kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, tư bản tư nhân, kinh tế
tư bản nhà nước và kinh tế chủ nghĩa xã hội cùng tồn tại. Nước Nga rộng lớn
và hỗn tạp đang tồn tại “những thành phần, những bộ phận, những mảnh của
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”
Cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước Nga rất phức tạp gồm giai cấp tư sản,
tiểu tư sản, giai cấp vơ sản, trong đó “Tính tự phát tiểu tư sản chiếm ưu thế và
không thể không chiếm ưu thế, số đơng, thậm chí đại đa số nông dân là những
người sản xuất nhỏ”
Thực tế, họ ra sức lợi dụng sự bất bình của cơng nhân, nơng dân, binh
lính và sự dao động của những người cộng sản không kiên định lập trường
cách mạng để phá hoại cơng cuộc xây dựng kinh tế. Tồn bộ tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội trong nước nêu trên đã làm suy yếu cơ sở xã hội của chun
chính vơ sản, đe doạ sự tồn tại của Chính quyền Xơviết.
Lênin cho rằng nguyên nhân sâu xa và chủ yếu nhất dẫn đến tình trạng
làm hẹp cơ sở xã hội của Chính quyền Xơviết là do sự bất mãn của đơng đảo
quần chúng nhân dân, nhất là nông dân đối với chính sách kinh tế - xã hội của
Đảng Bơnsêvích. Lênin thừa nhận: “Đến năm 1921, chúng tôi vấp phải một
cuộc khủng khoảng chính trị bên trong nước Nga xơviết. Đó là cuộc khủng
khoảng lớn nhất. Cuộc khủng khoảng đó đã làm cho một bộ phận khá lớn
nông dân, mà cả cơng nhân, binh lính bất bình”
Về tình hình chính trị quốc tế: Bọn đế quốc bị thất bại trong cuộc
chiến tranh công khai hằn thù, chống nước Nga xôviết, âm mưu bóp nghẹt
Chính quyền của giai cấp vơ sản bằng kinh tế. Mặt khác, tình hình quốc tế có
những thay đổi mang tính bước ngoặt. Hy vọng vào thắng lợi đồng loạt của
cách mạng vô sản ở các nước phương Tây và phương Đông không thực hiện
được. Bối cảnh quốc tế ấy đã khiến nước Nga xơviết trẻ tuổi có khả năng phải
tồn tại ở trạng thái biệt lập, đơn độc trong một thời gian tương đối dài. Bởi
vậy, chiến lược về sự cùng tồn tại hồ bình với thế giới các nước tư bản chủ
nghĩa đã được hình thành rõ nét hơn. Bởi vì, theo Lênin, “Hiện nay, tình hình
quốc tế đã sản sinh một thế cân bằng, dù là tạm thời, khơng ổn định, nhưng
dẫu sao thì đó cũng vẫn là thế cân bằng”
Tình hình khủng khoảng kinh tế, chính trị, xã hội đó là do thực hiện chế
độ trưng thu lương thực thừa và thi hành Chính sách cộng sản thời chiến trong
thời bình; Về mặt chính trị đó là sự thiếu tổ chức và khơng đưa ra được chính
sách kinh tế phù hợp với thực tiễn nước Nga lúc đó.
Trong điều kiện vơ cùng khó khăn phức tạp như vậy, Đại hội X Đảng
cộng sản Nga đã đề ra đường lối mới xây dựng Chủ nghĩa xã hội nhằm đưa
nước Nga vượt qua khó khăn. Đại hội X Đảng cộng sản Nga nhấn mạnh: Phải
thay Chính sách cộng sản thời chiến bằng Chính sách kinh tế mới (NEP),
nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản trong cơng cuộc hồ bình xây
dựng kinh tế, nhấn mạnh tính tất yếu liên minh giữa giai cấp vô sản với giai
cấp nông dân trong sự nghiệp cải tạo và xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện hai nội dung trọng tâm là liên minh giai cấp cơng nơng và
việc áp dụng chính sách kinh tế mới (NEP). Lênin đã viết nhiều văn kiện và
cơng trình nghiên cứu về nhiều vấn dề trong đó có NEP. Cuốn sách mỏng
Bàn về thuế lương thực, viết vào tháng 5 năm 1921 đã góp phần quan trọng
giải thích thực chất của liên minh cơng nơng và NEP.
Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Nga đã quyết định đặc biệt,
yêu cầu các tổ chức Đảng ở khu, tỉnh, huyện phải sử dụng rộng rãi tác phẩm
Bàn về thuế lương thực trong công tác tuyên truyền chuẩn bị và triển khai,
thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
1.2. Nội dung chính của tác phẩm
Tác phẩm gồm 3 phần, được in trong Lênin Toàn tập - Tập 43 – Nhà
xuất bản Tiến bộ Matxcova 1978 – trang 244-296
Phần 1: Tình hình kinh tế hiện nay của nước Nga (15 trang, 247-262).
