Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (982.89 KB, 75 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, do kiến thức cá nhân về đối tượng còn ít,
hơn nữa đây là một đối tượng nuôi mới, việc bố trí thí nghiệm đang ở giai đoạn thử
nghiệm. Vì vậy, tôi gặp rất nhiều khó khăn trong khi thực hiện. Tuy nhiên, với sự
giúp đỡ tận tình của:
- Thầy Nguyễn Đình Trung, bộ môn môi trường, Khoa NTTS, trường
ĐH Nha Trang, đã hướng dẫn, góp ý hết sức nhiệt tình.
- Th.s Phùng Bảy, phó phòng sinh học thực nghiệm, Viên nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản III, đã tiếp nhận, hướng dẫn tôi cụ thể về khâu kỹ thuật tiến
hành thí nghiệm trong suốt thời gian làm đề tài.
- Các anh, chị kỹ sư phòng sinh học thực nghiệm, Viên nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản III, cũng rất nhiệt tình giúp đỡ về khâu kỹ thuật suốt quá trình
thí nghiệm.
- Các bạn sinh viên thực tập tại viện, trong thời gian qua đã giúp đỡ tôi
rất nhiều trong việc tìm đề tài, bố trí thí nghiệm.
Nhờ những sự giúp đỡ nhiệt tình này, tôi đã hoàn thành đúng hạn đề tài và
đạt được thành công bước đầu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả các cá nhân, tập thể đã ủng hộ
và giúp đỡ tôi trong thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Nha Trang, tháng 06 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Đoàn Trần Tấn Đào
TÓM TẮT
Để góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững của nghề nuôi hầu, nâng cao
chất lượng và số lượng con giống trong sản xuất giống nhân tạo, việc nghiên cứu
i
để chọn ra mật độ và độ mặn nuôi phù hợp cho hầu giống tam bội hầu Thái Bình
Dương (Crassostrea gigas Thunberg, 1793) là rất cần thiết. Thí nghiệm đã được
tiến hành trongthời gian 50 ngày với 4 nghiệm thức khác nhau về mật độ nuôi từ
nghiệm thức 1 đến nghiệm thức 4 lần lượt là 3 con/L, 6 con/L, 9 con/L, 12 con/L


và 4 nghiệm thức độ mặn là 15 ppt, 20

ppt, 25

ppt, 30

ppt. Số lần lặp lại là 3. Tổng
số đơn vị thí nghiệm là 24. Thí nghiệm được bố trí trong các xô nhựa 10 L với thể
tích nước 8 L. Nước biển sử dụng được lọc sạch với độ mặn 30 – 33 ppt, pH 7,5 –
8,5; nhiệt độ 23 – 30
o
C và sục khí 24/24 giờ. Thí nghiệm được tiến hành khi hầu
giống đạt kích thước về chiều cao 2,00 – 2,50 mm và 1,00 – 1,75 mm. Thức ăn là
tảo Isochrysis galbana và hỗn hợp tảo biển. Mật độ tảo trong suốt quá trình nuôi
được tăng dần theo kích thước và ngày tuổi của hầu giống.
Kết quả cho thấy: Hầu giống nuôi ở các độ mặn khác nhau thì tăng trưởng
về kích thước khác nhau. Sau 50 ngày nuôi, hầu giống nuôi ở độ mặn 25 ppt đạt
kích thước cao nhất (21,90 0,805 mm về chiều dài, 26,00 0,170 mm về chiều
cao) và có sự khác biệt có ý nghĩa (P < 0,05) với các lô nuôi ở độ mặn 15 ppt; 20
ppt; 30 ppt. Kích thước trung bình ở lô 20 ppt và 30 ppt (tương ứng chiều cao
22,38 0,159 mm; 17,04 0,357 mm; chiều dài 18,90 0,233 mm; 13,80

0,544 mm). Ở khoảng độ mặn từ 15 – 30 ppt tỷ lệ sống đều đạt 100%.
Mật độ nuôi ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của hầu. Trong 10
ngày đầu hầu nuôi ở mật độ 3 con/L đạt kích thước lớn nhất, thấp nhất ở mật độ 12
con/L. Từ ngày thứ 11 trở về sau ta nhận thấy rõ khi nuôi ở mật độ càng cao thì
tăng trưởng của hầu càng giảm, hầu ở mật độ 3 con/L tăng trưởng nhanh, đạt kích
thước lớn nhất (chiều cao 33,92 0,244 mm, chiều dài 28,53 0,182 mm), tỷ lệ
sống đạt 100%. Ngược lại, kích thước thấp nhất ở mật độ nuôi 12 con/L (chiều cao
ii

11,1 mm, chiều dài 9,97 mm), tỷ lệ sống 82,50%. Kích thước trung bình ở mật độ
6 con/L và 9 con/L tương ứng chiều cao 27,67 0,254 mm, 17,33 0,291 mm;
chiều dài 19,49 0,306 mm, 13,60 0,331 mm với tỷ lệ sống 98,89% và 92,96%.
MỤC LỤC
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH
v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TĂT
TBD : Thái Bình Dương.
cvt : cộng tác viên.
NT : Nghiệm thức.
NTTS : Nuôi trồng thủy sản.
TN : Thí nghiệm.
DGR : Tốc độ tăng trưởng bình quân.
vi
MỞ ĐẦU
Vùng biển nước ta có 11 loài hầu. Trong đó, có những loài có giá trị kinh tế
lớn như: Hầu cửa sông (C. rivularis), hầu sú (S. cucullata), hầu đá (O. glomerata),
hầu dày vảy (O. denselamellosa), Từ lâu, nhân dân ta đã biết bỏ đá nuôi hầu như
bãi hầu ở bãi giữa sông Gianh – Quảng Bình. Theo chủ trương của Tổng Cục Thủy
sản, hầu đã là đối tượng nuôi hàng đầu của nghề nuôi hải sản nước ta.
Hầu Thái Bình Dương (C.gigas) không phân bố tự nhiên ở Việt Nam.
Nhưng, vì đây là loài có tốc độ sinh trưởng nhanh, kích thước lớn hơn so với nhiều
loài hầu khác, có khả năng chống chịu tốt với điều kiện môi trường. Vì vậy, năm
2005, nước ta đã tiến hành nuôi thử nghiệm, năm 2008 nghiên cứu sản xuất giống
và nuôi thương phẩm. Kết quả, năm 2008 – 2009, đã nghiên cứu sản xuất thành
công giống hầu Thái Bình Dương cho năng suất, chất lượng, tỷ lệ thịt/vỏ cao, cung
cấp cho các cơ sở nuôi từ 100 đến 120 triệu con hầu giống/năm. Cũng theo đà phát

