BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
CAO ĐĂNG HUY
BẮT ĐẦU LẠI THỜI HIỆU KHỞI KIỆN
TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
CAO ĐĂNG HUY
BẮT ĐẦU LẠI THỜI HIỆU KHỞI KIỆN
TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số 60380103
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN MINH HẰNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực sự của cá nhân,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh
Hằng. Các kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung thực, có
tính kế thừa một số quan điểm khoa học và chưa từng được cơng bố dưới bất kỳ
hình thức nào. Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn
CAO ĐĂNG HUY
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẮT ĐẦU LẠI THỜI
HIỆU KHỞI KIỆN TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM ............................ 10
1.1. Khái niệm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong Pháp luật dân sự Việt
Nam ...................................................................................................................... 10
1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện
trong Pháp luật dân sự Việt Nam ....................................................................... 21
1.2.1. Đặc điểm của bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện................................... 21
1.2.2. Ý nghĩa của bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện...................................... 26
1.3. Nội dung của căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong Pháp luật
dân sự Việt Nam .................................................................................................. 28
1.3.1. Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện khi bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một
phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện .............................. 28
1.3.2. Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện khi bên có nghĩa vụ thực hiện xong
một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện ............................................. 32
1.3.3. Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện khi các bên đã tự hòa giải với nhau . 34
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH BẮT ĐẦU LẠI
THỜI HIỆU KHỞI KIỆN TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT ........................................................................................................... 41
2.1. Xác định thời điểm phát sinh căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện.42
2.1.1. Căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện phát sinh trong thời hiệu khởi
kiện........................................................................................................................ 42
2.1.2. Căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện phát sinh trong quá trình tố
tụng ....................................................................................................................... 48
2.2. Hình thức căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện ............................... 56
2.3. Thực tiễn áp dụng các căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện tại Tòa
án nhân dân ......................................................................................................... 60
2.3.1. Thực tiễn áp dụng căn cứ bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần
hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện ....................................... 60
2.3.2 Thực tiễn áp dụng căn cứ bên có nghĩa vụ thưc hiện xong một phần
nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện ............................................................ 64
2.3.3 Thực tiễn áp dụng căn cứ các bên đã tự hòa giải với nhau .............. 73
KẾT LUẬN .......................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLDS 1995
BLDS 2005
BLDS 2015
BLTTDS 2004 (sửa đổi,
bổ sung năm 2011)
Bộ luật Dân sự số 44-L/CTN ngày 28/10/1995 (Bộ luật
Dân sự 1995)
Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14/6/2005 (Bộ
luật Dân sự 2005)
Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2014 (Bộ
luật Dân sự 2015)
Bộ luật Tố tụng Dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15 tháng
6 năm 2004 & Bộ luật Tố tụng Dân sự số 65/2011/QH12
ngày 29 tháng 3 năm 2011 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004
BLTTDS 2015
Luật TM 2005
Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày
25/11/2015
Bộ luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện đề nghị Tòa
án giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn
đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn chủ thể được quyền yêu cầu cơ quan tài phán giải
quyết vụ việc dân sự, nên việc xác định đúng thời hiệu là yếu tố tiên quyết cho yêu
cầu khởi kiện của đương sự có được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận giải quyết
hay khơng. Mặc dù, tầm quan trọng của thời hiệu khởi kiện không thể phủ nhận,
thời hiệu khởi kiện cũng không phải là một vấn đề mới trong Pháp luật Việt Nam,
nhưng quy định về thời hiệu, cách xác định và vận dụng thời hiệu đến thời điểm
hiện tại vẫn tồn tại những bất cập, vướng mắc nhất định, ảnh hưởng không ít đến
công tác giải quyết tranh chấp của các cơ quan có thẩm quyền cũng như quyền lợi
của đương sự. Quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện cũng không là ngoại lệ cho
những vấn đề này.
Thực tế cho thấy, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện chưa được quan tâm thích
đáng trên các phương diện từ quy định pháp luật, nghiên cứu chuyên sâu, áp dụng
thực tiễn giải quyết tranh chấp, đặc biệt là trong nhận thức pháp luật của các đương
sự. Ở góc độ lập pháp, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện mới chỉ được quy định tại
Điều 162 Bộ luật dân sự 2005 mà chưa có quy định cụ thể hướng dẫn áp dụng; ở
góc độ nghiên cứu, chưa có cơng trình chun biệt tập trung vào vấn đề này; thực
tiễn xét xử cách hiểu và áp dụng khơng có sự khơng thống nhất về sự kiện pháp lý,
thời điểm của sự kiện khởi phát việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trước hay sau
khi hết thời hiệu và trước hay sau khi khởi kiện tại Tịa án; ở góc độ quyền khởi
kiện, các đương sự hầu như còn mơ hồ, chưa nắm rõ quy định bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện. Do đó, họ đã không vận dụng điều này trong việc xác định còn hay hết
thời hiệu khởi kiện, dẫn đến tự mình hạn chế quyền khởi kiện của mình trong
trường hợp bản thân họ cho rằng thời hiệu khởi kiện đã hết, nhưng thực chất thời
hiệu vẫn còn do sự kiện làm cho thời hiệu được bắt đầu lại.
Chính vì quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện chưa đáp ứng được yêu cầu
cần có trên phương diện pháp quy, ở khía cạnh nhận thức và hiệu quả áp dụng quy
định này vào thực tiễn, cho nên tính cấp thiết, tất yếu cần phải có sự nghiên cứu
2
toàn diện hơn nữa quy định pháp luật, thực tiễn vận dụng trong nước, bên cạnh
tham khảo quy định pháp luật nước ngoài nhằm đưa ra giải pháp hoàn thiện hạn chế
còn tồn tại cần phải được điều chỉnh trong quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện.
Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Bắt đầu lại thời
hiệu khởi kiện trong Pháp luật dân sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình nghiên cứu, tổng hợp tình hình nghiên cứu, nhận thấy chưa có
đề tài, cơng trình nghiên cứu chun biệt về đề tài “Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện
trong Pháp luật dân sự Việt Nam”, tuy nhiên đã có những bài viết, cơng trình
nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài này, cụ thể như sau:
Nguyễn Thị Hoài Phương (2007), Thời hiệu khởi kiện vụ việc dân sự - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Báo cáo kết quả nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp bộ. Về tổng quan, Báo cáo đã nêu khái quát các căn cứ bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005. Do phạm vi nghiên cứu của
báo cáo vấn đề bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện chỉ là một nội dung nhỏ trong những
vấn đề về thời hiệu khởi kiện theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 nên
những vấn đề nghiên cứu liên quan chuyên sâu về căn cứ bắt đầu lại thời hiệu, thực
tiễn áp dụng cụ thể các căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, vướng mắc và giải
pháp hoàn thiện quy định này vẫn cịn nhiều bỏ ngỏ.
Nguyễn Thị Hồi Thương (2011), Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành, Luận văn cử nhân Luật- Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị Bích Ly (2014), Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành, Luận văn cử nhân Luật – Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh. Hai luận văn này tập trung nghiên cứu trọng tâm về căn cứ thời hiệu
khởi kiện về thừa kế. Mặc dù, những nghiên cứu trong hai luận văn này có đề cập
một số trường hợp luật định về căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, nhưng chưa
có sự phân tích chi tiết từng căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, thực trạng pháp
luật và đánh giá thực tiễn áp dụng các căn cứ này tại Tòa án nhân dân.
Lê Minh Hùng (2005): “Thời hiệu khởi kiện thừa kế - Thực trạng pháp luật và
hướng hoàn thiện”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (số 05); Nguyễn Minh Hằng (2009):
“Yêu cầu chia di sản thừa kế khi đã hết thời hiệu khởi kiện và khi di sản thừa kế có
phần đã hết thời hiệu khởi kiện”, Tạp chí Viện kiểm sát, (số 15). Hai bài viết định
3
hướng nghiên cứu về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế, quy định bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện chưa được khai thác sâu, tuy nhiên thực trạng áp dụng và kiến nghị hoàn
thiện thời hiệu khởi kiện thừa kế là nguồn tham khảo có giá trị đối với phần nghiên
cứu của tác giả.
Đỗ Văn Hữu và Đỗ Văn Đại (2006), “Hậu quả của việc hết thời hiệu khởi kiện
trong lĩnh vực hợp đồng”, Tạp chí Hiến kế lập pháp, số 03. Nội dung bài viết chủ
yếu luận giải về hậu quả của việc hết thời hiệu khởi kiện trong lĩnh vực hợp đồng.
Phạm vi bài viết không nghiên cứu trọng tâm căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện,
phân tích đánh giá về thời điểm phát sinh căn cứ, thực tiễn vận dụng quy định này
cũng như những bất cập cịn tồn tại và hướng hồn thiện. Tuy nhiên, kết quả nghiên
cứu trong cơng trình này về hậu quả của việc hết thời hiệu khởi kiện trong hợp đồng
là một trong những điều kiện xem xét bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, khi có các căn
cứ theo quy định của pháp luật là một trong những thông tin đáng lưu tâm cho phần
nghiên cứu đề tài của tác giả.
Lê Mạnh Hùng (2011),“Luật về thời hiệu khởi kiện của một số nước và một số
kiến nghị đối với quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự theo Bộ luật tố tụng
dân sự Việt Nam”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 5; Trần Anh Tuấn (2011), “Thời
hiệu dân sự - Nhìn từ góc độ lịch sử và so sánh”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 11.
Hai bài viết tuy không trực tiếp liên quan đến bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, nhưng
nền tảng lý luận về thời hiệu, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự trong Pháp luật dân
sự Việt Nam cùng với cách tiếp cận nghiên cứu, so sánh, đối chiếu với pháp luật
nước ngoài trong một chừng mực nhất định có ý nghĩa gợi mở giúp tác giả định
hướng tư duy tổng quan về căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện khi thực hiện đề
tài nghiên cứu.
Phùng Trung Tập (2013), “Hướng sửa đổi, bổ sung các quy định về thời hạn,
thời hiệu trong BLDS 2005”, Tạp chí Luật học, số (10), tr. 38-45, bài viết tuy không
trọng tâm hướng đến phân tích nội hàm quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện,
nhưng nội dung có liên quan nhất định đến vấn đề này, thông qua những phân tích
quy định chung về thời hiệu khởi kiện là một trong những tiền đề cơ bản cho việc
xác định thời hiệu khởi kiện cịn hay hết, căn cứ vào đó nhận định việc bắt đầu lại
thời hiệu khởi kiện trong phần nghiên cứu của tác giả. Mặt khác, hướng sửa đổi, bổ
sung các quy định về thời hiệu dù không thể hiện được yêu cầu riêng có của quy
định bắt đầu lại thời hiệu theo hướng cần hoàn thiện, nhưng giải pháp cho quy định
4
chung là có giá trị hữu ích giúp tác giả tham khảo cho những định hướng giải pháp
hoàn thiện pháp luật về quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện.
Trần Quốc Hạnh (2014), “Xác định thời hiệu khởi kiện trong vụ án tranh chấp
thừa kế nhà ở mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991, có người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngồi tham gia”, Tạp chí Tịa án nhân
dân, số (02), bài viết đề cập một khía cạnh nhỏ liên quan đến thời hiệu khởi kiện với
giới hạn nghiên cứu về các tranh chấp thừa kế kế nhà ở mà thời điểm mở thừa kế
trước ngày 01/7/1991, có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức
người nước ngoài tham gia. Với phạm vi nghiên cứu khá hẹp, nên tổng thể các căn
cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện chưa được xem xét phân tích một cách toàn diện,
kiến nghị giải quyết hoàn thiện quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện không được
đề cập.
