Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Đề cương LS4 kỹ năng Luật sư giải quyết vụ, việc ds

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.83 KB, 10 trang )

ÔN TẬP KẾT THÚC HỌC PHẦN LS4
KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA GIẢI QUYẾT CÁC VỤ, VIỆC
DÂN SỰ
I. ĐÁNH GIÁ CÁC ĐIỀU KIỆN KHỞI KIỆN
1. Xác định tư cách đương sự
- Đối tượng: bị đơn
- Căn cứ: mâu thuẫn tác động ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp;
CSPL: Điều 68 -74 BLTTDS 2015
2. Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án: T/c về quyền sử dụng đất/ t/c hôn nhân
& gia đình: ly hơn, ni con và chia tài sản.
3. Về điều kiện khởi kiện:
- Quyền khởi kiện: Chủ thể có quyền khởi kiện (Điều 71, 72 BLTTDS 2015), đủ đk về chủ
thể (Điều 69 BLTTDS 2015)
- Thẩm quyền của Tòa án (K1 Đ.39 BLTTDS 2015): TA nơi đặt lãnh thổ (ngoại trừ ly hơn
có yếu tố nước ngồi – TA tỉnh/TW)
- Thời hiệu KK :
+ Theo quy định tại K3 Đ.155 BLDS 2015 thì đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất
thì khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện. (đất đai)
+ Khơng có hạn chế về thời hiệu chia tài sản chung. Tuy nhiên, những tranh chấp khác
liên quan đến tài sản chung vẫn có thời hiệu khởi kiện nếu pháp luật có quy định. (ly hơn)
- Thủ tục khởi kiện: Chủ thể có đơn KK theo Điều 43 BLTTDS 2015
- Sự việc chưa được GQ bằng BA, QĐ đã có HLPL của TA.
4. Xác định yêu cầu khởi kiện
Yêu cầu bà Tám trả lại nhà và cây cối trên đất và hoa màu trên đất với 50% tổng giá trị thu
nhập cây..
- Bà H làm đơn khởi kiện ơng N ra Tịa án nhân dân Thành phố với những yêu cầu:
- Thứ nhất: Yêu cầu ly hôn với anh Nguyệt.
- Thứ hai: Yêu cầu được nuôi hai con chung
- Thứ ba: Yêu cầu chia tài sản chung là nhà đất
3. Các VBPL cần sử dụng:
- Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;


- Bộ luật dân sự 1995;
- Bộ luật dân sự 2005;
- Luật đất đai 1993;
- Pháp lệnh thừa kế 1990;
- Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định chung nhằm bảo đảm
thi hành đúng và thống nhất Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS;
4. Các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ và hợp
pháp: Đơn KK, GCNQSDĐ, Biên bản,…
II. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỎI
Dự kiến kế hoạch hỏi:


* Hỏi nguyên đơn:
- Thủ tục, trình tự đúng quy định pháp luật?
- Có mâu thuẫn phát sinh thực tế xảy ra?
- Tình trạng đất? Nguồn gốc đất?
- Tình trạng hơn nhân? Hịa giải?
* Hỏi người bị đơn:
- Khơng sống chung từ thời điểm nào?
- Có sử dụng vũ lực, lời lẽ xúc phạm?
- UBND có biết tình trạng đất?
- Thửa đất hai bên tranh chấp do ai đứng tên?
(Đối với hơn nhân có thể hỏi: làm rõ ngun nhân dẫn đến ly hôn, hỏi làm rõ yêu cầu nuôi con,
làm rõ tài sản chung của vợ chồng)
* Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Phụ thuộc vào tình tiết vụ án
III. SOẠN THẢO LUẬN CỨ BẢO VỆ
BẢN LUẬN CỨ NĐ
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Thưa vị đại diện viện kiểm sát,