Phần này Lênin trích lại một đoạn dài trong cuốn sách “Về bệnh ấu trĩ tả
khuynh và tính tiểu tư sản” xuất bản năm 1918, nhằm giới thiệu lại lý luận về
chủ nghĩa tư bản nhà nước. Trong phần này, Lênin đã phân tích tính chất quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH ở Nga lúc đó. Tính chất q độ đó thể hiện
ở chỗ, “hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảng của chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”. Từ sự phân tích tính chất q độ, “Tình
trạng vơ chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu”, bản chất của Nhà nước Xơ
viết, “Sự kiểm kê, kiểm sốt của tồn dân đối với sản xuất và phân phối sản
phẩm”, Lênin vạch rõ 3 điểm chủ yếu:
Thứ nhất: Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến hơn kinh tế tư
bản chủ nghĩa tư nhân và kinh tế sản xuất hàng hố nhỏ. Vì 3 lý do: Một là:
Tính chất của bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hai là:
Thế lực tự phát của nền sản xuất nhỏ đang cản trở nghiêm trọng đối với công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là: Bản chất Chính quyền Xơ viết là nhà
nước chun chính vơ sản.
Thứ hai: Vì sao nước Nga phải thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Lênin khẳng định, đối với tình hình kinh tế - xã hội của nước Nga lúc đó,
phương án tốt nhất là thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước để lên chủ nghĩa
xã hội một cách chắc chắn nhất.
Thứ ba: Chuyển sở hữu chủ nghĩa tư bản nhà nước lên sở hữu xã hội
chủ nghĩa như thế nào.
Phần 2: Về thuế lương thực, tự do buôn bán và những hình thức của chủ
nghĩa tư bản nhà nước (24 tr, 262-286). Trong phần này Lênin trình bầy 3
vấn đề:
Về thuế lương thực. Trước hết, Lênin giải thích vì sao phải thay chính
sách trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực; tác dụng của nó như thế
nào; chủ trương ra sao. Lênin phê phán những nhận thức sai lầm và giải thích
vì sao nước Nga phải sử dụng Chính sách cộng sản thời chiến trong thời gian
trước đây và thời kỳ hồ bình xây dựng, phải áp dụng Chính sách kinh té mới
như thế nào là phù hợp. Muốn đạt được mục đích nâng cao lực lượng sản xuất
của nông dân, cải thiện được đời sống của cơng nhân cần phải có sự sửa đổi
lớn trong chính sách lương thực. Thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng
thuế lương thực là một trong những sửa đổi đó.
Về tự do buôn bán. Cho tự do buôn bán sẽ dẫn đến sự sống lại tính tự
phát tiểu tư sản và của chủ nghĩa tư bản. Trong nền kinh tế còn tồn tại nhiều
thành phần, đặc biệt kinh tế tiểu nơng chiếm ưu thế, Nhà nước chun chính
vơ sản nên thi hành theo chính sách nào? Có sợ chủ nghĩa tư bản sống lại
khơng? Theo Lênin “Khơng tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản, mà tìm cách hướng nó vào chủ nghĩa tư bản nhà
nước”; Liệu có thể kết hợp được Nhà nước chun chính vơ sản với chủ
nghĩa tư bản nhà nước khơng? Những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà
nước như thế nào?
Những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước: Lênin trình bầy cặn
kẽ chế độ tơ nhượng. Đó “là hình thức đơn giản nhất, rõ ràng nhất, sáng tỏ
nhất”. Chế độ tơ nhượng là gì, thi hành chế độ tơ nhượng có lợi gì, thực hiện
chế độ cần thứ gì; sau trình bầy về chế độ tơ nhượng, Lênin cho rằng “Các
hình thức hợp tác xã cũng là hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước”. Chủ
nghĩa tư bản nhà nước “hợp tác xã” là như thế nào, sự khác nhau giữa tô
nhượng và “hợp tác xã”; Các hình thức khác của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Nhà nước vô sản sử dụng nhà tư bản như thế nào, Nhà nước cho các nhà tư
bản thuê những cơ sở sản xuất; Lênin cũng đã phê phán những quan điểm,
nhận thức sai lầm của những người cộng sản không tán thành chủ nghĩa tư
bản nhà nước. Đồng thời, Lênin phê phán chủ nghĩa quan liêu do tình trạng
sản xuất nhỏ nó đã cản trở cho sự nhận thức và thực hiện chủ nghiã tư bản
nhà nước nói chung, Chính sách thuế lương thực nói riêng; Xây dựng Đảng,
củng cố bộ máy quản lý nhà nước, phát huy quyền dân chủ của nhân dân.