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb
Chính trị quốc gia – sự thật, tập 2, Hà Nội 2014, tr. 851-882; Đỗ Văn Đại, Luật hợp
đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2010, tr. 694-702 Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam- Bản án và
bình luận bản án, Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội 2014, tr. 851-882; Luật
thừa kế Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb Chính trị quốc gia – sự thật xuất bản lần thứ 2, tập 2, Hà Nội 2013, tác giả Đỗ Văn Đại đã nghiên cứu tổng quan
các căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, có sự so sánh giữa bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện với các quy định khác có liên quan, nhưng tác giả chưa đi sâu vào phân
tích từng căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, chưa có sự đối chiếu tổng thể các
căn cứ bắt đầu lại thời hiệu với thực tiễn áp dụng quy định này. Mặc dù, tác giả Đỗ
Văn Đại có dẫn chứng bản án, quyết định của Tồ án để đánh giá việc cịn hay hết
thời hiệu khởi kiện trong một số vụ án cụ thể, làm căn cứ cho việc nhận xét điều
kiện bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, nhưng tác giả chưa nêu lên điểm thiếu sót,
vướng mắc, thiếu thống nhất trong nhận định thời điểm phát sinh căn cứ bắt đầu lại
thời hiệu để đưa ra giải pháp cụ thể về vấn đề này.
Nhìn chung, các bài viết, cơng trình nghiên cứu chủ yếu đề cập đến căn cứ bắt
đầu lại thời hiệu khởi kiện và so sánh với các quy định khác có liên quan. Tuy
nhiên, các cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố chưa tiếp cận tồn diện, tổng thể
quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, chưa đi sâu vào phân tích từng căn cứ
bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, cũng như thời điểm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện
5
cho từng trường hợp. Ngoài ra, thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật
về quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện tại Tòa án nhân dân vẫn chưa được đề
cập thấu đáo, cho nên giải pháp cho vấn đề này vẫn còn nhiều nội dung cịn bỏ ngỏ.
Do đó, việc lựa chọn đề tài xét cho cùng xuất phát từ nền tảng lý luận, ý tưởng, lập
luận của những bài viết, cơng trình nghiên cứu trước liên quan đến bắt đầu lại thời
hiệu khởi kiện là tiền đề căn bản cho tác giả tiến hành nghiên cứu một cách tổng
quan, hệ thống về quy định và thực trạng của bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong
Pháp luật dân sự Việt Nam, đặc biệt có nghiên cứu tiếp cận thêm những quy định
mới trong Bộ luật dân sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về vấn đề
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu hướng tới các mục đích cơ bản sau đây:
Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện đối với vụ án dân sự trong Pháp luật dân sự Việt Nam. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ
việc dân sự, kết quả nghiên cứu nhằm chỉ ra những điểm bất cập trong quy định của
pháp luật và đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hồn thành được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về quy định bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện
- Nghiên cứu, tìm hiểu quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong pháp luật
dân sự Việt Nam. Phân tích đánh giá, làm sáng tỏ bản chất của bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện làm cơ sở so sánh giữa quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện và các quy
định khác có liên quan như thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện; thời gian
khơng tính vào thời hiệu khởi kiện; khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện.
- Nghiên cứu, đánh giá, phân tích thực trạng pháp luật; tiến hành thu thập bản
án, quyết định có liên quan về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện để phân tích, đánh giá trên cơ sở tham khảo thêm ý kiến của các chuyên
6
gia, những người làm công tác thực tiễn để tiếp cận một cách toàn diện thực tiễn áp
dụng các căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện tại Tòa án nhân dân, đặc biệt là ở
những vướng mắc. Kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm đề xuất một số kiến nghị cụ
thể hoàn thiện pháp luật về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự nói chung và
hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 nói riêng.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khi tiến hành nghiên cứu, do giới hạn về thời gian, nhận thức, kinh nghiệm
của bản thân tác giả cũng như tài liệu tham khảo bởi tính mới của đề tài, nên tác giả
khơng nghiên cứu sâu vào mọi góc cạnh về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong
phạm vi rộng của Pháp luật dân sự. Tác giả chỉ trọng tâm nghiên cứu căn cứ, thời
điểm phát sinh căn cứ và thời điểm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong quy định
của Bộ luật dân sự năm 2005, có tiếp cận các quy định sửa đổi bổ sung trong Bộ
luật dân sự năm 2015 để những đề xuất về giải pháp hồn thiện pháp luật có những
cập nhật với quy định mới của Pháp luật dân sự. Đối với pháp luật nước ngồi, tác
giả chủ yếu tìm hiểu, nhận định mức độ, toàn diện và hiệu quả về vấn đề này, song
song đó có sự so sánh nhất định với pháp luật trong nước nhằm có cái nhìn khách
quan, đầy đủ và chính xác quy định thực tại của pháp luật Việt Nam về bắt đầu lại
thời hiệu khởi kiện.
Về phương diện thực tiễn, tác giả giới hạn nghiên cứu căn cứ bắt đầu lại thời
hiệu khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân; đánh giá một số quyết định, bản án
của Tịa án; tiếp cận cách nhìn nhận, vận dụng quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi
kiện của những người có chun mơn, kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật thông
qua các bài viết chuyên khảo, chuyên đề, ý kiến trong các cuộc hội thảo…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở, nguyên tắc và phương pháp luận chủ đạo của luận văn được hình thành
trên dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa duy vật biện chứng và các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác, thể hiện trong tư duy nhận thức pháp luật,
thực tiễn cũng như giải pháp của đề tài đưa ra, cụ thể:
Tại Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện
trong Pháp luật dân sự Việt Nam, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ đạo
7
là phương pháp phân tích, suy diễn logic, dẫn chiếu là phương pháp chủ yếu được
sử dụng nhẳm làm rõ quan niệm, quan điểm, quy định pháp luật về bắt đầu lại thời
hiệu khởi kiện, để từ đó hình thành một khái niệm phù hợp, rõ nghĩa, chính xác có
tính khái quát cao, phản ánh được bản chất của bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện. Với
phương pháp phân tích, giải thích, suy luận được vận dụng làm căn cứ bóc tách đặc
điểm riêng khơng thể nhầm lẫn với các quy định pháp luật khác về thời hiệu có liên
quan. Tương tự vậy, phương pháp suy luận, phân tích được dùng để đúc rút giá trị
pháp lý của bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện đối với quyền khởi kiện của cá nhân, tổ
chức và việc đánh giá căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong quá trình xem xét,
giải quyết tranh chấp dân sự tại Tòa án nhân dân.
