Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Ðông dược có sử dụng chì potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182 KB, 6 trang )

Ðông dược có sử dụng chì
Thời gian gần đây, dư luận hết sức quan tâm và lo lắng về tình
trạng nhiều cháu bé và cả người lớn phải nhập viện trong tình
trạng cấp cứu với chẩn đoán là ngộ độc chì sau khi sử dụng
thuốc cam và thuốc viên đông y không rõ nguồn gốc. Thuốc
cam được dùng để bôi chữa viêm loét miệng, tưa lưỡi, hăm
mông bẹn; thuốc viên được dùng làm thuốc bổ, kích thích tiêu
hóa, chữa động kinh Vậy, một câu hỏi được đặt ra là: phải
chăng thủ phạm của tình trạng ngộ độc chì chính là các loại
đông dược này?
Một số vị thuốc khoáng vật có chứa chì
Có thể nói, từ xa xưa y học cổ truyền đã sử dụng một số vị
thuốc, chủ yếu là khoáng vật, có chứa chì để chữa bệnh, ví như :
- Duyên phấn, còn gọi là bạch phấn, là khoáng vật quặng của
chì, là một carbonat chì PbCO
3
(83,5% PbO, 16,5% CO
2
), vị
ngọt tính hàn, có độc, có công dụng tiêu tích, sát trùng, giải độc,
sinh cơ; thường được dùng để chữa cam tích (còi xương trẻ em),
hạ lỵ, đau bụng giun, sốt rét, ghẻ, nấm, nhọt độc, lở loét, viêm
niêm mạc miệng, đan độc, bỏng lửa dưới dạng tán bột mịn bôi
ngoài, nấu cao dán hoặc làm thành viên hoàn để uống trong với
liều 3 - 5 phân (0,94g - 1,5g)/ngày.
- Ô duyên, còn gọi là duyên, là sulfua chì PbS (86,6% Pb,
13,4%S), vị ngọt, tính hàn, có độc, có công dụng trấn nghịch,
nhuyễn đàm, sát trùng và giải độc ; thường được dùng để chữa
chứng đàm khí ung nghịch, thượng thực hạ hư, khí đoản suyễn
cấp (khó thở do hen suyễn), ế cách (có cảm giác vướng khi nuốt,
nuốt không trôi gây tiếng nấc), phản vị (ăn vào bụng đầy, sáng


ăn chiều mửa, chiều ăn sáng mửa), ung bướu, tràng nhạc (lao
hạch), nhọt độc, ghẻ lở dưới dạng sắc uống hoặc nung kỹ rồi
tán bột xoa ngoài hoặc làm hoàn tán.

Mật đà tăng nguyên cục
(1). Mật đà tăng tán bột
(2).

Diên đơn
(3).
Ô
duyên (4) .
- Mật đà tăng, là một thứ bột màu vàng cam đỏ, to nhỏ không
đều với thành phần chủ yếu là oxyt chì PbO, vị mặn cay, tính
bình, có độc, có công dụng tiêu thũng, sát trùng, thu liễm, bài
nùng, trừ đàm, trấn kinh; thường được dùng để chữa các chứng
bệnh như trĩ lở, thũng độc, mụn nhọt, lở loét, thấp sang, các loại
vết thương, lỵ lây ngày, kinh giản dưới dạng chế thành cao dán
ngoài hoặc tán bột uống với liều 0,5 - 1g/ngày.
- Duyên đơn, còn gọi là hồng đơn, cũng như mật đà tăng có
nguồn gốc từ sự biến chất của khoáng galen, là oxyt chì Pb
3
O
4
,
có thể viết 2PbO.PbO
2
, tỷ lệ PbO
2
là 34,9%, vị mặn, tính hàn, có