Thưa luật sư đồng nghiệp và toàn thể những người có mặt trong phiên tịa ngày hơm
nay!
Tơi là Luật sư X - Văn phòng Luật sư Đ.D thuộc Đoàn Luật sư TP Hà Nội, theo yêu cầu của
nguyên đơn dân sự Nguyễn Thị Hảo và được sự đồng ý của Quý Tòa qua giấy: “Chấp nhận
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” số X ngày Y. Hơm nay, tơi có mặt tại phiên tịa ngày
hơm nay với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trong vụ án
dân sự “Tranh chấp hơn nhân và gia đình: Ly hôn, nuôi con và chia tài sản”. Qua nghiên cứu
các tài liệu, chứng cứ cùng các lời khai của các đương sự cũng như người làm chứng, căn cứ
vào việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tịa hơm nay, tơi xin trình bày bản luận cứ bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn như sau:
Thứ nhất, về yêu cầu xin ly hôn: Yêu cầu của bà Hảo là có căn cứ pháp luật cụ thể tại
Điều 51, Điều 54, Điều 56 Luật hơn nhân gia đình năm 2014. Qua các bằng chứng, lời khai
của các đương sự cho thấy tình trạng của vợ chồng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo
dài, mục đích hơn nhân không đạt được. Sau khi cưới được khoảng thời gian 02 năm thì ơng
Nguyệt và bà Hảo phát sinh mâu thuẫn do anh Nguyệt thường xuyên tụ tập ăn chơi, và đánh,
chửi mẹ con chị Hảo, vợ chồng tính tình không hợp nhau, không hợp cả về lối sống và sinh
hoạt. Khi xảy ra mâu thuẫn thì ơng Nguyệt thường đánh, chửi và đuổi chị Hảo ra khỏi nhà. Gia
đình ông Nguyệt cũng biết chuyện mâu thuẫn giữa hai người. Đồng thời, theo như lời khai của
chị Hảo và có sự chứng kiến của những người trong xóm đều chứng kiến việc anh Nguyệt
đánh, chửi mẹ con chị. Vợ chồng ông bà hiện nay đã sống ly thân nhau từ cuối năm 2014,
khơng cịn quan tâm giúp đỡ gì đến nhau, tình cảm vợ chồng khơng cịn.
Kính thưa HĐXX qua những bằng chứng xác thực nêu trên đủ để chứng minh rằng tình
trạng hơn nhân của vợ chồng bà Hảo thật sự trầm trọng, mục đích hơn nhân khơng đạt được và


khơng thể kéo dài, họ đã khơng cịn sống với nhau từ năm 2014 đến nay chính vì vậy đề nghị
HĐXX xét cho thân chủ tôi được ly hôn theo như mong muốn.
Thứ hai, về con chung: Sau ly hôn, chị Hảo yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi hai con
chung là cháu Đức Anh và cháu Nhi. Tôi đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận bởi các lý sau
đây:

Xét về điều kiện thu nhập: Hiện tại chị Hảo là công nhân tại Công ty Trấn An, đường
Ngô Quyền, Thành phố Hải Dương. Chị Hảo đã làm việc tại đây nhiều năm, công việc ổn định
với mức thu nhập bình quân hàng tháng là 5- 6 triệu đồng/ tháng. Tại địa phương nơi chị Hảo
đang sinh sống, mức thu nhập này là phù hợp so với chi tiêu bình quân hàng tháng. Còn Anh
Nguyệt chỉ là lao động tự do, công việc không thể ổn định lâu dài như chị Hảo.
Vì vậy tơi khẳng định, chị Hảo có đủ điều kiện để ni dưỡng và chăm sóc cháu Nhi, cháu
Đức Anh.
Xét về điều kiện nơi ở: Chị Hảo đang sống tại nhà mẹ đẻ - nơi ở ổn định và lâu dài. Mẹ
chị Hảo thường xuyên giúp đỡ chị chăm sóc và quan tâm các cháu. Với tình u thương của
một người bà, tôi khẳng định rằng, cháu Nhi và cháu Đức Anh sẽ có được cuộc sống ổn định
và lâu dài tại đây đồng thời cũng được tạo điều kiện tốt nhất để học tập và phát triển.
Xét về điều kiện tinh thần: Cháu Nhi là con gái, cháu đang ở tuổi phát triển nên tâm
trạng, cảm phúc có nhiều phức tạp, suy nghĩ và hành động cũng có nhiều sự thay đổi nên việc
cháu ở với mẹ là điều hoàn toàn đúng. Giữa mẹ và con gái lúc nào cũng dễ chia sẻ và tâm sự
với nhau hơn. Còn cháu Đức Anh, tuy là con trai nhưng ở nhà cũng hay chia sẻ với mẹ và
nhận được sự quan tâm của mẹ hơn là của bố. Ở cái tuổi đang lớn, chắc chắn các bé trai như
cháu Đức Anh cần nhận được nhiều sự quan tâm, dạy dỗ và uốn nắn của người mẹ để không
cảm thấy hụt hẫng và thiếu vắng tình cảm. Khi chị Hảo và anh Nguyệt còn sống chung với
nhau, chị Hảo cũng là người thường xuyên gần gũi quan tâm tới các con, đặc biệt là cháu Đức
Anh vì là con út trong gia đình. Chị hay giảng bài, hay trao đổi với cháu về tình hình học tập
trên lớp. Khi khơng còn sống chung với nhau, chị vẫn thường xuyên về gặp con, động viên
tinh thần của Đức Anh để cháu khơng bị thiếu thốn tình cảm dù cho anh Nguyệt cấm cản.
Mặt khác, anh Nguyệt là một người vô tâm. Khi cịn sống chung với nhau, anh khơng quan
tâm với vợ và các con. Khi đi chơi về lại có những lời lẽ xúc phạm và dùng vũ lực trút giận lên
vợ cũng như các con. Chưa kể đến việc, khơng cịn sống chung với nhau, anh cũng khơng quan
tâm tới các con, không thường xuyên thăm nom cháu Nhi, cấm cháu Đức Anh gặp mẹ dù biết
rằng một đứa trẻ 10 tuổi phải sống xa mẹ thì thiếu thốn tình cảm tới mức nào. Thậm chí, khi
chị Hảo về gặp con, anh lại có những hành động cấm cản thậm chí sử dụng vũ lực với Đức
Anh. Điều này chính quyền và bà con hàng xóm láng giềng đều biết và ông Đỗ Văn Tứ, cán bộ
tư pháp xã Thượng Đạt cũng đã xác nhận thực tế. Việc hành hạ con mình là khơng thể chấp