Nghiên cứu về nội dung quy định của Pháp luật dân sự hiện hành về căn cứ
bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, tác giả chú trọng áp dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp phân tích được dùng để làm rõ bản chất của từng quy định,
phân định trường hợp áp dụng, điều kiện áp dụng, tính chất pháp lý riêng của từng
quy định. Bên cạnh đó, phương pháp này cũng được sử dụng để tìm hiểu mối liên
hệ nhất định giữa bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện với thời điểm bắt đầu thời hiệu
khởi kiện, thời gian khơng tính vào thời hiệu khởi kiện và khơng áp dụng thời hiệu
khởi kiện, thậm chí là sự chuyển đổi về cách tính thời hiệu khi có sự thay đổi về căn
cứ, thời điểm phát sinh căn cứ.
- Phương pháp so sánh là phương tiện chủ yếu tác giả sử dụng trong việc làm
rõ điểm giống, điểm khác nhau trong điều kiện áp dụng, căn cứ, thời điểm và ý
nghĩa pháp lý giữa bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện với thời điểm bắt đầu thời hiệu
khởi kiện, thời gian khơng tính vào thời hiệu khởi kiện và không áp dụng thời hiệu
khởi kiện.
- Phương pháp tổng hợp được dùng để khái qt chung mang tính tồn diện về
bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện và các quy định khác có liên quan trong tổng thể các
quy định về thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật.
- Phương pháp lịch sử được sử dụng xuyên suốt trong việc tổng quan sự hình
thành, thay đổi và phát triển của quy định pháp luật về bắt đầu lại thời hiệu khởi
kiện, ghi nhận những điểm nhấn trong sự phát triển quy định này trong các giai
đoạn được nghiên cứu.
8
- Phương pháp so sánh được dùng để đối chiếu quy định bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện qua các thời kỳ, thơng qua đó đánh giá tính tiến bộ hay thụt lùi trong quy
định pháp luật về vấn đề này.
Tại Chương 2 về thực tiễn áp dụng quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện
trong Pháp luật dân sự Việt Nam tại Tòa án nhân dân và kiến nghị hoàn thiện Pháp
luật, tác giả sử dụng chung phương pháp phân tích để làm rõ từng căn cứ bắt đầu lại
thời hiệu khởi kiện, thời điểm phát sinh căn cứ, hệ quả của việc bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện, làm cơ sở cho việc đánh giá để làm rõ mức độ hoàn thiện, phù hợp của
các quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong Pháp luật dân sự Việt Nam dựa
trên sự kết hợp phương pháp suy luận. Phương pháp phân tích cũng được dùng
trong việc mổ xẻ, phân tích các bản án, quyết định của Tồ án và ý kiến của những
người có chun môn liên quan đến việc áp dụng quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi
kiện trong thực tiễn.
Phương pháp so sánh được vận dụng cho việc so sánh giữa quy định về bắt
đầu lại thời hiệu khởi kiện với các quy định khác có liên quan trong mối tương quan
đảm bảo thời hiệu khởi kiện được quy định chuẩn xác. Phương pháp loại suy được
áp dụng như là một phương pháp xem xét tính hợp lý của các căn cứ, thời điểm bắt
đầu lại thời hiệu khởi kiện trong quy định của pháp luật dân sự.
Ngồi ra tác giả cịn dùng phương pháp thống kê để thu thập thông tin về tình
trạng áp dụng quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, kết hợp với phương pháp
tổng hợp ý kiến, quan điểm nhận thức của các chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật.
Phương pháp suy luận là kim chỉ nam cho phương pháp nghiên cứu của tác giả
trong tiểu mục này, bởi căn cứ vào thông tin, số liệu, ý kiến, quan điểm có được
trong q trình phân tích đánh giá các bản án, quyết định của Toà án, tác giả đưa ra
những đánh giá, nhận định về mức độ thống nhất, đồng bộ trong cách nhận thức,
vận dụng quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vào thực tế. Từ đó rút ra những
vướng mắc, thiếu sót cần phải được điều chỉnh nâng cao tính hồn thiện của quy
định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, đáp ứng được yêu cầu cần có về quy định này
về mặt nhận thức, lập pháp và thực tiễn áp dụng.
- Phương pháp logic được dùng để sâu chuỗi các lý luận, lập luận, thơng tin,
số liệu có được dựa trên các tài liệu, nguồn tham khảo nhằm đưa ra các ý kiến, nhận
định, kết luận của tác giả về từng vấn đề được nghiên cứu.
9
Đối với kiến nghị hoàn thiện một số quy định của Pháp luật dân sự về bắt đầu
lại thời hiệu khởi kiện tác giả dùng chung một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tổng hợp là phương pháp chủ đạo trong việc thu thập thông tin,
ý kiến liên quan đến vướng mắc, giải pháp hoàn thiện quy định của Pháp luật dân sự
về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện để tác giả tham khảo, đối chiếu, so sánh, nhận
định, lý giải những cơ bản cho kiến nghị của tác giả.
- Phương pháp suy luận được dùng để xem xét tổng thể các quy định Pháp luật
dân sự Việt Nam về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, cũng như thực trạng áp dụng
quy định này để đề xuất giải pháp khả thi cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp logic được vận dụng như là một sợi dây liên kết chặt chẽ về
tính phù hợp giữa khoảng trống pháp luật, đáp ứng yêu cầu chính đáng của thực tiễn
với giải pháp tác giả đề ra.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong Pháp
luật dân sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong
Pháp luật dân sự Việt Nam tại Tòa án nhân dân và kiến nghị hoàn thiện Pháp luật
10
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẮT ĐẦU LẠI
THỜI HIỆU KHỞI KIỆN TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong Pháp luật dân sự
Việt Nam
Khi giả thiết quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và tranh chấp xảy ra, bất kỳ
ai cũng có xu thế tìm kiếm giải pháp cho việc địi lại quyền lợi đó. Vấn đề đặt ra là
liệu hành vi giành lại quyền lợi bị cho là bị xâm phạm bởi một chủ thể khác có thể
được thực hiện trong bất kỳ thời điểm nào? Tất nhiên quyền được hành động trong
chừng mực quy định của pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi chủ thể
luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Do đó, trên phương diện quyền, điều này có
thể được thực hiện ở bất cứ thời điểm nào. Nhưng nếu điều này được cho phép thì trật
tự xã hội, sự ổn định trong các quan hệ xã hội là một bài tốn khó. Vì lý do đó mà
thời hiệu nói chung và thời hiệu khởi kiện nói riêng được hình thành như là một
phương tiện, nhằm ổn định tình trạng hiện hữu của các quan hệ xã hội sau một thời
gian nhất định.