độc, có công dụng giải độc, sinh cơ, nhuyễn đàm, trấn kinh;
thường được dùng để chữa sốt rét, trĩ loét, chống co giật, kinh
giản (động kinh), lở loét sưng tấy, bỏng lửa và nước, các vết
thương xuất huyết dưới dạng hoàn tán uống hoặc thuốc sắc (ít
dùng uống vì độc), thường dùng ngoài làm cao dán nhọt, nấu với
dầu vừng và phối hợp với một số vị thuốc khác để giảm đau,
làm chóng lên da non. Y thư cổ lưu ý: không dùng hồng đơn cho
người hư yếu, và không dùng lâu (để tránh ngộ độc). Ở Trung
Quốc, hồng đơn được dùng để chữa ung nhọt, viêm loét, lở chảy
nước vàng lẫn máu, lở miệng, mắt có màng, kinh giản điên
cuồng, sốt rét, lỵ, nôn mửa dưới dạng tán thành bột mịn để bôi,
rắc hoặc nấu cao, dùng uống trong dưới dạng hoàn tán.
Ngộ độc do thiếu hiểu biết của các “lang băm”
Có thể thấy, kinh nghiệm sử dụng các khoáng vật có chứa chì để
chữa bệnh của y học cổ truyền là rất phong phú. Trên thực tế,
một số kinh nghiệm này đã được y học hiện đại nghiên cứu và
bào chế thành các loại thuốc trị bệnh rất hiệu quả và độc đáo, ví
như việc dùng mật đà tăng để chế thuốc mỡ chữa bỏng. Tuy
nhiên, khi dùng các vị thuốc này cổ nhân thường rất thận trọng
và bao giờ cũng lưu ý một số vấn đề như: (1) Đây là những dược
vật có độc; (2) Khi sử dụng phải bào chế cẩn thận; (3) Phải dùng
đúng bệnh, đúng liều và đúng liệu trình, không được dùng quá
dài; (4) Cần theo dõi sát tình trạng người bệnh và ngừng thuốc
ngay khi có các biểu hiện bất thường.
Nhưng, trên thực tế, do thiếu hiểu biết và thiếu thận trọng, các
“lang băm” và ngay cả một số ít các thầy thuốc đông y không
được đào tạo chính quy đã dùng các khoáng vật nêu trên đơn
độc hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác bào chế thành
những đông dược thành phẩm dưới dạng thuốc bột, thuốc cam,
thuốc viên với màu sắc và mẫu mã khác nhau và quảng bá là

thuốc “gia truyền” để chữa bệnh một cách tùy tiện, đưa lại
những hậu quả hết sức tai hại cho người bệnh. Điều đáng nói là
họ đã không hiểu rõ độc tính của chì, chọn nhầm dược vật, bào
chế sai quy cách, chỉ định không đúng mặt bệnh, kê đơn sai liều
lượng và liều lĩnh sử dụng cho người bệnh khi chưa được cơ
quan có thẩm quyền cấp giấy phép vì mục đích “trục lợi”.

Trên hầu hết những bệnh nhân bị nhiễm độc chì khi dùng thuốc
đông y không rõ nguồn gốc vừa qua, kết quả xét nghiệm đều cho
thấy hàm lượng chì trong máu vượt cao quá mức cho phép. Ví
như, theo Viện Hóa học thuộc Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam, chỉ tính riêng trong tháng 11/2011, đã có 15 mẫu
bệnh phẩm được gửi đến từ Bệnh viện Nhi Trung ương, Trung
tâm Chống độc Bệnh viện Bạch Mai, Khoa Nhi Bệnh viện Bạch
Mai. Kết quả phân tích cho thấy có 14 trong số 15 mẫu bệnh
phẩm thuốc cam được gửi đến có chứa hàm lượng chì từ 12,5 -
22%.
Hay như trường hợp cháu Bảo bị ngộ độc loại thuốc cam bôi
được mua từ một thầy lang trong xã, kết quả xét nghiệm của
Bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy mẫu máu có hàm lượng chì
lên đến 95 mcg/dl, cao gấp hơn 6 lần hàm lượng cho phép ở trẻ
là 15 mg/dL, thuốc bột màu cam có tới 10% hàm lượng chì.
Trường hợp ngộ độc thuốc Nam ở một phụ nữ 30 tuổi người
Nam Định đã được Trung tâm Chống độc Bệnh viện Bạch Mai
xác định: thuốc chị uống chứa lượng chì cao gấp 5.000 lần mức
cho phép. Kết quả phân tích các viên thuốc Nam này cho thấy,
chúng chứa chì đỏ (hồng đơn).
Rõ ràng, tình trạng ngộ độc đông dược nói chung và thuốc đông
y có chứa chì nói riêng đã và đang là vấn đề hết sức cấp bách,
đòi hỏi các giải pháp quyết liệt và triệt để của các cơ quan chức

năng. Không thể buông xuôi với các loại thuốc đông y “gia
truyền” không phép. Rất cần vai trò của các phương tiện thông
tin đại chúng nhằm nâng cao hiểu biết về chì và tình trạng nhiễm
độc chì do việc sử dụng các đông dược thành phẩm không rõ
nguồn gốc. Ngoài ra, cũng phải hết sức cảnh giác với tình trạng
ngộ độc chì từ không khí, nguồn nước, thực phẩm, bị ô nhiễm,
từ các vật dụng hàng ngày có chứa nhiều chì do công nghệ chế
tạo không chuẩn vì ngộ độc chì thường xuất hiện rất âm thầm,
chỉ khi nào lượng tích tụ một lượng lớn thì triệu chứng mới rõ
rệt và khi đó thì đã muộn rồi.

×