nhận được vì sẽ gây ra những tổn thương trong tâm hồn trẻ thơ mà khơng thể có cách nào hàn
gắn được. Thử hỏi, những đứa trẻ sống chung với một người bố vô trách nhiệm như vậy và lớn
lên trong một môi trường như thế liệu có phát triển được bình thường hay không?
Như vậy, nếu như anh Nguyệt được giao nuôi cháu Đức Anh thì sau khi ly hơn, quyền
được thăm nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục cháu Đức Anh của chị Hảo theo khoản 2
Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 15 Luật Trẻ em quy định:“Trẻ em có
quyền được chăm sóc, ni dưỡng để phát triển tồn diện” anh Nguyệt đã khơng đảm bảo


được việc chăm sóc và ni dưỡng để cháu Đức Anh phát triển toàn diện và đảm bảo quyền
được thăm nom của người cịn lại sau khi ly hơn.
Khi về sống chung với chị Hảo, cháu Đức Anh sẽ nhận được sự quan tâm, chăm sóc ân
cần của mẹ, của bà, hàng ngày được vui chơi, nô đùa cùng chị gái, được học tập và phát triển
trong một môi trường tràn ngập tình yêu thương – điều này rất tốt cho những đứa trẻ đang tuổi
ăn, tuổi lớn đặc biệt là những đứa trẻ phải chịu nhiều tổn thương từ nhỏ như Đức Anh. Vì vậy,
tơi khẳng định chị Hảo ni dưỡng và chăm sóc cháu Nhi, cháu Đức Anh là hoàn toàn hợp lý.
Xét về nguyện vọng của các con: về phía cháu Nhi hiện cháu đang ở với mẹ và cũng có
nguyện vọng được ở với mẹ như đã nêu tại đơn đề nghị gửi Quý tòa ngày 20/01/2016. Về phía
cháu Đức anh, cháu cũng thể hiện nguyện vọng được ở với mẹ tại biên bản lấy lời khai của
Quý tòa ngày 05/7/2016 (tại bút lục số 166) có sự chứng kiến của bà Nguyễn Thị Thoa là bà
nội của cháu.
Với các lý do đã nêu trên và xét đến quyền lợi về mọi mặt đối với con chung của ngun
đơn và bị đơn, tơi kính đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 81 Luật Hơn nhân và
Gia đình năm 2014 để giao cả hai cháu Nhi và Đức Anh cho nguyên đơn nuôi dưỡng, chăm
sóc.
Thứ ba, về tài sản chung: Về tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân do hai người cùng
đứng tên là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H497 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải
Dương, thửa số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216 m2. Căn cứ vào các chứng cứ tại bút lục số
75, 81, 83, 84, 92, 96, 97, 99, 112, 113, 121, 137, 138, 175 thì nguồn gốc đất là do gia đình
ơng Nguyệt mua từ năm 1991, sau này vợ chồng ông Nguyệt sinh sống trên phần đất này.

Vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt đã sống trên thửa đất số 496 từ sau khi kết hôn năm 1999.
Hai vợ chồng đã xây dựng một nhà lợp ngói, 1 gian bếp và nhà vệ sinh 1 giếng khơi và 1 bể
xây gạch xi măng trên thửa đất này. Đây là tài sản chung của hai vợ chồng vì:
Đầu tiên: chị Hảo và anh Nguyệt đều thừa nhận rằng anh chị được bố mẹ chồng là bà Nguyễn
Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang cho vợ chồng xây dựng nhà và công trình phụ để ra ở
riêng từ năm 1999 sau khi kết hơn. Điều này cũng đã được Ơng Đỗ Văn Tỏ là anh em trong họ
với anh Nguyệt xác nhận cùng với ông Nguyễn Văn Giới và một số thợ khác đã xây nhà và
cơng trình phụ cho hai vợ chồng năm 1999.
Hai là, tại bản xác minh ngày 9/3/2016 của TAND thành phố Hải Dương, ơng Nguyễn Văn
Bích, cán bộ địa chính xã Thượng Đạt đã xác nhận rằng thửa đất này trước đây là thùng vũng,
tại biên bản lấy lời khai của Q tịa ngày 9/3/2016, ơng Đỗ Văn Tạo là hàng xóm của hai vợ
chồng đã nêu rõ tại thời điểm năm 2002 chị Nguyệt và anh Hảo đã ở trên thửa đất được một
thời gian và khi đó diện tích thùng vũng chiếm khoảng ¾ thửa đất, ông Tạo đã giúp phun bùn
bồi lắp và đến năm 2004 có thấy hai vợ chồng tiếp tục đắp thêm cho thửa đất thùng vũng này.
Điều này cho thấy, thửa đất này được như ngày hôm nay là do công xây dựng và tôn tạo của
hai vợ chồng anh Nguyệt và chị Hảo.
Ba là, thửa đất này đã được cấp GCNQSDĐ cho hai vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt từ năm
2005 hợp pháp bởi các căn cứ sau:
+ Ngày 31/12/2005, UBND huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương đã cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 496, tờ bản đồ số 1, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt
cho chị Hảo và anh Nguyệt. Tại cơng văn ngày 10/6/2016 của Phịng Tài ngun và Môi


trường UBND Thành phố Hải Dương (bút lục số 133-134) đã xác nhận “Căn cứ theo Điều 135
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai 2003
về trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Nguyệt và chị Hảo là đúng
thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật đất đai”.
+ Tại buổi hòa giải ngày 19/5/2016 và trong phần xét hỏi tại phiên tòa hôm nay, bà
Thoa nêu rằng đã biết việc anh Nguyệt và chị Hảo được cấp GCNQSD đất từ năm 2006 đến
nay là hơn 10 năm nhưng bà Thoa khơng có ý kiến phản đối hay thắc mắc gì, khơng ai tranh

chấp gì. Đồng thời các thành viên trong gia đình bà Thoa cũng khơng có tranh chấp hay ý kiến
phản đối gì. Bên cạnh đó, tại biên bản xác minh ngày 23/6/2016 và tại phiên tịa ngày hơm nay
ơng Bích cán bộ địa chính xã Thượng Đạt xác nhận kể từ khi được cấp GCNQSDĐ đến nay
anh Nguyệt và chị Hảo sử dụng đất ổn định khơng có tranh chấp với các hộ giáp danh cũng
như với ông Cang, bà Thoa và các thành viên khác trong gia đình anh Nguyệt.
+ Theo Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao thơng
qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06
tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Khái quát nội dung của án lệ:
“Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã
xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà
thì cha mẹ và những người khác trong gia đình khơng có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người
con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho
quyền sử dụng đất”.
Các tình tiết về yêu cầu chia tài sản giữa nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án đang giải quyết ngày hơm nay có nhiều điểm tương tự giống với phần yêu
cầu chia tài sản là diện tích đất 80m2 tại xóm Vân Hịa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín tại Án
lệ số 03 với nội dung “Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo thì năm 2001 xã tổ
chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thơn xóm (bút lục số 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều
được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh
Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21-12-2001
anh Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia
Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây
thêm tum tầng 3. Ơng Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng
trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng khơng ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được
cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hơn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia
đình ơng Phác cũng khơng ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý
chí của gia đình ơng Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc
ơng Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là