triển đó, năm 2008, Trung Tâm Khuyến Nông – Khuyến Ngư quốc gia, đã cấp kinh
phí thực hiện dự án “ Nhập công nghệ hầu tứ bội thể để sản xuất hầu tam bội thể ”.
Cơ quan tiếp nhận công nghệ là: Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản III, Công
Ty Nuôi Trồng Thủy Sản và Thương Mại Viễn Thành. Đề tài được thực hiện trên
đối tượng: hầu C. gigas và một số đối tượng hầu khác. Tuy nhiên, những nghiên
cứu về loài hầu này rất còn hạn chế ở Việt Nam.
Nhằm tìm hiểu một số đặc điểm sinh thái làm cơ sở đưa loài hầu này vào
nuôi phổ biến ở Việt Nam nên tôi đã chọn đề tài: “Ảnh hưởng của độ mặn, mật độ
nuôi đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của hầu giống tam bộ Thái Bình Dương
(Crassostrea gigas Thunberg, 1793)”, làm đề tài tốt nghiệp. Với các nội dung:
1
 Ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của hầu giống
tam bội Thái Bình Dương (C. gigas).
 Ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của hầu giống
tam bội Thái Bình Dương (C. gigas).
Mục tiêu đề tài:
 Hiểu thêm đặc điểm về sinh thái, sinh trưởng của loài hầu
Crassostrea gigas.
 Tìm ra độ mặn, mật độ ương nuôi thích hợp nhất, góp phần hoàn thiện
quy trình sản xuất giống nhân tạo loài hầu này trong kỹ thuật ương giống.
2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Tình hình nghiên cứu và nuôi hầu trên thế giới:
1.1. Một số đặc điểm sinh họchầu Thái Bình Dương (Crassostrea
gigas).
1.1.1. Chu kỳ vòng đời:
Hình 1.1. Chu kỳ vòng đời của hầu
3
1.1.2. Hệ thống phân loại:
Hầu Thái Bình Dương được Thunberg phân loại vào năm 1793 và được sắp

xếp như sau:
Ngành Mollusca
Lớp Bivalvia
Bộ Anisomyarya
Họ Ostreidae
Giống Crassotrea
Loài Crassostrea gigas (Thunberg, 1793)
1.1.3. Đặc điểm phân bố:
 Phân bố thẳng đứng:
Hầu có phương thức sống bám cố định trên những vật bám cứng như: đá, vỏ
động vật thân mềm khác,…trong vùng trung triều và vùng hạ triều đến độ sâu vài
mét nước. Chúng thiên về những vùng nước lợ cửa sông hay những vùng duyên
hải gần bờ. Các loài hầu khác nhau có phân bố thẳng đứng khác nhau như loài hầu
vảy đáy Ostrea denselamellosa là loài sống ở vùng nước sâu, trong khi đó loài hầu
sú O. cucullata lại sống vùng bãi triều. Hầu cửa sông phân bố vùng trung triều cho
tới độ sâu -10m nước [5]. Hầu Thái Bình Dương thuộc họ Crasstreoidae, phân bố
rộng khắp thế giới từ hàn đới, ôn đới tới nhiệt đới, đâu đâu cũng có dấu vết của
chúng. Do khả năng thích ứng với điều kiện sống của mỗi loài khác nhau nên phân
bố của chúng cũng khác nhau. Đứng về mặt yêu cầu sinh thái học chúng ta chia
làm 2 loại phân bố: Phân bố địa lý và phân bố thẳng đứng.
4
 Phân bố địa lý:
Hầu có phân bố địa lý tương đối rộng: Từ 14 – 40 vĩ độ Bắc đến 107 – 124
kinh độ Đông. Diện tích phân bố rộng hay hẹp chủ yếu được quyết định bởi hai
yếu tố nhệt độ và nồng độ muối. Đa số các loài hầu có phạm vi phân bố rộng,
chúng có mặt khắp nơi trên thế giới từ hàn đới, ôn đới đến nhiệt đới. Ví dụ: Hầu
Châu Âu O. edulis phân bố ven biển Nauy đến Maroc, qua Địa trung hải vào đến
Biển Đen. Hầu Mĩ Crassostrea virginica phân bố dọc biển Đại Tây Dương từ New
Brunswich (Canada) xuống đến vịnh Mexico. Loài O. lurida phân bố từ Alaska
xuống bến Baja, California, nhưng tập trung nhiều nhất tại Oregon và Washington.