Phần 3: Tổng kết và kết luận chính trị (8 tr, 286-294). Trong phần này,
sau khi phân tích một cách sơ lược cục diện chính trị, Lênin đề cập đến sự cần
thiết thắt chặt hơn nữa mối liên hệ giữa Đảng cộng sản với quần chúng lao
động ngồi đảng hoặc đứng ngồi chính trị bằng cách đưa quần chúng “Tham
gia vào công tác của các xô viết, mà trước hết là vào các công tác kinh tế”
Chương 2
TƯ TƯỞNG CỦA LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC
TRONG TÁC PHẨM BÀN VỀ THUẾ LƯƠNG THỰC
2.1. Tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước
Theo Lênin: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước mà chúng ta nói đó là một
thứ chủ nghĩa tư bản mà chúng ta có thể hạn chế, có thể quy định giới hạn;
chủ nghĩa tư bản nhà nước đó gắn liền với nhà nước, mà nhà nước chính là
cơng nhân, chính là bộ phận tiên tiến của công nhân, là đội tiên phong, là
chúng ta”
Mặt khác, theo Lênin, chủ nghĩa tư bản nhà nước là hình thức can
thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế, thơng qua chính sách đạo luật là sự
kết hợp giữa nhà nước vô sản và nhà nước tư bản. Lênin viết: “Chủ nghĩa tư
bản nhà nước, theo sự giải thích của tồn bộ sách báo về kinh tế, là chủ
nghĩa tư bản dưới chế độ tư bản, khi chính nhà nước trực tiếp khống chế
những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa này hay xí nghiệp tư bản khác. Nhưng
nhà nước chúng ta là nhà nước vô sản, giai cấp này được nhà nước trao cho
đủ mọi đặc quyền chính trị, và thơng qua giai cấp vơ sản, nhà nước đó lơi
kéo được nơng dân lớp dưới về mình (các đồng chí đều nhớ rằng chúng ta
đã bắt đầu công tác ấy bằng cách lập ra những uỷ ban nơng dân
nghèo)”(T45, tr 101-102).
Tóm lại, theo Lênin chủ nghĩa tư bản nhà nước là “chủ nghĩa tư bản
nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nước
ta, đó là điều thứ nhất”. Và theo Lênin thì “chủ nghãi tư bản nhà nước
khơng có gì là đáng sợ đối với chính quyền Xơ Viết vì Xơ Viết là một nước
mà trong đó chính quyền của cơng nhân và nơng dân nghèo đã được bảo
đảm” (T43, Tr 252).
Một hình tức sở hữu hỗn hợp, vừa là của nhà nước vừa là của tư bản tư
nhân, hình thức kinh tế quá độ trong điều kiện nhà nước là của giai cấp công
nhân và nhân dân lao độngvà trong thời kỳ quá độ tiến đến chủ nghĩa xã hội,
chịu sự kiểm, kiểm sốt, hướng dẫn của nhà nước, hình thức trung gian từ tư
bản tư nhân lên chủ nghĩa xã hội. Bao gồm các xí nghiệp được xây dựng trên
cơ sở các hình thức kinh tế quá độ như cơ sở, cho thuê, xí nghiệp hợp tác tư
bản, kinh tiêu, đặt hàng, gia công, đại lý, nhất là công tư hợp doanh (hình
thức cao của tư bản nhà nước). Tư bản nhà nước là một thành phần kinh tế
cần thiết xét về mặt phát triển lực lượng sản xuất và khả năng kiểm sốt của
nhà nước.
Lợi ích của sự tồn tại chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xôviết
Theo Lênin, chủ nghĩa tư bản nhà nước là chiếc cầu trung gian để đưa
một nước có nền kinh tế kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội một cách chắc
chắn nhất. Ông viết: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là một bước tiến so với
tình hình hiện nay trong nước Cộng hịa Xơ-viết của chúng ta. Nếu chẳng hạn
trong khoảng nửa năm nữa, mà ở nước ta đã thiết lập được chủ nghĩa tư bản
nhà nước thì đó sẽ là thắng lợi to lớn và là điều bảo đảm chắc chắn nhất
rằng qua một năm sau, chủ nghĩa xã hội nước ta sẽ được củng cố hoàn toàn
và trở nên vơ địch” (T43 - Tr247). Lợi ích của sự tồn tại chủ nghĩa tư bản nhà
nước được Lênin khẳng định trên mấy vấn đề sau đây:
Một là: giai cấp công nhân có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước
như là một cơng cụ để chống lại tính tự phát của giai cấp tiểu tư sản và nạn
đầu cơ buôn lậu của kinh tế sản xuất nhỏ và kinh tế tư bản tư nhân. “ vì việc
để tình trạng vơ chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại là một
mối nguy lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ làm cho chúng ta bị diệt vong (nếu
chúng ta khơng chiến thắng nó) một cách dứt khốt, còn trả một khoản lớn
hơn cho chủ nghĩa tư bản nhà nước thì điều ấy khơng những khơng làm cho
chúng ta bị diệt vong, trái lại, nó sẽ đưa chúng ta đến chủ nghĩa xã hội bằng
con đường chắc chắn nhất"(T43, Tr252). Để chấn chỉnh được trật tự và tổ
chức một khi đập tan đi hành động của bọn tiểu tư hữu phá hoại mọi sự độc
quyền của nhà nước coi như một thứ học phí đáng giá.