Mỗi phương thức hành động bảo vệ quyền có một giới hạn nhất định của nó,
nhất là khi con đường tố tụng tại Tịa án được lựa chọn như một cách bảo vệ quyền
lợi. Vì hành vi u cầu Tịa giải quyết tranh chấp về quyền lợi bị “giới hạn” bởi thời
hiệu khởi kiện, do việc kiện tụng không thể được hành xử vô hạn định mà cần phải
được thực hiện trong thời hạn được pháp luật ấn định. Việc không hạn định thời
gian thực hiện việc kiện có thể gây nên những xáo trộn, làm thiệt hại cho nền kinh
tế xã hội. Ngoài ra, nếu người có quyền để vụ việc trơi qua q lâu mới thực hiện
việc kiện thì người có nghĩa vụ sẽ ở vị thế bất lợi và khó có thể đưa ra được chứng
cứ để biện hộ cho mình1.
Thời hiệu khởi kiện cho phép chủ thể có quyền khởi kiện trong thời hạn luật
định, nhưng đó cũng là ranh giới hạn định quyền khởi kiện khi thời hiệu khởi kiện
đã hết. Theo nguyên tắc này, thời hiệu khởi kiện hết kéo theo quyền khởi kiện đúng
nghĩa chấm dứt. Dẫn đến hệ quả khó khăn cho chủ thể có quyền lợi của họ bị xâm
phạm, khi các cách thức bảo vệ quyền khơng qua con đường Tịa án khơng có khả
thi.
1
Trần Anh Tuấn (2011), “Thời hiệu dân sự - Nhìn từ góc độ lịch sử và so sánh”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
6, tr 1.
11
Mặc dù, Tịa án cơng nhận vụ việc hết thời hiệu khởi kiện chỉ có ý nghĩa đối
với việc chấm dứt quyền yêu cầu giải quyết vụ tranh chấp bằng con đường Tịa án
mà khơng bao giờ làm chấm dứt nghĩa vụ các bên trong quan hệ đang có tranh chấp
và cũng không tước đoạt quyền lợi hợp pháp của một bên trong quan hệ tranh chấp
đó2. Nhưng nếu Tịa án không thể can thiệp bởi lý do thời hiệu, dường như các bên
khó lịng tìm được giải pháp nào tốt hơn trong việc giải quyết tranh chấp, bởi trước
đó các bên đã khơng tìm được tiếng nói chung cho tranh chấp. Trong trường hợp
này, quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện là một cứu cánh, khi khôi phục lại
quyền khởi kiện tưởng chừng như đã mất, tạo thêm cơ hội địi lại quyền lợi chính
đáng của các chủ thể.
Tầm quan trọng của việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện là khơng thể chối bỏ,
nhưng để có được một cái nhìn thấu đáo về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện thật sự
không đơn giản. Cho đến nay, khái niệm về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện chưa
được pháp điển hóa chính thức trong luật. Bộ luật dân sự năm 2005 quy định bắt
đầu lại thời hiệu khởi kiện tại Điều 162 và được kế thừa tại Điều 157 BLDS 2015
theo hướng liệt kê các căn cứ để bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, không nêu khái
niệm đã tạo ra một số trở ngại khi áp dụng quy định này khi cách hiểu và vận dụng
pháp luật chưa đồng nhất.
Để làm rõ khái niệm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện không thể không xem xét
đến khái niệm nền tảng, cơ bản đó là thời hiệu khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện và bắt
đầu lại thời hiệu khởi kiện có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thời hiệu khởi kiện
thì mới có quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, đó là sự bổ sung làm cho thời
hiệu khởi kiện linh động hơn trong thực tiễn tố tụng bảo vệ quyền của đương sự.
Về phương diện ngôn ngữ, theo cách lý giải của Từ điển tiếng Việt của Viện
khoa học xã hội Việt Nam năm 1992 “khái niệm thời hiệu được hiểu là khoảng thời
gian có hiệu lực trong một trường hợp cụ thể”.
Về học lý, thời hiệu đã được giáo sư Vũ Văn Mẫu và giáo sư Lê Đình Chân đề
cập trong cuốn Danh từ và tài liệu Dân luật và hiến luật năm 1968, theo đó “thời
hiệu được hiểu là thời hạn do luật ấn định có hiệu lực biến sự chiếm hữu một tài
sản thành quyền sở hữu hoặc tiêu diệt món nợ của đương sự”.
2
Nguyễn Thị Hồi Phương (Chủ nhiệm), Báo cáo kết quả nghiên cứu để tài nghiên cứu khoa học cấp bộ Thời hiệu khởi kiện vụ việc dân sự những vấn đề lý luận và thực tiễn, TP.Hồ Chí Minh, 2007, tr 75.
12
Theo nhà nghiên cứu Trần Thúc Linh: “Thời hiệu là một phương chước để một
người có thể thủ đắc bất động sản bằng cách chấp hữu trong một thời hạn, hoặc để
cho con nợ được tự giải thoát khỏi bị chủ nợ khởi tố nếu đã quá thời hạn luật định
không hành xử tố quyền”.
Về phương diện pháp lý, “thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi
kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ
dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết việc dân
sự”3.