Hầu Crassostrea angulata có nguồn gốc từ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Maroc.
Được du nhập và nuôi nhiều ở Pháp, Nhât, Đài Loan. Tại châu Á cũng có một số
loài hầu phân bố như loài Saccostrea cucullata (hầu nắp) thường gặp ở Ma-lai-si-a,
Thái Lan, Indonesia. Hầu C. belcheri và C. iredalei phân bố nhiều ở các nước khu
vực Đông Nan Á như: Ma-lai-si-a và Việt Nam ( Gosling, 2003). [15]
Hầu Thái Bình Dương (C. gigas) là loài bản địa của Đông Bắc châu Á như
Nhật Bản nhưng được di chuyển và lan rộng ra nhiều quốc gia như Pháp, Trung
Quốc (du nhập vào đầu và cuối những năm 70 của thế kỉ 20), Anh, bờ biển phía
Tây của nước Mĩ (vào những năm 1950) và hiện nay chúng được nghiên cứu để du
nhập và phát triển nuôi tại bờ Đông, Ca-na-da, Brazil, Hàn Quốc, Úc (những năm
1960), Niu-di-lân vì mục đích nuôi và vì sự phát tán ngẫu nhiên của những tàu
buôn lớn. Cho nên có thể nói, hầu Thái Bình Dương là loài phân bố toàn cầu.
Riêng ở vùng biển Việt Nam, có hơn 20 loài hầu khác nhau. Tuy nhiên, loài
hầu được nuôi phổ biến nhất là hầu cửa sông C. rivularis và hầu ống hay hầu Thái
Bình Dương C. gigas. [16]
5
 Vị trí phân bố:
Phân bố vùng cửa sông, eo, vịnh, đầm, phá nơi nước lưu thông, ít sóng gió.
 Điều kiện môi trường:
Hầu là loài rộng muối và rộng nhiệt, thích ứng với độ mặn: 5 – 30 ppt, nhiệt
độ: 7 – 35
o
C, pH: 7,5 – 8,5.
 Chất đáy:
Hầu có thể phân bố nơi đáy cứng là rạng đá hay đáy mềm là cát bùn, cát bùn
pha lẫn vỏ thân mềm, san hô.
1.1.4. Đặc điểm hình thái:
Cơ thể hầu được bao bọc bởi hai vỏ cứng chắc. Vỏ trái lớn hơn và thường
bám vào nền đá, có dạng hình chén. Vỏ phải nhỏ và phẳng. Đỉnh vỏ ở phía trên và
có bản sừng gắn giữa hai vỏ. Vỏ hầu có 3 lớp: lớp sừng ngoài mỏng, dễ bóc và cấu

trúc hoàn toàn bằng protein. Lớp giữa dày nhất là tần đá vôi với cấu trúc gồm
carbonate calcium kết tinh gắn chắc trên thể protein. Lớp trong cùng mỏng, bóng
sáng và rất cứng là tầng xà cừ.
Hình dạng của vỏ rất khác nhau phụ thuộc vào môi trường sinh sống. Nếu
hầu sống riêng rẽ trên nền đáy mềm thì vỏ nhẵn và kéo dài. Nếu phân bố trên nền
đáy cứng, vỏ có hình ống, nhăn, vỏ trái tròn hơn và lõm sâu. Khi hầu phân bố tập
trung, vỏ có hình dạng méo mó. Thông qua hình dạng vỏ hầu có thể xác định được
trạng thái của chất đáy. Hầu sống ở độ mặn cao có vỏ cứng hơn ở vùng có độ mặn
thấp.
6
1.1.5. Phương thức sống:
Phương thức sống của hầu thay đổi theo giai đoạn phát triển của cơ thể.
Ấu trùng phù du sống trôi nổi:(giai đoạn này bắt đầu từ lúc trứng thụ tinh
đến khi chuẩn bị chuyển sang ấu trùng bò lê). Ấu trùng hầu có khả năng bơi lội
nhờ vào hoạt động của vành tiêm mao hay đĩa bơi, thời kỳ này dài hay ngắn phụ
thuộc vào nhiệt độ nước. Theo Byung Ha Park và ctv (1998) khi nghiên cứu về hầu
Thái Bình Dương tại Hàn Quốc cho thấy tại nhiệt độ 19 – 20
o
C thì giai đoạn phù
du của hầu kéo dài 3 tuần và nhiệt độ 27
o
C là 10 ngày.
Trưởng thành sống bám cố định: Ấu trùng bò lê nếu gặp được vật bám phù
hợp như đáy cứng, đá, vỏ động vật thân mềm, san hô chết…, hầu sẽ tiết ra tơ chân
để bám và sau đó nó sẽ tiết ra các keo dính để cố định vỏ trái trên vật bám, chân
mất đi thể (sống cố định trong suốt đời sống của chúng). Giai đoạn này thường kéo
dài từ 1 – 2 ngày.
1.1.6. Đặc điểm dinh dưỡng:
Những hiểu biết về nhu cầu dinh dưỡng của các loài hai mảnh vỏ có giá trị
kinh tế cao còn rất hạn chế (Raimbailt, 1966; lubet, 1987; Morton, 1983). Hiện

nay, chúng ta vẫn còn phải chấp nhận trong việc xác định nhu cầu dinh dưỡng cũng
như khả năng cung cấp các chất dinh dưỡng cho các loài hai mảnh vỏ (Galtsoff,
1942).
Các nghiên cứu được thực hiện gần đây trên vẹm Mytilus edulis (Jensen,
1981) hầu C. gigas (Lebesnerais, 1985; Boucaud – camon et al, 1985), điệp Pectin
maximus (Boucaud, 1986) cho thấy: Vị trí của enzyme trong tế bào là tương tự
nhau giữa các loài. Theo Palm (1979) hoạt động của emzym lipid trong ống tiêu
hóa của hầu được phát hiện ở dạng tinh thể lỏng.
7
 Thức ăn: Thức ăn của hầu thay đổi khác nhau tùy thuộc vào phương
thức sống của từng giai đoạn.
• Giai đoạn sống trôi nổi: Thức ăn của ấu trùng ở giai đoạn này
thường là các loại thực vật phù du có kích thước nhỏ bé (2 – 8 micromet) như
nannochloropsis, Isochrysis, Chaetocesros, Pavlov, chlorella, Cryptomonas,
Monas, Platymonas, Trong sản xuất giống nhân tạo, vấn đề thức ăn là một vấn đề
cần được chú trọng và nghiên cứu sâu hơn nữa.
• Giai đoạn trưởng thành: Theo kết quả nghiên cứu thức ăn của hầu
người ta thấy rằng: Thức ăn của hầu gồm có sinh vật phù du, mùn bã hữu cơ và
những chất hòa tan trong nước như: Aminoaxit, muối khoáng (đặc biệt là các muối
canxi rất cần thiết cho sự hình thành vỏ). Thực vật phù du (phytoplankton) chủ yếu
là tảo silic: Melosira, Coscinodiscus, Navicula, Nitzchia, chaetoceros, Biddulphia,
Skeletonema, Cyclotella, Rhizosolema, Thalassiotrix… Động vật phù du
(zooplankton) bao gồm ấu trùng giun nhiều tơ, Copepoda nhỏ, Rotifer và các loại
ấu trùng Copepoda, Polychaeta.
 Phương thức bắt mồi:
Yonge (1926) đã nghiên cứu mô tả hình thái cấu tạo của mang và quá trình
vận chuyển thức ăn của hầu (Ostrea).[3]
Morton (1983) cho rằng hệ tiêu hóa của hầu được cấu tạo bởi các ống có các
gờ nhỏ có chức năng đẩy thức ăn từ dạ dày vào các ống tiêu hóa. Ngoài ra, hệ tiêu
hóa còn được được cấu tạo bỡi hệ thống tiêm mao có chức năng đẩy các chất thải