Hai là: thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước chúng ta có thể liên hiệp
nền sản xuất nhỏ lại dưới sự kiểm sốt của nhà nước, để từ đó khắc phục sự
tách rời của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, đưa sản xuất nhỏ của nhân
dân lên sản xuất tập thể lớn. “Chừng nào mà giai cấp cơng nhân học biết cách
giữ gìn trật tự nhà nước chống tình trạng vơ chính phủ của tiểu tư hữu, chừng
nào mà giai cấp công nhân học được cách sắp đặt tổ chức sản xuất với quy
mơ lớn tồn quốc, trên cơ sở chủ nghĩa tư bản - nhà nước, thì khi ấy ¯ xin thứ
lỗi cho cách diễn đạt của tôi ¯ tất cả những con chủ bài đều nằm trong tay
công nhân và sẽ bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội được củng cố” [1, Tr.252].
Ba là: thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, nhà nước vơ sản Nga có
thể tăng cường quan hệ giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động qua
việc phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động và do đó tăng cường
trao đổi sản phẩm giữa cơng nhân và nơng dân. “áp dụng một cách có
chừng mực và thận trọng, chính sách tơ nhượng nhất định sẽ giúp chúng ta
cải thiện được nhanh chóng (đến một mức độ nào đó khơng cao lắm) tình
trạng sản xuất, đời sống của công nhân và nông dân; dĩ nhiên là phải có
một vài hy sinh, là thả cho tư bản hàng chục triệu pút sản phẩm vô cùng
quý báu”. [1, Tr.270].
Bốn là: thông qua sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước mà chống được
chủ nghĩa quan liêu. “ ở nước ta, nguồn gốc kinh tế của chủ nghĩa quan liêu
lại thuộc loại khác, ấy là tình trạng riêng rễ, tình trạng phân tán của sản xuất
nhỏ,, cảnh khốn cùng của họ, tình trạng dốt nát của họ, tình trạng khơng có
đường sá, nạn mù chữ, tình trạng khơng có sự trao đổi giữa công nghiệp và
công nghiệp…”[1,Tr.277].
Năm là: thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp công nhân có
thể học được cách quản lý và tổ chức nền sản xuất lớn đại cơng nghiệp cơ khí.
“Người cộng sản không được sợ “học” các chuyên gia tư sản, kể cả những
thương gia, những nhà tư bản nhỏ tham gia hợp tác xã và các nhà tư bản
khác. Học tập những người đó dưới một hình thức khác, nhưng căn bản cũng
vẫn theo cách các đồng chí ta đã học tập các chuyên gia quân sự. Chỉ cần
dùng kinh nghiệm thực tiễn để kiểm tra kết quả của việc “học tập” ấy, hãy
làm tốt hơn các chuyên gia tư sản làm việc bên cạnh mình; hãy biết dùng
cách này hay cách khác mà đẩy mạnh nông nghiệp, công nghiệp lên, mà phát
triển sự trao đổi giữa nông nghiệp và công nghiệp. Chớ nên suy tính về “học
phí”, chớ có sợ phải trả đắt, miễn là thu được kết quả tốt” [1, Tr.259].
Sáu là: thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước giai cấp cơng nhân có thể
sử dụng những nhà tư sản phục vụ cho chủ nghĩa xã hội bằng những biện
pháp thoả hiệp hoặc chuộc lại đối với những nhà tư sản văn minh (tức là
những nhà tư sản có khả năng thoả hiệp theo chủ nghĩa tư bản nhà nước, tỏ ra
có ich dối với giai cập vơ sản vì họ là những người có khả năng tổ chức và có
kinh nghiệm trong các xí nghiệp hết sức to lớn) trả cho bọn tư sản một mức
giá cao. “Không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những
phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, khơng có một tổ chức nhà nước có
kế hoạch khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết sức nghiêm
ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân phối sản
phẩm, thì khơng thể nói đến chủ nghĩa xã hội được….Đồng thời nếu khơng có
sự thống trị của giai cấp vô sản trong nhà nước thì cũng khơng thể nói đến
chủ nghĩa xã hội được: đó cũng là một điều sơ đẳng.” [1, Tr.253].
Tóm lại Lênin đã khẳng định vai trò to lớn và tầm quan trọng đặc biệt
của chủ nghãi tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước Nga Xơ viết lúc bấy giờ. “... Bởi vì chủ nghĩa xã hội khơng phải là cái
gì khác hơn là một bước tiến liền ngay sau chế độ độc quyền tư bản - nhà
nước.... Chủ nghĩa tư bản độc quyền - nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy
đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc
thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa
xã hội thì khơng có một nấc nào ở giữa cả” [1, Tr.27-28]. “Đứng trên ý
nghĩa vật chất, kinh tế, sản xuất mà xét thì chúng ta còn chưa tiến đến
“phòng chờ” của chủ nghĩa xã hội, và nếu khơng đi qua “phịng chờ” mà
chúng ta chưa đạt tới ấy thì ta khơng thể vào của chủ nghĩa xã hội được,
chẳng lẽ điều đó khơng rõ [1, Tr.256-257].