Nghiên cứu từ góc độ lịch sử, vấn đề thời hiệu khơng hồn tồn mới trong
Pháp luật dân sự Việt Nam4. Sự khơng hồn tồn mới về cách nhìn nhận và quy
phạm hóa thời hiệu thể hiện trong Pháp luật Việt Nam thời kỳ trước. Theo những tài
liệu về cổ luật Việt Nam trước đây thể hiện thời hiệu dân sự đã từng được ghi nhận
dưới thời Lý5 – Trần6 và dưới triều Lê7. Với các tiếp cận nghiên cứu hệ thống, thời
hiệu khởi kiện lại là vấn đề luôn “mới” trong tranh luận pháp lý, kể cả trong tư duy
nhận thức và trong áp dụng pháp luật. Một mặt do tính phức tạp, biến đổi theo thời
gian về cách hiểu, mặt khác do thời hiệu khi vận dụng thường gắn liền và liên quan
đến nhiều quy định pháp luật khác.
Thời hiệu là một cách thức, biện pháp làm chủ thể có được hoặc mất đi quyền
của mình, thơng qua một khoảng thời gian nhất định với những điều kiện do pháp
luật quy định8. Mang ý nghĩa là phương tiện mang lại hay triệt tiêu quyền, không
3
Điều 154 BLDS 2005.
Cổ luật Việt Nam đã từng đề cập đến vấn đề này. Chẳng hạn, theo Điều 588 Bộ luật Hồng Đức: “Mắc nợ
quá hạn mà không trả thì xử tội trượng, tùy theo nặng hay nhẹ; nếu cự tuyệt khơng chịu trả, tì xử biếm hai tư,
bồi thường gấp đơi. Q niên hạn mà khơng địi thì mất nợ (hạn định là đối với người trong họ thì 30 năm,
người ngồi thì hạn 20 năm)”, (trích trích Đỗ Văn Đại (2014), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình
luận bản án, NXb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2, tr. 852).
5
“Tháng giêng năm Đại Định thứ ba (1142), vua Lý Anh Tông (1128 – 1175) khi ban hành quy định về việc
kiện tụng và chuộc lại ruộng đất đã định rằng “Các ruộng cày cấy đã đem cầy cấy có thể chuộc lại trong một
hạn là hai mươi năm. Các vụ tương tranh về điền thổ không thể xin vua xét xử sau một thời hạn 5 hay 10
năm; Phàm vườn ruộng bỏ hoang, đã có người cầy cấy, người chủ chỉ có quyền đòi lại trong hạn một năm.
Trái lệnh này, sẽ phải phạt 80 trượng; Các ruộng cày cấy hoặc bỏ hoang, đã có văn tự bán đứt, khơng thể
chuộc lại được – Ai trái lệnh cũng phải phạt cùng một tội”, (Trần Anh Tuấn (2011), tlđd số 1, tr 1).
6
“Năm 1299, Vua Trần Anh Tơng có chiếu định rằng ai đã bán ruộng đất và gia nhân làm nô tỳ trong hai năm
1290, 1291 thì cho chuộc về, để quá hạn năm 1299 thì khơng cho chuộc” (Lê Minh Tâm, Vũ Thị Nga, Giáo
trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb CAND, 2009, tr.117).
7
Điều 387 Bộ luật Hồng Đức “Nếu q niên hạn mà xin chuộc thì khơng được (niên hạn là 30 năm). Trái lẽ
mà cố cưỡng đi kêu, thì phải phạt 50 roi, biếm một tư” (Cao Nãi Quang, Nguyễn Sĩ Giác, Vũ Văn Mẫu, Quốc
Triều Hình luật, Nxb Nguyễn Văn Của, 1956).
8
Đỗ Văn Đại, Nguyễn Ngọc Hồng Phương (2015), “Về các loại thời hiệu trong dự thảo Bộ luật dân sự (sửa
đổi)”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 9, tr 4.
4
13
chỉ riêng có ở Việt Nam, thời hiệu từ lâu cũng đã được quy định trong pháp luật của
một số nước trên thế giới như là một công cụ hữu hiệu cho quản lý trật tự xã hội,
đảm bảo quyền cho người dân.
Chẳng hạn, thời hiệu đã được quy định từ lâu trong Luật La Mã cổ đại và tiếp
tục phát triển dưới thời vua Justinian9. Dưới thời La Mã cổ đại, thuật ngữ “thời
hiệu” (longi temporis praescriptio) được sử dụng với một nghĩa rộng, bao gồm loại
thời hiệu “tích tụ, hưởng các lợi ích” và bị mất đi, bị tiêu diệt các quyền hưởng lợi
ích”10.
Thời hiệu theo thời gian khơng những khơng mất đi giá trị của nó, mà ngày
càng được nhiều các quốc gia trên thế giới ghi nhận. Trong quy định pháp luật hầu
hết các nước thống nhất thời hiệu theo nguyên tắc thời gian và quyền dùng để xác
định một khoảng thời gian nhất định có ý nghĩa cho việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
của các chủ thể trong mối quan hệ pháp luật, tuy hình thức thể hiển có thể khơng
giống nhau.
Những quốc gia theo truyền thống Thông luật thường quy định vấn đề thời
hiệu trong một đạo luật riêng, như: Anh có đạo luật về thời hiệu năm 1939, sửa đổi
bổ sung năm 198011. NewZealand có đạo luật về thời hiệu năm 195012; hoặc Ireland
có Đạo luật thời hiệu năm 1957, sau đó lần lượt sửa đổi bổ sung năm 1991,
200013…
Đối với các quốc gia theo truyền thống Dân luật, thời hiệu không được quy
định trong văn bản pháp luật riêng mà là một chế định tồn tại trong Bộ luật dân sự
như Pháp, Đức, Nhật Bản, Thụy Sĩ, Quebec (Cananda)… Pháp luật Việt Nam cũng
theo trường phái này, khi thời hiệu không quy định trong đạo luật riêng mà quy định
trong BLDS 2005 tại Điều 154: “Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi
kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ
dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết việc dân
sự”. Ở đây thời hiệu được phân thành bốn loại, gồm: thời hiệu hưởng quyền dân sự;
9
W.Buckard, “A Text Book of Roman Law from Augustus to Justinian”, 3rd, England: Cambridege University,
1966, tr 241 – 252.