khơng có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình
ơng Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở.
Do đó, việc Tịa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và
việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng khơng có chứng cứ chứng minh, để
xác định diện tích đất 80m2 tại thơn Vân Hịa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà


Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ơng Phạm Gia Phác; đồng thời buộc anh Nam, chị Hồng trả lại
đất cho gia đình ơng Phác, là khơng đúng, cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài
sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có cơng sức đóng
góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để
chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.”
Với các tài liệu và chứng cứ nêu trên cho thấy từ khi vợ chồng chị Hảo, anh Nguyệt sinh sống
trên diện tích đất 216m2 đã tôn tạo, xây dựng và đến khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho đến khi có việc ly hôn của anh Nguyệt, chị Hảo vợ chồng anh chị đã sử dụng nhà,
đất liên tục, công khai, ổn định. Vợ chồng bà Thoa và các thành viên trong gia đình đã biết về
việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 216m2 đứng tên anh Nguyệt, chị Hảo từ năm 2006
(năm 2006 anh Chuyển - em trai anh Nguyệt nhờ vợ chồng anh Nguyệt Chị Hảo thế chấp nhà
đất để vay số tiến 10 triệu đồng - Bút lục số 86) nhưng khơng ai có ý kiến phản đối và khơng
có đơn khiếu nại về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, điều đó đã thể
hiện ý chí của các thành viên trong gia đình bà Thoa là đã cơng nhận việc cho vợ chồng anh
Nguyệt - chị Hảo diện tích đất nêu trên. Do đó, việc bà Thoa, anh Nguyệt khai rằng là đất của
bà Thoa, bà khơng cho vợ chồng vì vợ chồng ly hơn là khơng có căn cứ pháp lý. Diện tích đất
và tài sản trên đất nêu trên thuộc phần tài sản chung của hai vợ chồng chị Hảo, anh Nguyệt nên
chấp thuận yêu cầu của chị Hảo được chia đơi diện tích này và chị lấy phần khơng có tài sản
trên đất và khơng u cầu gì đối với tài sản trên đất.
Từ những phân tích trên, tơi kính đề nghị HĐXX xem xét, áp dụng: Khoản 1 Điều 56, Khoản 2
Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; Điều 50 Luật Đất đai 2003 và các tình tiết trong án
lệ 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao thơng qua ngày 06 tháng 4
năm 2016 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn với bị đơn, giao quyền

nuôi hai con cho nguyên đơn; chia đôi thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 phần
khơng có tài sản trên đất cho ngun đơn.
Trên đây là những quan điểm của tôi về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử
xem xét trước khi nghị án, tôi mong rằng Hội đồng xét xử sẽ đưa ra được những phán quyết
sáng suốt, hợp tình, hợp lý.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!
ĐẤT ĐAI
Tơi là Luật sư X thuộc Văn phịng luật sư Đ.D, Đồn Luật sư thành phố Hà Nội. Hôm
nay, tôi được mời tới tham gia phiên tịa hơm nay với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho nguyên đơn là bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh trong vụ án “tranh chấp
về quyền sử dụng đất” với bị đơn là bà Đinh Thị Tám. Hôm nay, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ
vụ án và qua phần xét hỏi cơng khai tại tịa hơm nay, tơi xin phép Hội Đồng xét xử được trình
bày luận cứ bảo vệ cho nguyên đơn như sau:
Thưa Hội đồng xét xử, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua việc hỏi tại phiên tồ hơm
nay, tơi cho rằng u cầu của thân chủ tơi là hồn tồn có cơ sở, vì các lẽ sau:
Thứ nhất, bà Thanh và ông Sinh yêu cầu bà Tám trả lại phần diện tích đất tranh chấp,
cây cối hiện cịn trên đất khi bà Cúc chết để lại cho 4 chị em của ngun đơn và tháo dỡ
nhà và các cơng trình đã xây dựng trái phép trên thửa đất là có căn cứ, cụ thể:


Một là, nguồn gốc đất là thuộc quyên sở hữu của vợ chồng ông Chu Khắc Trường và bà Chu
Thị Cúc, căn cứ vào:
- Các giấy tờ liên quan như Bản đồ 1990 tờ số 03 (Bl 24), Bản đồ hiện trạng năm 1998
Tờ PL 02 (BL 21), Trích đo vị trí tranh chấp (BL 22);
- Sự thừa nhận của các đương sự thể hiện qua: Tờ trình sự việc của ông Chu Khắc Sinh
ngày 28/10/2012 theo đơn đề nghị của Tịa án (BL 04-05); Giấy giao quyền trơng nom của bà
Thanh, bà The cho ông Thuyên ngày 15/4/1994 (BL 10, 11); Biên bản lấy lời khai bà Thanh
ngày 12/11/2012 (Bl 35, 36, 37); Biên bản lấy lời khai bà Tám ngày 21/11/2012 (BL 38,
39,40); Biên bản lấy lời khai bà Loan ngày 26/11/2012 (BL 56, 57, 58); Biên bản lấy lời khai
bà The ngày 26/11/2012 (Bl 59, 60); Biên bản lấy lời khai ông Chu Khắc Sinh ngày

21/02/2013 (BL 68, 69, 70); Biên bản hòa giải,...
Xác nhận của cơ quan có thẩm quyền địa phương thể hiện qua: Biên bản hòa giải đất tranh
chấp ngày 19/6/2012 (BL25, 26); Báo cáo kết quả hòa giải tranh chấp đất đai số 79/BC-UBND
của UBND xã Phù Vân ngày 25/10/2012 (BL 27); Biên bản làm việc xác minh tranh chấp
quyền sử dụng đất ngày 27/11/2012 (BL 61); Biên bản đo đạc, kiểm tra khảo sát thực địa và
định giá tài sản ngày 01/3/2013 (BL 84, 85, 86); Biên bản xác minh ngày 27/6/2013 của kiểm
sát viên về nguồn gốc đất tranh chấp (BL 96).
- Bà Thanh, bà Loan, ông Sinh, bà The là những người thừa kế tài sản của bà Cúc để lại.
- Ông Trường mất (Giấy xác nhận của những người cao tuổi và UBND xã Phù Vân về việc
ông Trường đã chết năm 1945(BL 6), bà Cúc mất năm 1990 (Giấy chứng tử của bà Cúc - BL
17) có bốn người con là bà Thanh, bà Loan, ông Sinh, bà The. Di sản để lại gồm mảnh đất diện
tích 777m2 thuộc thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02 và nhà và cây cối trên đất. Theo khoản 1 Điều
4 Pháp lệnh về thừa kế năm 1990, Mục 1 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 thì: “Di
sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung
với người khác, quyền về tài sản do người chết để lại”; điểm a khoản 1 Điều 25 Pháp lệnh về
thừa kế năm 1990, Mục 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 thì hàng thừa kế thứ nhất
bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; khoản
2 Điều 4 Pháp lệnh về thừa kế năm 1990 quy định: “Những người thừa kế cùng hàng được
hưởng phần di sản bằng nhau”.
Từ các căn cứ nêu trên, khẳn định bốn người con của ông Trường, bà Cúc thuộc hàng thừa kế
thứ nhất, và di sản là mảnh đất 777m2 được chia làm bốn phần bằng nhau. Thửa đất (bao gồm
cả hoa lợi, lợi tức có được, phát sinh từ tài sản đó) là tài sản thừa kế của bốn người con gồm
Thanh, Sinh, The, Loan nên quyền sở hữu được xác lập trung giữa bốn người.
Thêm nữa, bà Thanh, bà Loan, ông Sinh, bà The không có tranh chấp về hàng thừa kế và xác
nhận là tài sản của bố mẹ (ông Trường, bà Cúc) để lại chưa chia (Biên bản hòa lần 2 ngày
07/3/2013 (BL 88, 89, 90);....
- Bà Thanh, bà Loan, ông Sinh, bà The không chuyển quyền sử dụng đất cho ông
Thuyên, bà Tám.
Ngày 20/01/1994, ơng Chu Khắc Sinh có Đơn chuyển quyền thừa kế cho ông Chu Khắc
Thuyên (Kha) - BL 7 và ơng Sinh cũng có nhận tiền từ ơng Thun (BL 52) nhưng việc

chuyển quyền thừa kế này không hợp pháp vì khơng được sự đồng ý của các đồng thừa kế
khác. Căn cứ vào biên bản lấy lời khai của bà Đinh Thị Tám ngày 21/11/2012 (BL 38-40), bà