2.2. Các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước
2.2.1. Hình thức tơ nhượng
Trước khi đi vào tìm hiểu hình thức tơ nhượng chúng ta cần hiểu: Tơ
nhượng là gì? Để trả lời câu hỏi này, Lênin đưa ra rất nhiều quan niệm. Sau
đây là một số quan niệm tiêu biểu:
Theo Lênin: Tô nhượng là sự hợp đồng giữa người Xô Viết và nhà
nước tư bản. Lênin viết: “Tơ nhượng là gì? Đó là một giao kèo, một sự liên
kết, một sự liên minh giữa chính quyền nhà nước Xô Viết, nghĩa là nhà nước
vô sản, với CNTB nhà nước, chống lại thế lực tự phát triển tư hữu (có tính
chất gia trưởng và tiểu tư sản“ [1, Tr.269].
Trong một bài diễn văn, Người lại viết: Về các tô nhượng và về sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản, tơ nhượng là gì? Là hợp đồng giữa nhà nước và
một nhà tư bản, người này cam kết tổ chức hoặc hoàn thiện sản xuất (chẳng
hạn như đẵn và chở gỗ, khai thác than, dầu lửa, khoáng sản, .v.v...), trả cho
nhà nước một phần sản phẩm sản xuất ra, và nhận một phần khác dưới danh
nghĩa là lãi.
Như vậy, Tơ nhượng là hình thức giản đơn nhất, lành mạnh nhất, rõ
ràng nhất: “So với những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước
trong lòng chế độ Xơ Viết thì chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tơ
nhượng có lẽ là hình thức đơn giản nhất, lành mạnh nhất, sáng tỏ nhất, có
hình thù rõ rệt nhất”. [1, Tr.270].
Song, Tô nhượng được tiến hành như thế nào? Theo Lênin để tiến hành
tô nhượng phải có một số nguyên tắc.
Một là: Phải đảm bảo đời sống cải thiện đời sống cho công nhân:
Theo Lênin: Các xí nghiệp tơ nhượng phải trả lương cho cơng nhân của
mình trên mức bằng cơng nhân ở nước Nga: Người nhận tơ nhượng có trách
nhiệm cải thiện đời sống cơng nhân trong xí nghiệp tơ nhượng (so với những
cơng nhân khác của xí nghiệp cùng loại ở địa phương) sao cho đạt tới mức
sống trung bình của nước ngoài.
Bên cạnh việc trả mức lương ổn định như trên thì các xí nghiệp tơ
nhượng phải ln có sự thay đổi trong việc trả lương sao cho mức lương mà
người công nhân được trả phải phù hợp với năng suất lao động của người
công nhân, phải phù hợp với các tư liệu tiêu dùng phục vụ đời sống của họ.
Tức là khi giá cả hàng hoá trên thị trường mà tăng thì phải tăng lương. Đồng
thời, có tính đến năng suất lao động thấp của cơng nhân Nga, do đó có thể xét
lại mức năng suất lao động của người cơng nhân Nga tuỳ theo tình hình cải
thiện sinh hoạt của họ.
Mặt khác, theo Lênin: xí nghiệp tơ nhượng nếu có bán các hàng cần
thiết phục vụ sinh hoạt của cơng nhân thì chỉ được bán với mức giá hợp lý
không được vượt hơn quá nhiều so với giá trị của nó. Lênin viết: Người nhận
tơ nhượng phải nhập từ nước ngồi vào cho cơng nhân các xí nghiệp tơ
nhượng những hàng cần thiết cho đời sống của họ, giá bán hàng này khơng
cao hơn giá thì cơng thêm một tỷ lệ phần trăm nhất định về tạp phí.
Hai là: Khi trả lương cho công nhân phải trên cơ sở năng suất lao động
của Nga lúc đó: Vấn đề trả lương cho cơng nhân ở các xí nghiệp tơ nhượng
phải trả bằng ngoại tệ, bằng phiếu đặc biệt hay bằng tiền Xô Viết... sẽ quy
định theo sự thoả thuận riêng cho từng hợp đồng. Không những thế ở vấn đề
này Lênin cịn đưa ra quan điểm cần phải có những mức lương khác nhau
giữa các lao động có trình độ chun mơn khác nhau. Và cụ thể mức lương đó
như thế nào là do sự thoả thuận giữa người chủ xí nghiệp tơ nhượng với người
cơng nhân trong xí nghiệp đó. Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất,
về trả lương cho các công nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoài
được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng với những
loại cơng nhân viên nói trên. Bởi vì, như chúng ta đã biết, con người là trung
tâm của mọi thành công của công việc, công việc thành công phần lớn là do
người tiến hành cơng việc đó. Ngay từ khi nước Nga vừa giành được chính
quyền Lênin đã rất quan tâm đến việc sử dụng người lao động, sử dụng cơng
nhân trong q trình xây dựng, phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước
có nền tiểu nơng sản xuất lên chủ nghĩa xã hội. Lênin cho rằng cần phải đào
tạo đọi ngũ cán bộ đảng viên và khơng ngừng nâng cao trình độ cho họ về tất
cả các mặt. Đồng thời cần phải sử dụng chuyên gia tư sản. Theo Lênin:
“Dùng đến chuyên gia tư sản để cày bừa đất đai sao cho khơng bao giờ cịn
có một giai cấp nào có thể mọc lên được trên đất đai ấy cả”. (Tác phẩm
“Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xơ Viết, Nxb Sự thật, Hà Nội
1963, [1, Tr.270]..