10
Annalisa Triggiano, “Short Remarks on Extinctive Prescription in legal history”, US-China Law review,
Vol. 10:35, 2013, tr. 37.
11
The South of African Lae Reform Commission, Prescription Periods – Discussion Paper 126, Project 125,
July 2011, ISBN: 978-0-621-40078-6, tr.71.
12
The South of African Law Reform Commission, tlđd, tr 66.
13
The South of African Law Reform Commission, tlđd, tr 80.
14
thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự, thời hiệu khởi kiện; thời hiệu yêu cầu giải quyết
việc dân sự. Liên quan đến bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện là
loại thời hiệu có mối liên hệ mật thiết hơn cả, do tính nguồn gốc của loại thời hiệu
này đối với bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 155 BLDS 2005: “Thời hiệu khởi kiện là thời
hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất
quyền khởi kiện” (khoản 3 Điều 150 BLDS 2015 cũng ghi nhận tương tự Điều 155
BLDS 2005). Như vậy, thời hiệu khởi kiện là khoảng thời gian nhất định, cụ thể tùy
từng trường hợp, theo đó quyền khởi kiện có giá trị khởi phát q trình tố tụng khi
được Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết. Lẽ đương nhiên khi thời hiệu khởi kiện
khơng cịn thì “quyền khởi kiện” cũng chấm dứt.
Trên thế giới có nhiều nước cũng định nghĩa thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
tương tự như định nghĩa trong BLDS của Việt Nam. Trong đó có Cơng hịa nhân
dân Trung hoa, Cơng hòa liên bang Nga, Cộng hòa liên bang Đức, nhiều tiểu bang
của liên bang Australia và Vương quốc Anh14.
Có thể thấy Pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới quy định thời
hiệu khởi kiện như là một phần của quá trình tố tụng, bởi khi chủ thể khơng thực
hiện khởi kiện trong thời hạn luật định thì quyền khởi kiện cũng khơng cịn tồn tại.
Nhưng trong pháp luật Việt Nam vẫn có quy định về ngoại lệ cho quyền khởi kiện
khi thời hiệu khởi kiện hết15, chẳng hạn như đối với trường hợp chuyển hóa quan hệ
pháp luật từ yêu cầu chia thừa kế sang yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hiệu
khởi kiện chia thừa kế16. Tuy nhiên, việc cơ quan tiến hành tố tụng tự viện dẫn việc
14
Lê Mạnh Hùng (2011), “Luật về thời hiệu khởi kiện của một số nước và một số kiến nghị đối với quy định
về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 6, tr.
42.
15
Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011): "Thời hiệu khởi kiện vụ án dân
sự là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu tòa giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”.
16
Theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.4, mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân
sự, hơn nhân và gia đình:“Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng
thừa kế khơng có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết
thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản
do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và
u cầu Tồ án giải quyết thì khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định
của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”.
15
hết thời hiệu để không giải quyết vụ án dân sự, thực tiễn pháp luật Việt Nam17 khác
với hệ thống pháp luật của một số nước trên thế giới. Theo Điều 2223 BLDS Pháp
quy định Thẩm phán không thể viện dẫn việc hết thời hiệu khởi kiện. Pháp luật của
các nước Bỉ, Lúc – Xăm – Bua, Ý, Tây Ban Nha cũng quy định tương tự, Tòa án tối
cao thường xuyên hủy bản án sơ thẩm trong đó Thẩm phán tự mình viện dẫn quyền
khởi kiện của một bên trong hợp đồng hết do thời hiệu trong khi không được bên
kia của hợp đồng yêu cầu18. Điểm khác biệt này đã phần nào được khỏa lấp với điều
chỉnh về chủ thể được quyền yêu cầu viện dẫn thời hiệu tương tự các quốc gia này
tại khoản 2 Điều 149 BLDS 2015 có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2017.
Để tính thời hiệu khởi kiện và áp dụng quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện
một cách chính xác, điều kiện tiên quyết là phải nắm bắt được các nguyên tắc áp
dụng thời hiệu khởi kiện:
Thứ nhất, xác định vụ án dân sự có thuộc trường hợp khơng áp dụng thời hiệu
khởi kiện không. Điều 160 BLDS 2005 (Điều 155 BLDS 2015) đã ghi nhận các
trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, cụ thể là:
1. u cầu hồn trả tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước;
2. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác;
3. Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự còn được quy
định trong khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm
2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất của BLTTDS hướng
dẫn điểm a khoản 3 Điều 159 BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)19.
17
Theo Quyết định số 04/2014/QĐ-PT ngày 21/5/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An: “Giữ nguyên
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 08/2014/QĐST-DS ngày 28/02/2014 của Tòa án nhân dân
huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” giữa bà Đặng Thị Kim Liên
với ơng Lê Thanh Long. Vì lý do thời hiệu khởi kiện vụ án đã hết. Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh
Long An căn cứ vào Điều 427 của Bộ luật dân sự 2005; Điểm b Khoản 3 Điều 159, Điểm h Khoản 1 Điều
192 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 là có cơ sở”.
18
Đỗ Văn Đại – Đỗ Văn Hữu, “Thời hiệu khởi kiện điểm yếu của Luật dân sự hiện hành”, nguồn: thongtin
phapluat.vn/diendan/index.hph.
19
Đối với các tranh chấp dân sự sau đây thì khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện:
a) Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản là tranh chấp ai có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó;
Ví dụ: Tranh chấp ai có quyền sở hữu nhà ở; nếu có khởi kiện thì Tịa án thụ lý vụ án; việc chấp nhận hay
khơng phải căn cứ vào các quy định của pháp luật.
16
Ngoài ra, đối với những quan hệ pháp luật thuộc trường hợp thời hiệu khởi
kiện không bị hạn chế được ghi nhận trong BLDS là cơ sở để khơng tính thời hiệu
khởi kiện, đương nhiên cũng sẽ không đặt ra xem xét căn cứ bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện.
