Nhầm lẫn hay gặp khi dùng
lạc tiên
Vị thuốc lạc tiên trong y học cổ truyền thường
dùng là bộ phận trên mặt đất của cây lạc tiên
(Passiflora foetida L.). Ở Việt Nam có tới 15
loài, trong đó chỉ có loài P.foetida được dùng
làm thuốc an thần gây ngủ. Lạc tiên là loại dây
leo bằng tua cuốn. Thân mềm tròn và rỗng, có
lông thưa. Lá mọc so le, chia 3 thùy, thùy giữa
lớn hơn hai thùy bên, mép uốn lượn có lông
mịn. Gốc lá hình tim, đầu lá nhọn. Hoa to, đều,
lưỡng tính, mọc riêng lẻ ở kẽ lá, 5 cánh, màu
trắng hoặc hơi tím. Quả mọng, hình trứng, dài
độ 3cm, bao bọc bởi tổng bao lá bắc tồn tại. Lạc
tiên mọc hoang và được trồng ở nhiều vùng
nước ta. Để làm thuốc, người ta thu hái các bộ
phận trên mặt đất, rửa sạch, phơi khô, cắt đoạn
3-5cm. Trước khi dùng sao hơi vàng, dùng dần.
Trường hợp ngủ không yên giấc: sắc riêng 20 -
40g lạc tiên khô, uống.
Lạc tiên Nam Bộ không được
dùng làm thuốc an thần.
Trường hợp tim hồi hộp, loạn nhịp, mất ngủ, lo
âu, đau đầu, choáng váng:
lạc tiên nấu thành cao lỏng với tỷ lệ 1 phần lạc
tiên 1 phần nước, pha thêm chút đường cho dễ
uống, ngày 2-3 lần, mỗi lần 50 -100ml, sau mỗi
bữa ăn và trước khi đi ngủ. Cũng có thể phối
hợp với một số dược liệu an thần khác như lạc
tiên, lá vông, lá dâu, lá sen, mỗi loại 20g, tâm
sen 4g. Sắc uống ngày một thang. Uống 2-3
tuần, tới khi các triệu chứng thuyên giảm.
- Trong dân gian, bà con ta thường thu hái quả,
rửa sạch, bổ đôi, nạo hết ruột, ép và lọc lấy dịch
quả, thêm ít nước đun sôi để nguội và chút mật
ong hoặc đường đủ ngọt để uống. Dịch quả lạc
tiên thơm, ngon, bổ, mát; thích hợp cho giải
nhiệt mùa hè. Hoặc hái phần ngọn và lá non của
lạc tiên mỗi lần khoảng 100 - 200g nấu canh ăn
giúp ngủ ngon.
Lạc tiên tây tác dụng giải
nhiệt.
Phân biệt các loại lạc tiên:
Ngoài loài lạc tiên nói trên, để tránh nhầm lẫn,
cần lưu ý tới một số loài khác cũng mang tên lạc
tiên.
Lạc tiên Nam Bộ (Passiflora cochinchinensis
Spreng) cũng là cây leo nhưng cành hơi dẹt, có
khía rãnh. Lá thuôn hẹp, gốc lá và đầu lá hơi
tròn, mép nguyên, mặt trên nhẵn, mặt dưới có ít
lông. Cụm hoa màu trắng. Quả nhỏ hình trứng
nhẵn. Cây này không được dùng làm thuốc an
thần như lạc tiên nói trên.
Lạc tiên tây (P. incarnata L.): là dây leo, dài
đến 9 - 10m. Thân có rãnh dọc, vỏ màu xám
nhạt, sau chuyển màu đỏ tía, khi non có lông
mịn. Lá mọc so le, ba thùy, mép có răng cưa, có
tua cuốn ở kẽ lá. Hoa to, màu trắng, thơm, có
cuống dài, màu tím hoặc hơi hồng. Quả hình
trứng. Khi chín có màu vàng. Quả có vị chua,
chứa vitamin. Có tác dụng bổ mát, giải nhiệt.
Lạc tiên trứng, còn gọi là dây mát (P. edulis
Sím): Là dây leo, mảnh, dài hàng chục mét.
Thân mềm, hình trụ, có rãnh dọc, nhiều lông
thưa. Lá mọc so le, chia 3 thùy, nhẵn, mép khía
răng cưa, gốc lá hình tim, có hai tuyến nhỏ, đầu
lá nhọn. Hoa mọc riêng ở kẽ lá, có cuống dài,
màu trắng. Quả mọng hình trứng, khi chín màu
da cam. Ở nước ta, dây mát mọc hoang ở vùng
Kỳ Sơn, Nghệ An. Dây mát cho quả thơm ngon,
vỏ quả chứa nhiều vitamin C, axít hữu cơ, tanin,
đường, các nguyên tố vi lượng: Si, K, P… Dịch
quả cũng chứa nhiều vitamin C, tinh dầu, axít
amin và β- caroten. Quả lạc tiên trứng được
dùng làm thực phẩm, pha chế đồ uống, đồ hộp,
bánh kẹo, kem, đồ tráng miệng sau bữa ăn và
làm thuốc bổ có tác dụng kích thích thần kinh và
giúp cho việc tiêu hóa được tốt hơn