trong dạ dày ra ngoài theo hướng ngược lại. Các nghiên cứu về hóa sinh và tế bào
của Morton (1983) đã cho phép định nghĩa về bản chất, vị trí hoạt động của
enzyme trong ống tiêu hóa của hầu. Cũng nghiên cứu về vấn đề này Vương Như
Tài, Vương Thiệu Bình, Trương Kiến Trung (1962) xác định rằng: trong ống dẫn
của túi tiêu hóa ở hầu, ngoài các men xúc tác tinh bột, men xúc tác đường còn có
men xúc tác albumim, men tiêu hóa mỡ làm nhiệm vụ tiêu hóa và các tế bào nuốt
8
làm nhiệm vụ tiêu hóa trong tế bào. Ngoài ra, túi tiêu hóa còn có chức năng hấp thụ
chất đinh dưỡng. [6]
Hầu là loài sống bám cố định. Vì vậy, chúng có phương thức bắt mồi bị động
theo hình thức lọc nhiều lần (Chestinnt, 1946) không có khả năng chọn lọc thức ăn
về chất nhưng có khả năng chọn lọc kỹ càng thức ăn theo kích thước lớn nhỏ. Hầu
bắt mồi trong quá trình hô hấp dựa vào cấu tạo đặc biệt của mang. Khi hô hấp,
nước có trong mang theo thức ăn qua bề mặt mang, các hạt thức ăn được giữ lại ở
mang nhờ các tiêm mao và dịch nhờn dược tiết ra nhờ các tiêm mao. Các hạt thức
ăn có kích thước nhỏ sẽ được dịch nhờn của các tiêm mao quấn dần về phía miệng,
còn hạt thức ăn quá lớn tiêm mao không giữ được sẽ bị dòng nước cuốn đi khỏi bề
mặt mang, sau đó tập trung ở mép màng áo và bị màng áo đẩy ra ngoài. Mặc dù
hầu bắt mồi thụ động nhưng cách bắt mồi như vậy chúng có thể chọn lọc thức ăn
theo kích thước (FAO, 2003).
Quá trình chọn lọc thức ăn được thực hiện bốn lần theo phương thức trên:
Lần thứ nhất xảy ra trên mang, lần thứ hai xảy ra trên đường vận chuyển, lần thứ
ba xảy ra trên xúc biện, lần thứ tư xảy ra tai manh nang chọn lọc thức ăn. Thức ăn
sau khi được chọn lọc bởi manh nang chọn lọc thức ăn, được đưa trở lại dạ dày để
tiêu hóa. Tại đây, nó được tiêu hóa một phần tác dụng của men tiêu hóa tiết ra từ
manh nang. Sau đó, thức ăn được chuyển đến manh nang tiêu hóa và tiếp tục được
tiêu hóa nhờ men tiêu hóa do manh nang tiêu hóa tiết ra. Cuối cùng thức ăn được
tiêu hóa tại ruột, các chất dinh dưỡng sẽ hấp thụ. Còn chất cặn bã sẽ bị đưa ra
ngoài cơ thể qua hậu môn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cường độ bắt mồi của hầu là thủy triều, lượng

thức ăn, độ pH và các yếu tố môi trường khác (nhiệt độ, nồng độ muối ).
9
Khi thủy triều lên, cường độ bắt mồi tăng, ngược lại khi triều cường xuống
thì cường độ bắt mồi giảm.
Trong môi trường có nhiều có nhiều thức ăn thì cường độ bắt mồi thấp và ít
thức ăn thì cường độ bắt mồi cao. Khi các yếu tố môi trường (nhiệt độ, nồng độ
muối…) trong khoảng thích hợp thì cường độ bắt mồi cao và khi các yếu tố môi
trường ngoài khoảng thích hợp thì cường độ bắt mồi thấp (FAO, 2007). Khi nhiệt
độ nước 10 – 15
o
C hầu bắt mồi mạnh nhất, trong mùa sinh sản nhiệt độ nước tương
đối cao, hầu bắt mồi yếu. Nói chung, lượng nước lọc của hầu khoảng 1 – 1,25 L/h,
trong một thời gian ngắn có thể lọc được 31 – 34L/h bằng 1500 lần khối lượng của
nó [6].
Độ pH của nước biển có ảnh hưởng đến hoạt động bắt mồi của hầu. Khi pH
từ 7,00 – 7,50 cường độ lọc nước bình thường, từ 6,75 – 7,00 cường độ lọc nước
tăng nhưng khi pH giảm dưới 6,50 thì cường độ lọc giảm xuống, khi pH ở 4,14
lượng nước lọc chỉ còn 10% mức bình thường (Loosanoff, 1948) [6].
Khi phân tích thức ăn của hầu tại vùng Hạ Môn (Trung Quốc), Kim Đức
Cường (1937 – 1957) đã thống kê được 85 loài tảo silic thuộc 34 giống, một số tảo
biển dạng sợi, trâm xương của Hải Miên và hữu Khổng trùng. [6]
1.1.7. Đặc điểm sinh trưởng:
Hầu là loại động vật thân mềm chỉ sinh trưởng trong một giai đoạn nhất định
khi còn non, sau khi trưởng thành rồi thì hầu không lớn lên được nữa. Trong năm
đầu tiên, hầu sinh trưởng nhanh về kích thước, năm thứ hai và thứ ba sinh trưởng
nhanh về khối lượng. Từ năm thứ tư trở đi thì tốc độ tăng trưởng giảm [5].
Hầu Thái Bình Dương có tốc độ tăng trưởng nhanh (có thể sinh trưởng hơn
75 mm trong vòng 12 tháng đầu tiên). Tuy nhiên, tại vùng nước Wadden Sea (Đan
10
Mạch), hầu có thể sinh trưởng đạt 100 mm sau 12 tháng nuôi đầu tiên. Loài hầu