Và theo Lênin sau khi đã lôi kéo được chuyên gia tư sản và sử dụng họ
thì cần phải có cách quản lý, sử dụng họ, đồng thời cần phải trả cho họ một
mức lương thích hợp cao hơn so với những cơng nhân trung bình. Tinh thần ấy
Lênin thể hiện: “Giờ đây, chúng ta buộc phải dùng đến phương pháp cũ,
phương pháp tư sản và bằng lương trả một giá rất cao những “công tác phục
vụ” của những chuyên gia tư sản xuất sắc nhất”. (Tác phẩm “Những nhiệm vụ
trước mắt của chính quyền Xô Viết”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1963, Sđd, tr 218).
Tất cả những quan điểm trên được Lênin thực hiện trong q trình
phát triển kinh tế Liên Xơ khi vừa giành được chính quyền từ tay chính phủ
Nga hồng.
Ba là: Khi thực hiện tô nhượng phải tôn trọng, tuân thủ theo pháp luật
về đạo luật, về điều kiện lao động khi tuyển dụng, kỳ hạn trả lương; phải đảm
bảo môi trường, môi sinh khi khai thác tài nguyên; không có hành động chống
phá nhà nước. Lênin viết: Người nhận tơ nhượng phải tơn trọng pháp luật của
nước cộng hồ liên bang chủ nghĩa Xô Viết Nga, chẳng hạn các đạo luật về
điều kiện lao động, về kỳ hạn phát lương, phải ký hợp đồng với các cơng
đồn (nếu người nhận tơ nhượng u cầu thì chúng ta đồng ý sẽ ghi thêm là
trong hợp đồng đó, định mức của một cơng nhân trung bình ở Mỹ hoặc Tây
Âu, là nước bắt buộc với cả 2 bên.
Người nhận tô nhượng phải nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc
khoa học và kỹ thuật phù hợp với pháp luật của nước Nga và của nước ngoài
(mỗi hợp đồng sẽ quy định cụ thể. Theo sự thoả thuận với các cơ quan chính
phủ của nước Cộng hồ Liên bang Xơ - Viết Nga, có thể cho người nhận tơ
nhượng quyền mời những chun gia có trình độ cao trong số công nhân Nga;
các điều kiện tuyển dụng, trong từng trường hợp, phải được sự đồng ý của các
cơ quan chính quyền trung ương.
2.2.2. Hình thức hợp tác xã
Lênin quan tâm nhiều đến vấn đề hợp tác xã và đặc biệt trong chính
sách kinh tế mới-NEP, theo Lênin việc thực hiện chính sách hợp tác xã có ý
nghĩa đặc biệt: Tơi thấy hình như chúng ta khơng chú ý đầy đủ đến chế độ
hợp tác xã, chưa chắc mọi người người đều hiểu được rằng sau cách mạng
tháng Mười và khơng vì NEP (trái lại về mặt này, phải nói: “Chính vì có
NEP), chế độ hợp tác xã ở nước ta có ý nghĩa hồn tồn đặc biệt.
Vậy, hợp tác xã là gì? Theo Lênin: hợp tác xã cùng là một hình thức
của chủ nghĩa tư bản nhà nước nhưng lại ít đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt,
phức tạp hơn. Lênin nêu: “Các hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ
nghĩa tư bản nhà nước nhưng lại ít đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn,
phức tạp hơn và vì thế (trong thực tế), nó đặt chính quyền Xơ Viết trước
những khó khăn lớn hơn”. ( T43, Tr 271).
Hợp tác xã cũng giống như nhà nước ở chỗ tạo điều kiện cho sự kiểm
kê, kiểm soát: “Chủ nghĩa tư bản hợp tác xã giống chủ nghĩa tư bản nhà
nước ở chỗ nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự kiểm kê, kiểm soát, theo dõi, cho
những quan hệ đã ghi trong hợp đồng giữa nhà nước (ở đây là nhà nước Xô
Viết) với nhà tư bản”. (T43, Tr 272).
Theo Lênin hợp tác xã có 2 loại: Hợp tác xã tiêu dùng và hợp tác xã sản
xuất.
Thứ nhất: Hợp tác xã sản xuất. Theo Lênin thì hợp tác xã sản xuất là
kiểu tổ chức sản xuất của những người tiểu nông, thợ thủ công liên kết, liên
doanh với nhau để sản xuất. Lênin viết: Các hợp tác xã sản xuất giúp cho tiểu
công nghiệp phát triển; ngành này sẽ tăng số lượng sản phẩm cần thiết cho
nơng dân, phần lớn các sản phẩm này khơng địi hỏi phải chuyên chở đi xa
bằng đường sắt, hay phải có các nhà máy to lớn.