Tám thừa nhận rằng việc chuyển quyền thừa kế trên cho do ông Sinh chuyển cho vợ chồng bà
Tám. Bà Thanh, bà Loan, bà The không hề biết sự việc trên.
Theo quy định tại Điều 681 BLDS 2005 về Họp mặt những người thừa kế: Sau khi có
thơng báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt
để thoả thuận bao gồm nhưng không giới hạn về: Cử người quản lý di sản, người phân chia di
sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này và mọi thoả thuận của những người thừa
kế phải được lập thành văn bản.
Do đó có đủ cơ sở để khẳng định việc ơng Sinh tự ý chuyển nhượng lại toàn bộ di sản thừa
kế cho ông Thuyên mà không hỏi ý kiến và chưa có sự đồng ý của các chị em khác với tư cách
là các đồng thừa kế là trái quy định pháp luật, cho dù có sự đồng ý của thôn trưởng, trưởng tộc,
xác nhận của UBND xã không phù hợp với quy định của pháp luật nên khơng có giá trị pháp
lý.
Ngoài ra, theo nội dung thỏa thuận ngày 15/4/1994, bốn chị em bà Thanh về việc giao
quyền trông nom nhà đất và tài sản trên đất nêu trên cho ơng Chu Khắc Thun trong vịng 05
năm đến ngày 15/4/1999, thị vợ chồng ông Thuyên – bà Tám chỉ thực hiện việc trông nom
quản lý, không được làm thay đổi hiện trạng và thực hiện bất kỳ công việc gì ngồi việc trơng
nom, quản lý và thu hoạch cây trái.
Theo đó, vợ chồng ơng Thun – bà Tám có quyền trông nom, quản lý, khai thác hoa màu
từ diện tích đất theo thỏa thuận biên bản giao nhận quyền trông nom (BL 10-11). Việc bốn
người bà Thanh ký thỏa thuận giao cho ông Thuyên quyền quản lý, trông nom di sản thừa kế
theo quy định tại Điều 638 BLDS 2005. Ông Thuyên là người quản lý phần di sản có quyền và
nghĩa vụ theo quy định tại Điều 639, 640 của BLDS 2005. Đến ngày 3/3/1999, ông Thuyên
mất, các đồng thừa kế ở xa nên chưa có điều kiện để chia di sản nên việc trông nom di sản vẫn
do vợ ông Thuyên là bà Tám tiếp tục thực hiện. Như vậy, các đồng thừa kế di sản của bà Cúc
khơng có chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất tranh chấp cho ông Thuyên và bà Tám nên
bà Tám khơng có quyền sở hữu quyền sử dụng đất này. Bà Tám có nghĩa vụ phải giao lại di

sản theo yêu cầu của người thừa kế theo quy định của pháp luật.
Đến tháng 6/2016, bà Tám thực hiện việc xây dựng trái phép trên mảnh đất di sản này.
Ngày 19/6/2016, biên bản hòa giải tranh chấp đất đai giữa bà Thanh và bà Tám, UBND xã Phù
Vân (BL 25-26) kết luận: 1- Việc bà tám xây dựng là xây dựng trái phép; 2- Đất đang tranh
chấp là đất của bà Chu Thị Cúc chứ không phải của bà Tám; 3- Việc xây dựng của gia đình bà
Tám yêu cầu giữ nguyên hiện trạng;... Tuy nhiên, bà Tám đã không ký vào viên bản và vẫn
tiếp tục hành vi xây dựng trái phép.
Đến ngày 25/10/2016 (BL 28-29), UBND đã tiến hành hịa giải tranh chấp lần hai tuy
nhiên vẫn cố tình vắng mặt mà khơng có lý do chính đáng. Hành vi của bà Tám cho thấy việc
bất chấp trước quy định của pháp luật, cố tình trì hỗn việc trả lại đất cho các đồng thừa kế. Do
đó, việc bà Tám tự ý xây dựng nhà và các cơng trình trên đất đã vi phạm quy định của pháp
luật bởi bản thân bà Tám khơng có quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên.
Căn cứ theo quy định tại Điều 255 BLDS 2005 về Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu:
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền u cầu Tồ án, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài
sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và