này có thể sống tới 10 năm và đạt kích cỡ trung bình khoảng 150 – 200 mm
(Spencer, 2002). [2]
Sự sinh trưởng của hầu phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh. Trong đó, nhiệt
độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của hầu. Theo Byung Ha
Park và ctv (1998) khi nghiên cứu về hầu Thái bình Dương tại Hàn Quốc cho thấy:
nhiệt độ, thức ăn và độ mặn là các yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự
sinh trưởng phát triển của ấu trùng. Ở vùng nhiệt đới có nhiệt độ ấm, tốc độ sinh
trưởng của hầu rất nhanh và quá trình sinh trưởng diễn ra quanh năm. Thí dụ loài
hầu Crassostrea paraibanensis có thể đạt chiều cao 15 cm trong một năm
(Singaraja, 1980). Ở vùng ôn đới, quá trình sinh trưởng diễn ra trong mùa xuân –
hè, mùa thu – đông hầu gần như không sinh trưởng. Khi nhiệt độ thấp, hầu sinh
trưởng và biến thái chậm dù thời gian phù du kéo dài. Ở nhiệt độ 19 – 20
o
C, giai
đoạn phù du của hầu kéo dài khoảng 3 tuần, ở nhiệt độ 27
o
C là 10 ngày. Độ mặn
trong giai đoạn này có thể giao động từ 14 – 37 ppt nhưng thích hợp nhất là 15 –
25 ppt. Sự sinh trưởng của hầu còn phụ thuộc vào mật độ, ở Venezuela hầu trong
các đầm nước lợ thì chậm lớn vì mật độ quá cao, nhưng trong điều kiện nuôi thì
chúng đạt 6 cm trong vòng không đầy 6 tháng. Tốc độ sinh trưởng của hầu cũng
khác nhau tùy theo loài và vùng phân bố, do điều kiện môi trường nước của từng
vùng khác nhau và do đặc tính riêng của từng loài (yếu tố di truyền). Một đặc điểm
nổi bật của hầu vùng nhiệt đới là sinh trưởng rất nhanh trong 6 – 12 tháng đầu tiên
sau đó chậm dần.
1.1.8. Đặc điểm sinh học sinh sản:
 Giới tính: Có 3 dạng là đực, cái, lưỡng tính. Giới tính của chúng thay
đổi trong vòng đời. Đối với hầu Thái Bình Dương, chúng là loài lưỡng tính có yếu
tố đực chín trước. Chúng thường tham gia sinh sản đầu tiên là con đực, sau đó
chuyển thành con cái. Các yếu tố môi trường, đặc biệt là thức ăn có thể ảnh hưởng

11
đến giới tính của hầu. Trong điều kiện dồi dào thức ăn, chúng có xu hướng chuyển
giới tính từ con đực sang con cái, ngược lại trong điều kiện thức ăn hạn chế hay tập
trung thành từng quần thể với mật độ quá lớn thì toàn bộ đàn hầu là con đực. Một
số ít cá thể lưỡng tính.
 Tuổi thành thục: Hầu Thái Bình Dương (C. gogas) tham gia sinh sản
lần đầu sau khoảng 1 năm kích thước 70 – 100 mm, một con hầu cái có thể sinh
sản ra 50 – 100 triệu trứng trong một lần đẻ. Quá trình thụ tinh diễn ra trong môi
trường nước và phải mất khoảng 10 – 15 phút sau khi đẻ trứng ở nhiệt độ 25
o
C
(Nimpis, 2002; Reise, 1998).
 Phương thức sinh sản: Tùy loài mà hình thức sinh sản khác nhau.
Giống Crassostrea và Saccostrea thì đẻ trứng và tinh trùng ra môi trường nước, quá
trình thụ tinh và phát triển ấu trùng diễn ra trong nước. Đối với nhóm Ostrea thì
quá trình thụ tinh và phát triển ấu trùng diễn ra bên trong màng áo của cơ thể mẹ
đến giai đoạn diện bàn, hoặc muộn hơn mới ra khỏi cơ thể mẹ.
 Mùa vụ sinh sản: Ở vùng nhiệt đới, hầu sau một năm đã thành thục
và tham gia sinh sản. Mùa vụ sinh sản xảy ra quanh năm, nhưng có hai mùa đẻ rộ:
Vụ 1 từ tháng 4 – 6 và vụ 2 từ tháng 8 – 10 hàng năm. Mùa vụ sinh sản ở vùng
nhiệt đới thường ít tập trung và kéo dài hơn so với vùng ôn đới.
 Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của hầu: Quá trình
sinh sản của hầu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: nhiệt độ, thức ăn, tỷ trọng nước,
độ mặn, …Tuy nhiên, yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất đó là nhiệt độ.
Theo Byung Ha Park và ctv (1998) nghiên cứu sự thành thục của hầu Thái
Bình Dương (C. gigas) tại Hàn Quốc cho thấy: Yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
sự thành thục là nhiệt độ. Nhiệt độ tăng cao thì thời gian chín của tuyến sinh dục
càng rút ngắn. Còn theo thí nghiệm của Loosanoff về ảnh hưởng của nhiệt độ đến
sự phát triển của tuyến sinh dục hầu Mỹ C. virginica cho thấy ở nhiệt độ 10
o

C thì
sau 35 ngày hầu mới thành thục nhưng tỉ lệ thành thục ít, muốn tuyến sinh dục chín
12
mùi thì nhiệt độ thấp nhất là 15,8
o
C. Ở 20 – 25
0
C, sau 5 ngày, hầu đã thành thục
nhưng tỉ lệ đẻ thấp chỉ đạt 24%. Ở 30
o
C chỉ sau 3 ngày, hầu đã thành thục và cho tỷ
lệ sinh sản cao. Theo kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả thì các loài hầu khác
nhau nhiệt độ nước cần cho quá trình sinh sản cũng khác nhau: hầu dài C. gigas
trên 25
o
C còn hầu C. virginikca là từ 17 – 20
o
C (Spencer, 2002), Ostrea echinata
trên 28
o
C, hầu Ấn Độ C. cucullata từ 17 – 18
o
C, C. denselamellosa từ 21 – 23
o
C,
hầu vịnh Đại Liên Crassostrea talienwhanesis từ 20 – 27
o
C, Nói chung, nhiệt độ
nước có quan hệ chặt chẽ với sự thành thục sinh dục, phóng tinh và đẻ trứng của
hầu.