Thứ hai: Hợp tác xã tiêu dùng là kiểu tổ chức của những người công
nhân, nông dân nhằm cung cấp và phân phốii những sản phẩm cần thiét cho
họ. Lênin viết: Hợp tác xã tiêu dùng là sự tập hợp công nhân và nông dân
nhằm mục đích cung cấp và phân phối những sản phẩm cần thiết cho họ.
Đồng thời Các hợp tác xã này bảo đảm việc phân phối sản phẩm một cách
nhanh chóng, đúng đắn và rẻ tiền.
+ Lênin đã so sánh hình thức tơ nhượng và hợp tác xã là những hình
thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Thứ nhât: Tiêu chí của Tô Nhượng: Tô nhượng dựa trên cơ sở nền sản
xuất phát triển cao, đại cơng nghiệp cơ khí: “Tơ Nhượng dựa trên cơ sở đại
cơng nghiệp cơ khí”.
Mối quan hệ: hình thức tơ nhượng: Ở đây là quan hệ giữa nhà nước vô
sản với nhà nước tư bản “Trong mỗi hoạt động tô nhượng, tô nhượng chỉ
quan hệ đến độc một nhà tư bản hay độc một hãng, một xanh-đi-ca, các tên,
tơ-rớt thơi”
Ở hình thức Tơ nhượng thì hợp đồng có thời gian chính xác: “ Tơ
nhượng thì cho phép và thậm chí nhất thiết phải có một hợp đồng chính xác
và một thời hạn chính xác”.
Thứ hai: Tiêu chí của hợp tác xã:
“Hợp tác xã dựa trên cơ sở nền tiểu sản xuất thủ công mà một bộ phận
thậm chí cịn óc tính chất gia trưởng, chế độ hợp tác xã dực trên cơ sở tiểu
công nghiệp, trên nền sản xuất thủ công”..
Mối quan hệ: Trong chế độ hợp tác xã có quan hệ với hàng ngàn, hàng
triệu tổ chức, hợp tác xã: “Hợp tác xã bao gồm hàng ngàn, thậm chí hàng
triệu tiểu nghiệp chủ” .
Ở hợp tác xã khơng có hợp đồng ,khơng có thời gian: “Hợp tác xã thì
khơng có hợp đồng và khơng cũng khơng có thời hạn thật là chính xác.
Lênin cho rằng việc thủ tiêu một đạo luật về hợp tác xã thì đơn giản
hơn so với việc bãi bỏ hợp đồng tơ nhượng; cịn việc giám sát một kẻ tô
nhượng lại dễ hơn giám sát các xã viên hợp tác xã.
“Thủ tiêu một đạo luật về hợp tác xã dễ hơn rất nhiều so với việc bãi
bỏ một hợp đồng tô nhượng nhưng bãi bỏ hợp đồng tơ nhượng có nghĩa là
lập tức và đơn giản cắt đứt ngay những quan hệ thực tế của sự liên kết kinh tế
hay sự “chung sống” về mặt kinh tế với nhà tư bản; trái lại khơng có sự thủ
tiêu một đạo luật nào về hợp tác xã và khơng một đạo luật nào nói chung có
thể cắt đứt ngay được chẳng những sự chung sống thực tế của chính quyền
Xơ Viết với các nhà tư bản nhỏ, mà nói chung, cịn khơng thể cắt đứt được
các mối quan hệ kinh tế hiện có.
Giám sát một kẻ tơ nhượng là việc dễ nhưng giám sát các xã viên hợp
tác xã là một việc khó
Bên cạnh đó, Lênin cịn nói về việc chuyển từ tơ nhượng lên chủ nghĩa
xã hội là chuyển từ một hình thức đại sản xuất này sang hình thức đại sản xuất
khác, cịn chuyển từ hợp tác xã lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ nền sản xuất
nhỏ lên nền sản xuất lớn hơn.
“Chuyển từ chế độ tô nhượng lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ một
hình thức đại sản xuất này sang một hình thức đại sản xuất khác. Chuyển từ
chế độ hợp tác xã của những nhà sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội là chuyển
từ tiểu sản xuất sang đại sản xuất, nghĩa là một bước quá độ phức tạp hơn
nhưng nếu thành cơng, lại có thể bao gồm được những khối quần chúng nhân
dân đông đảo hơn, nhổ được những gốc rễ sâu xa hơn, dai dẳng hơn của
những quan hệ cũ tiền xã hội chủ nghĩa, thậm chí tiền tư bản, là những quan
hệ phản kháng mọi sự “đổi mới” một cách kịch liệt hơn”(T43, tr 273).