yêu cầu bồi thường thiệt hại”; Điều 256 BLDS 2005 về quyền đòi lại tài sản: “Chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người
được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền
chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó”.
Theo quy định tại Điều 599 BLDS 2005 về nghĩa vụ hoàn trả: “Người chiếm hữu, người
sử dụng tài sản của người khác mà khơng có căn cứ pháp luật thì phải hồn trả cho chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó”. Mặt khác, theo quy định tại điểm b, mục 2.4 Nghị
quyết 02/2004/HĐTP : “Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa
kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp
hoặc thuê, mượn, quản lý theo Ủy quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó
để địi lại di sản”.
Từ những căn cứ trên, có thể kết luật việc chiếm hữu đất và xây dựng nhà của bà Tám

không có cơ sở pháp luật nên thân chủ tơi và anh, chị ,em thân chủ tơi hồn tồn có quyền yêu
cầu bà Tám phải trả lại tài sản là mảnh đất có diện tích 777m2 tại thửa số 40 tờ bảo đồ số 02
lập năm 1998, tại thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, huyện Hà Nam và bị đơn phải tháo
dỡ nhà và cơng trình xây dựng trái phép trên đất.
Thứ hai, yêu cầu bà Tám trả lại nhà và cây cối trên đất và hoa màu trên đất với 50%
tổng giá trị thu nhập cây lưu niên kể từ ngày 15/4/1994 đến ngày 15/4/1999 theo giấy gửi
UBND xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (15/4/1994):
- Bị đơn đã vi phạm thỏa thuận trông nom, quản lý di sản; thu hoa lợi, lợi tức
Theo thỏa thuận giao quyền trông nom, quản lý di sản ngày 15/4/1994 (BL 10-11) có sự đồng
tình về bên giao là bốn chị em bà Thanh, bên nhận là ông Thuyên có “thời hạn giao 05 năm kể
từ ngày 15/4/1994 đến ngày 15/4/1999”, với nội dung thỏa thuận giao quyền trông nom, quản
lý cho người được nhận trông nom, quản lý: “nhà cửa tu sửa giữ để ở, không để dột nát, đất đai
tự sản xuất ra sản phẩm sử dụng và nạp nghĩa vụ với nhà nước (trồng các cây ngắn ngày)
không được xây dựng cơ bản như: làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng không được đào
khoét, các cây cối lưu niên không được chặt phá. Tổng giá trị cây lưu niên hàng năm phải có
sự chứng kiến của hai bên nội ngoại. Số tiền đó ơng Chu Khắc Thuyên được hưởng 50%, phần
còn lại do bốn chị em và Thanh sử dụng”.
Nhưng trong thời gian trông nom, gia đình ơng Thun dù có thực hiện việc thu hoạch trên đất
của bà Cúc, nhưng ông Thuyên lại khơng trích 50% thu nhập từ hoa lợi, lợi tức trên đất cho
bốn chị em bà Thanh. Do vậy, việc nguyên đơn kiện đòi nhà và cây cối trên đất và hoa màu
trên đất với 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên kể từ ngày 15/4/1994 đến ngày 15/4/1999 là
hồn tồn có căn cứ.
Từ những phân tích và trích dẫn nêu trên, cho thấy nguyên đơn yêu cầu là hồn tồn có căn cứ
hợp pháp. Vì vậy, kính đề nghị HĐXX xem xét:
1Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại diện tích đất 777m2 tại thửa đất số 40 tờ bản đồ số 2
lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho 4 chị em nguyên đơn và
tháo dỡ nhà và các cơng trình đã xây dựng trái phép trên thửa đất;
2Yêu cầu bà Tám trả lại nhà và cây cối trên đất và hoa màu trên đất với 50% tổng giá trị
thu nhập cây lưu niên kể từ ngày 15/4/1994 đến ngày 15/4/1999 theo giấy gửi UBND xã Phù
Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (15/4/1994).



Trên đây là toàn bộ luận cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của tôi – bà
Chu Thị Thanh.



×