Ngoài ra, hoạt động sinh sản của hầu còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi
trường như:
Tỷ trọng của nước biển nằm trong khoảng 1.020 tới 1.030 kg/m³ tại bề mặt,
còn sâu trong lòng đại dương áp suất cao, nước biển có thể đạt tỷ trọng riêng tới
1.050 kg/m³ hay cao hơn. Tuy nhiên, tỷ trọng nước thích hợp nhất cho sinh sản của
hầu là 1.008 – 1.018 kg/m
3
. Tỷ trọng nước này đạt được vào lúc triều cường, mùa
trăng. Khi quan sát trên hầu Ostrea edulis ở nam nước Anh, Orton (1936) thấy
phần lớn chúng đẻ trứng vào lúc triều cường, trăng tròn mùa hè. Theo Ariatai và
Rai (1931), tháng 3 đến tháng 6 là mùa đẻ chính thức của hầu Ấn Độ Crassostrea
cucullata, đến tháng 7 gió mùa Đông Bắc hoạt động làm tỷ trọng nước biển giảm
là nguyên nhân làm hoạt động đẻ trứng của hầu dừng lại, từ tháng 10 đến tháng 2
năm sau có hiện tượng đẻ trứng bất thường không theo quy luật.[6]
Độ mặn: Có quan hệ chặt chẽ đến sinh sản của hầu. Độ mặn cũng chịu ảnh
hưởng riêng lẻ cùng với nhiệt độ và thức ăn đồng thời ảnh hưởng đến sự thành thục
của tuyến sinh dục. Tuy nhiên, khi nhiệt độ thích hợp và hầu đã thành thục nhưng
độ mặn chưa thích hợp thì hầu vẫn chưa sinh sản rộ. Khí hậu vùng nhiệt đới quanh
năm thích hợp cho hầu Ấn Độ Crassotre cuculata sinh sản nhưng ở Ấn Độ hầu này
chỉ đẻ từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau; còn tháng 7 – 8 tuy tuyến sinh dục thành
13
thục nhưng vẫn không đẻ vì lúc đó mùa mưa, độ mặn giảm không thích hợp cho
sinh sản của nó. Ở nước ta, hầu cửa sông (C. rivularis) sinh sản từ tháng 4 – 9,
trong các tháng này hầu đẻ rộ nhất vào thời kỳ nhiệt độ nước cao nhất trong toàn
năm (trung bình 30
o
C) nhưng độ mặn lại thấp nhất toàn năm (trung bình 5 – 10
ppt).
Thức ăn: Trong môi trường giàu dinh dưỡng thì khả năng tích lũy glucogen
tăng, do đó sự tích lũy noãn hoàng trong trứng của hầu cũng tăng. Vì vậy, hầu

thành thực sớm và có khả năng sinh sản tốt hơn. Ngược lại, trong môi trường
nghèo dinh dưỡng, khả năng thành thục sinh dục và sinh sản của hầu sẽ kém đi.
Thủy triều: Đa số hầu sinh sản mạnh vào lúc triều cường, nước lên.
1.2. Vai trò của hầu:
1.2.1. Vai trò của hầu trong tự nhiên:
Trong môi trường tự nhiên hầu có 2 đặc tính quan trọng đó là:
 Lọc sinh học (Biofilter): Theo nghiên cứu của Yonge (1962) về hình
thành cấu tạo của mang và vận chuyển thức ăn của hầu (Ostrea) có thể nhận thấy:
Trong quá trình lọc thức ăn hầu đã góp phần làm môi trường nước trong sạch [3].
Trong tự nhiên, 1 m
2
hầu phân bố lọc được 280 m
3
nước/ngày và mỗi cá thể hầu
lắng 1,0875 g bùn/ngày. [12]
 Loài chủ chốt (Keystone spicies): Ở góc độ toàn cầu, hầu là loài sinh
vật có vai trò quan trọng trong việc duy trì tính đa dạng sinh học và sự thành công
của một chuỗi hệ sinh thái đại dương. Chúng là vật mồi để duy trì sự cân bằng giữa
một số loài trong tự nhiên. [12]
1.2.2. Vai trò dinh dưỡng của hầu:
Hầu là loài có giá trị dinh dưỡng cao. Thịt hầu chứa 45 – 75% protein, 7 –
11% lipid, 19 – 38% glucid. Ngoài ra, thịt hầu còn chứa nhiều Vitamin A, B
1
, B
2,
D
và E. Hàm lượng iod trong thịt hầu so với sữa bò và lòng đỏ trứng cao gấp 200 lần.
Nước chiết hầu tươi gọi là sữa bò trong biển sau khi cô đặc gọi là “dầu hầu”. [6]
14
Thành phần dinh dưỡng trong 100g phần thịt ăn được của hầu (Crassostrea

sp): [15]
• Calories 6g
• Chất đạm 9g
• Carbohydrate 4,8g
• Chất béo tổng cộng 2,1g
• Cholesterol từ 100 – 250 mg (tùy loài)
• Nhiều Vitamin: A, B
1
, Riboflavine, B
6
, E, Biotin, B
12
, D
• Nhiều chất khoáng
• Thành phần acid béo Omega – 3: EPA 536 mg, DHA 584 mg
Hầu còn được coi là “thực phẩm thuốc”: Thịt hầu rất bổ dưỡng, có tính chữa
bệnh và phòng trừ chứng truyền nhiễm đối với bệnh nhân phổi, còi xương, người
có thai, sản phụ, có tác dụng giảm stress, bổ não,chống béo phì, nhồi máu cơ tim,
giúp phát triển chiều cao ở trẻ, bổ sung nguồn dinh dưỡng cần thiết cho người già,
thiếu sinh lực,…Vỏ hầu không những dùng làm nguyên liệu nung vôi mà còn là bài
thuốc để chữa bệnh ợ chua, bệnh phù nhũng, bệnh cảm cúm. Hầu là loài hai mảnh
vỏ được nhiều người thích ăn tươi sống, nướng, chế biến thành các mặt hàng đông
lạnh, đóng hộp, phơi khô, làm mắm xuất khẩu. [13]
1.3. Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo:
Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo có thể được xem như là giải pháp hoàn
hảo để chủ động cung cấp nguồn giống ngoài tự nhiên bị mất đi do khai thác, đồng
thời cung cấp giống cho người nuôi, phục vụ xuất khẩu, giải quyết công ăn việc
làm, góp phần xóa đói giảm nghèo cho các ngư dân ven biển,… (Nguyễn Thị Xuân
Thu, 2005).
Năm 1879, Brook đã cho hầu đẻ thành công và nuôi được ấu trùng bơi lội tự