Về vai trị: Chính sách tơ nhượng và chính sách hợp tác xã sau khi
thắng lợi đều đem lại những thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ quá độ của nước
Nga:“Chính sách tô nhượng, một khi thắng lợi, sẽ đưa lại cho chúng ta một
số ít xí nghiệp lớn kiểu mẫu - kiểu mẫu so với những xí nghiệp của chúng ta ngang trình độ của chủ nghĩa tư bản tiên tiến hiện đại, mấy chục năm nữa,
những xí nghiệp ấy sẽ hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của chúng ta”; “Chính
sách hợp tác xã một khi thành cơng, sẽ giúp cho nền kinh tế nhỏ phát triển và
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ quá độ - trong một thời hạn
không nhất định - lên nền đại sản xuất trên cơ sở tự nguyện kết hợp
2.2.3. Hình thức “đại lý uỷ thác”
Đây là hình thức sử dụng các nhà tư bản thương nghiệp với tư cách là
nhà buôn và trả cho họ một mức hoa hồng nhất định để bán sản phẩm của nhà
nước, mua sản phẩm của người sản xuất hàng hoá nhỏ. Lênin viết: “Bây giờ
chúng ta xét hình thức thứ ba của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nhà nước lôi
cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn, trả cho họ một số tiền hoa hồng
để họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ”
2.2.4. Hình thức “cho thuê”
Nhà nước cho tư bản thương nghiệp thuê xí nghiệp, một vùng mỏ, một
khu rừng, một khu đất... để cho họ tổ chức sản xuất kinh doanh và hoạt động
giống như hợp đồng tô nhượng. Lênin viết: “Hình thức thứ tư, nhà nước cho
một nhà kinh doanh - một tư bản thuê một xí nghiệp hoặc một vùng mỏ, một khu
rừng, khu đất...; ở đây, hợp đồng cho thuê giống hợp dồng tô nhượng hơn cả ”.
Ngồi các hình thức trên đây, Lênin cịn nêu lên một số hình thức khác
nữa của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Trong báo cáo tại đại hội IV- Quốc tế
cơng sản, khi nói về cơng ty hợp danh trong lĩnh vực thương nghiệp theo thể
thức: tiền vốn một phần là của tư bản tư nhân, tư bản nước ngoài một phần là
của nhà nước Xơviết. Lênin viêt: “Cịn về thương nghiệp, tôi cần nhấn mạnh
thêm rằng chúng tôi đang cố gắng lập ra những công ty hợp doanh, và chúng
tôi cũng đã bắt đầu thành lập rồi; đó là những cơng ty mà tiền vốn một phần
là của tư bản tư nhân, ngoài ra của tư bản nước ngoài, và một phần là của
chúng tôi. Như thế, một là, chúng tôi học tập làm công tác thương nghiệp ─
điều mà chúng tôi cần đến, ─ và hai là, chúng tôi vẫn có khả năng, khi thấy
cần thiết, thủ tiêu một cơng ty như vậy được, mà có thể nói là khơng sợ có gì
nguy hiểm cho chúng tơi cả. Ngược lại, chúng tôi học tập được nhà tư bản tư
nhân, chúng tơi cố gắng tìm hiểu xem phải làm thế nào cho có thể tiến lên, và
xem mình đã phạm những sai lầm gì. Tơi nghĩ có thể chỉ cần nói như thế cũng
là đủ” .
KẾT LUẬN
"Bàn về thuế lương thực" đã có một ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với
những người cộng sản và nhân dân lao động nước Nga hồi bấy giờ. Nó đã làm
rõ tồn bộ chính sách kinh tế mới trong giai đoạn nước Nga chuyển từ thời
chiến sang thời bình, trong đó chủ yếu là chính sách lương thực và việc sử
dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước và các thành phần kinh tế khác, coi đó là
những biện pháp quá độ, những mắt xích trung gian để chuyển sang CNXH,
là phương thức để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất ở Nga.
Trong quá trình nghiên cứu tư tưởng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư
bản nhà nướctrong thời kỳ quá độ đã giúp em nhận thức rõ hơn về bản chất,
vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước và vận dụng tư tưởng này vào thực tiễn
Việt Nam trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước là hoàn toàn đúng đắn
và sáng tạo.
Qua thực tiễn gần 30 năm cho thấy: kinh tế tư bản nhà nước có vai trị
quan trọng trong việc động viên tiềm năng về vốn, công nghệ, khả năng tổ
chức quản lý... của các nhà tư bản, vì lợi ích của công cuộc xây dựng XHCN.
Trong thời gian tới chúng ta cần phát triển đa dạng các hình thức tư bản nhà
nước, nhằm tạo thế và lực cho doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng cường
sức hợp tác và cạnh tranh với khu vực và thế giới. Cần cải thiện môi trường
đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
Đồng thời phải bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động trong các xí
nghiệp hợp tác liên doanh với nước ngồi. Chúng ta không thể đi lên CNXH
nếu bỏ qua thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa tư bản
nhà nước đã được Đảng ta nhận thức và nhất quán vận dụng trong suốt gần 30
năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên để hướng chủ nghĩa
tư bản nhà nước đi đúng hướng quỹ đạo XHCN thì rất cần vai trị quản lý
kinh tế của nhà nước.