do. Sau đó, cũng có nhiều nghiên cứu tiến hành ương nuôi ấu trùng hầu trong
phòng thí nghiệm, nhưng mãi đến năm 1920, Wells mới thành công trong kỹ thuật
ương nuôi ấu thể spat [1].
Dựa trên cơ sở các nghiên cứu về đặc điểm sinh sản của hầu, nhiều phương
pháp kích thích sinh sản đã được sử dụng trong sinh sản nhân tạo hầu. Phương
15
pháp kích thích nhiệt là phương pháp đầu tiên và được sử dụng phổ biến nhất.
Ngoài ra, còn có một số phương pháp khác như xử lý bằng hóa chất: dung dich
ammonium hydroxine, H
2
O
2
, xử lý bằng tia cực tím kết hợp với nước chảy, phương
pháp tiêm serotonin (5 hydrotriptoamine) vào cơ thể để kích thích hầu đẻ nhanh là
phương pháp có hiệu quả được áp dụng để cho hầu sinh sản phổ biến hiện nay [6].
Để làm cơ sở cho việc sử dụng vật bám trong sản xuất nhân tạo cũng như cải
tiến phương pháp thu giống ngoài tự nhiên, Latama (1996) đã sử dụng những vật
liệu sẵn có, rẻ tiền như thanh tre và tấm ximent để thu giống hầu S. cucullata tại
Indonesia. Kết quả cho thấy: Hầu bám trên tấm ximent nhiều hơn so với thanh tre.
Năm 2000, Yulianda và Atmadtipura đã kết luận rằng độ gồ gờ và loại của vật bám
có ảnh hưởng đến mật độ bám của giống hầu Crassostrea sp. Thí nghiệm của họ
cho kết quả là hầu bám nhiều hơn trên những vật bám là những viên đá có bề mặt
gồ gờ hơn vật bám là những vỏ sò [1].
Theo Jones (1988), một chi tiết rất quan trọng liên tới việc vận chuyển ấu
trùng để cho bám ở những vùng không có khả năng xây dựng trại sản xuất hầu
giống là: Ấu trùng điểm mắt của hầu Thái Bình Dươn (C. gigas) có thể giữ trong
điều kiện độ ẩm và nhiệt độ 5
o
C trong thời gian hàng tuần vẫn có thể bám tốt.
Trong nghiên cứu của Tan và Wong (1995) tại Hồng Kông, cũng đã kết luận rằng:

Ấu trùng điểm mắt của hầu C. belcheri chỉ có thể giữ tốt trong vòng 12 giờ ở nhiệt
độ 15
o
C. Ứng dụng những thành tựu đó, Mỹ và Malaysia đã xây dựng những trại
giống có công xuất lớn tạo ra ấu trùng hầu điểm mắt, cung cấp cho các cơ sở cho
bám và nuôi hầu thương phẩm trong nước hay xuất khẩu ra nước ngoài [1].
1.4. Nghiên cứu sản xuất hầu bám đơn:
Theo phương pháp sản xuất giống truyền thống thì khi ấu trùng hầu chuyển
sang giai đoạn hậu ấu trùng đỉnh vỏ, lúc này thả vật bám (vỏ hầu, vỏ sò, dây
bám…) để thu giống. Tuy nhiên, những vật bám này sẽ gây ra hiện tượng bám
chùm, hầu bám không đều hoặc bám chồng lên nhau, làm cho hoạt động vận
16
chuyển và nuôi hầu gặp nhiều khó khăn, không chủ động được mật độ nuôi, hầu
chặm lớn, lớn không đều nhau, chất lượng và giá trị không cao.
Để khắc phục được những đặc điểm trên, người ta đã nghiên cứu ra phương
pháp sản xuất giống hầu bám đơn. Ấu trùng được nuôi đến giai đoạn hậu ấu trùng
đỉnh vỏ rồi dùng bột vỏ hầu, vỏ điệp, các hạt có kích thước 300 – 500 µm cho ấu
trùng spat bám vào và thu được con giống dạng bám đơn. Ngoài ra, tại một số cơ
sở nghiên cứu sản xuất hầu giống tam bội, tứ bội ở Mỹ và Canada, người ta đã
dùng hóa chất Epinephrine để tiêu hủy tuyến tiết chất bám vào vật bám cứng của
hầu, tạo thành những con hầu giống đơn, giúp ích nhiều cho nuôi thương phẩm. Tại
Úc, còn có phương pháp tạo giống hầu đơn bằng cách cho ấu trùng bám vào những
tấm nhựa hình gợn sóng, đợi đến khi con giống lớn lên đạt kích thước khoảng 50
mm, người ta uốn cong tấm nhựa lúc này con giống rời ra tạo thành con giống đơn
[12]. Cùng với phương pháp cho hầu bám vào bột vỏ hầu, ở Mỹ, Úc, Pháp còn
dùng phương pháp kích thích hầu xuống đáy mà không cần bám bằng LHG khi hầu
ở giai đoạn đỉnh vỏ (FAO, 2003).
Ưu điểm của hầu bám đơn:
• Đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng: Thịt hầu bám đơn sau 8 – 12 tháng
tuổi có vị béo, mùi thơm, thịt nhiều, màu sắc đẹp, kích thước vừa phải, đồng cỡ,

hình dạng bên ngoài gọn đẹp, hấp dẫn bắt mắt khi trình bày trên bàn tiệc.
• Tiết kiệm chi phí vận chuyển: nhờ vỏ mỏng nên việc vận chuyển hầu
đơn ít tốn kém, tiết kiệm được 15 – 20% chi phí so với hầu bám chùm. Lợi ích này
càng rõ rệt khi vận chuyển hầu sống nguyên con bằng phương tiện hàng không.
• Giảm tỷ lệ hao hụt khi khai thác còn 3 – 5%: Hầu đơn thương phẩm
khắc phục được tính trạng ghè tách trong khai thác, theo số liệu thống kê đối với
hầu bám tỷ lệ hao hụt qua ghè tách là khoảng 40 – 50% [12].
1.5. Nghiên cứu tạo giống đa bội thể:
17
Vấn đề nghiên cứu tạo giống đa bội thể một số loài động vật thân mềm
(ĐVTM) hai mảnh vỏ, đã được bắt đầu từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Xuất phát từ
việc kích thích cho đẻ bằng các phương pháp sốc hoặc xử lý hóa chất, đã tạo ra sự
biến đổi đặc biệt: Một số đặc tính di truyền đem lại những kết quả bất ngờ về sức
sống và khả năng sinh trưởng (hầu tam bội mất đi khả năng sinh sản, sinh trưởng
nhanh, thịt nhiều, khả năng chống chịu bệnh tốt và có độ béo quanh năm). [10]
Vào những năm 1980 – 1982, các nhà khoa học cổ truyền thuộc đại học
Washington và trường Maire đã nghiên cứu thành công việc dùng các tác nhân vật
lý và hóa học để tạo thể tam bội ở hầu, với kết quả đạt được 80% thể tam bội trong
một triệu trứng sinh ra [1].
Chaiton và Allen (1985) đã xử lý trứng thụ tinh sau 10 phút của hầu Thái
Bình Dương (C. gigas) ở áp suất 6000 – 8000 atmosphere trong thời gian 10 phút.
Kết quả đạt được 57% tam bội thể. [1] Cũng trên loài hầu này, Quillet và Panelay
(1986) đã dùng phương pháp nhiệt để gay đột biến. Trứng sau khi thụ tinh 10 phút,
được xử lý nhiệt 30 – 38
o
C trong 10 – 20 phút. Kết quả đạt được tỷ lệ hầu tam bội
thể cao nhất (50 – 60%) là ở nhiệt độ 35 – 38
o
C. [10]Ngoài ra, với việc dùng các
tác nhân hóa học 6 – DMAP gây đột biến đa bội trên hầu Thái Bình Dương (C.

gigas) cho ra kết quả là 90% cá thể hầu tam bội.
Một cách để gây đột biến tam bội (3N) đem lại hiệu quả tương đối cao là
dùng Cytochalasin B (CB). Hòa tan CB trong dung dịch Dimethylsulphoxide 0.1%
ở nồng độ 1 mg CB trong 1 L dung dịch. Ngâm trứng đã thụ tinh sau 15 – 20 phút
trong dung dịch trên khoảng 20 phút. Kết quả đạt được 50 – 100% tam bội thể.
Hiện nay, phương pháp này được sử dụng phổ biến trong việc sản xuất giống tam
bội thể ở các trại giống. [10]
18
Năm 1993, các khoa học thuộc trường đại học Rutgers do tiến sĩ Ximing
Guo (Trung Quốc) và tiến sĩ Stan Allen (Mỹ) chủ trì, đã phát minh ra một loại hình
đa bội thể mới và sau đó xây dựng thành công nghệ hầu tứ bội 4N (Tetraploid
technology). Cốt lỗi của công nghệ này nhằm tạo ra đàn hầu bố mẹ tứ bội trong tế
bào chứa 4 bộ NST (4n) có khả năng giao phối bình thường với hầu lưỡng bội (2n)
thiên nhiên để tạo ra hầu tam bội (3n) mất khả năng sinh sản, mập quanh năm [11].
Năm 1996, Guo đã thông báo kết quả trong việc nghiên cứu lai tạo giữa hầu nhị
bội thể và tứ bội thể. Tất cả các phép lai đã tạo ra dạng hầu tam bội thể có tỷ lệ
sống tương tự như dạng nhị bội thể nhưng sau 8 – 10 tháng nuôi hầu có kích thước
lớn hơn dạng nhị bội thể 14 – 51% [6]. Guoelal (1996) đã so sánh tỷ lệ tạo tam bội
(3n) khi sử dụng hóa chất Cytochalasin B (CB) và phép lai giữa dạng tứ bội (4n)
với dạng lưỡng bội (2n). Kết quả đạt được 50 – 100% (70%) cá thể tam bội (3n)
khi sử dụng hóa chất CB và 100% thể tam bội khi cho lai giữa dạng tứ bội (4n) và
lưỡng bội (2n). Tương tự, khi cho hầu đực tứ bội lai với hầu cái lưỡng bội, Nell
(2002) đã cho kết quả 100% hầu tam bội. Và từ đó trở đi, việc nuôi thương mại hầu
tam bội tại bở biển phía Tây của Bắc Mỹ tăng đáng kể. Đến nay, viện công nghệ
giống Hoa Kỳ đã tạo ra được đàn hầu bố mẹ tứ bội ở 3 loài hầu đó là: C. gigas, C.
virginica, C. ariakensis. Hàng năm có thể sản xuất 10 – 15 tỷ ấu trùng điểm mắt
hầu tam bội từ tứ bội, cung cấp cho thị trường Mỹ, Canada, Pháp… [11].
Kỹ thuật sản xuất giống hầu tam bội tuy mới được nghiên cứu trong khoảng
20 năm trở lại đây, nhưng đã có nhiều thành tựu nổi bật. Hy vọng trong tương lai
sẽ tiếp tục phát triển cung cấp nguồn giống tam bội cho nghề nuôi hầu thương

phẩm.
1.6. Nuôi hầu thương phẩm:
Hầu rất có giá trị dinh dưỡng cao nên từ lâu con người đã biết khai thác hầu
làm thực phẩm và nghề nuôi hầu cũng được ra đời từ rất sớm. Trung Quốc là nước
19

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×