Thứ hai, Nếu vụ án dân sự thuộc trường hợp phải áp dụng thời hiệu khởi kiện
thì căn cứ vào pháp luật nội dung tại thời điểm xác lập giao dịch để xác định thời
hiệu khởi kiện. Trường hợp pháp luật nội dung khơng quy định thì áp dụng thời
hiệu quy định trong pháp luật tố tụng. Cụ thể, tại khoản 3 Điều 159 BLTTDS 2004
(sửa đổi, bổ sung năm 2011) quy định:
Trong trường hợp pháp luật khơng có quy định khác về thời hiệu khởi kiện,
thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được quy định như sau:
a) Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự là hai năm,
kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích cơng
cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm;
b) Thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày
phát sinh quyền yêu cầu.
Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu trong những vụ việc cụ thể được chi
thiết hóa tại Điều 23 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 20.
b) Tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu là tranh chấp về tài sản thuộc quyền sở
hữu, quyền sử dụng hợp pháp của mình nhưng do người khác quản lý, chiếm hữu tài sản đó;
Ví dụ: Ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của A nhưng do B đang quản lý; A có tài liệu chứng minh ngôi nhà
thuộc quyền sở hữu của A và khởi kiện địi nhà thì Tịa án thụ lý; việc chấp nhận hay không phải căn cứ vào
các quy định của pháp luật.
c) Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai là tranh chấp ai có quyền sử
dụng đất đó
20
Điều 23 NQ 03/2012/NQ-HĐTP:
1. Đối với tranh chấp dân sự mà văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thời hiệu khởi kiện thì áp
dụng thời hiệu khởi kiện được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật đó.
Ví dụ 1: Đối với tranh chấp về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm thì theo quy định tại Điều 30
của Luật Kinh doanh bảo hiểm, thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát
sinh tranh chấp;
Ví dụ 2: Đối với các tranh chấp lao động cá nhân thì theo quy định tại khoản 2 Điều 202 của Bộ luật lao
động, thời hiệu khởi kiện về tranh chấp lao động cá nhân là 01 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi
bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm
Ví dụ 3: Đối với tranh chấp về chia di sản thừa kế, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền
thừa kế của người khác thì theo quy định tại Điều 645 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì thời hiệu khởi kiện là
mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Đối với tranh chấp dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự (hợp đồng vay tài sản, hợp đồng gửi giữ tài
sản, thuê tài sản, thuê khoán tài sản, hợp đồng gia công, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đất, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất), thì giải quyết như sau:
17
Thứ ba, Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời
hiệu của một bên hoặc các bên.
Điều 184 BLTTDS 2015 quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải
quyết việc dân sự như sau;
1. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện
theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu
của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa
án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời
hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.
Như vậy, thời hiệu không đương nhiên được Tòa án áp dụng như thời điểm
trước khi BLTTDS 2015 thông qua, mà phải xuất phát từ yêu cầu của một trong các
bên. Nhưng nguyên tắc này bị giới hạn khơng áp dụng sau khi Tịa án cấp sơ thẩm
ra bản án, quyết định giải quyết.
Từ các nguyên tắc áp dụng để tính thời hiệu khởi kiện, có thể suy luận bắt đầu
lại thời hiệu khởi kiện không áp dụng cho mọi vụ án tranh chấp mà chỉ áp dụng cho
những tranh chấp pháp luật quy định được khởi kiện, trong một khoảng thời gian
nhất định. Việc tính thời hiệu khởi kiện không đơn thuần chỉ dựa vào luật nơi dung
hay luật hình thức là có thể xác định được trong nhiều trường hợp cá biệt. Tòa án
theo xu thế khơng cịn là chủ thể có tồn quyền quyết định xem xét về mặt thời
hiệu, bởi các bên trong quan hệ tranh chấp đương sự cũng có quyền có ý kiến về
việc việc áp dụng quy định về thời hiệu. Trên cơ sở các nguyên tắc áp dụng thời
hiệu khởi kiện để xác định thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày
a) Đối với tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự thì áp dụng thời hiệu quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật tương ứng đối với loại giao dịch đó.
Ví dụ: Tranh chấp về hợp đồng thuê nhà thì thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng cho thuê tài sản được
xác định theo quy định tại Điều 427 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì thời hiệu khởi kiện là 02 năm.
4. Đối với tranh chấp dân sự mà văn bản quy phạm pháp luật khơng có quy định về thời hiệu khởi kiện và
không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 159 của BLTTDS và hướng dẫn tại khoản 2 và
điểm b khoản 3 Điều này, thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ
chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Ví dụ: Điều 111 Luật Đường sắt năm 2005 quy định “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu giải quyết tranh
chấp về hợp đồng trong hoạt động kinh doanh đường sắt được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự và pháp luật về trọng tài thương mại”
18
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác21
làm căn cứ cho việc xác định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện.
Luật quy định thời điểm quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm là thời điểm
quyền khởi kiện phát sinh. So sánh với pháp luật dân sự một số nước cho thấy quy
định về bắt đầu thời hiệu khởi kiện rất khác nhau, nhiều nước coi đó là thời điểm
người có quyền bị xâm phạm biết hoặc phải biết về việc xâm phạm quyền của mình.
Trong nhiều trường hợp thời điểm biết và thời điểm xâm phạm là trùng nhau.
Nhưng ở một số trường hợp khác thời điểm biết có thể chậm hơn so với thời điểm
xâm phạm và trong trường hợp thứ hai này thì người có quyền bị xâm phạm có vẻ
được lợi thế hơn về thời hiệu22. Việc xác định thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện
không chỉ đơn giản dừng ở mức độ xác định thời điểm quyền bị xâm phạm. Bởi xác
định đâu là thời điểm chính thức quyền bị xâm phạm gặp khơng ít vướng mắc về lý
luận lẫn thực tiễn giải quyết tranh chấp, cho nên Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao đã có nghị quyết hướng dẫn xác định thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi
kiện tại khoản 5 Điều 23 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012: Thời
điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm
phạm và được xác định như sau:
a) Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy
định thời hạn thực hiện, nếu hết thời hạn đó mà bên có nghĩa vụ khơng thực hiện,
thì ngày hết hạn thực hiện nghĩa vụ là ngày xảy ra xâm phạm;
b) Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên không thoả thuận hoặc pháp luật không
quy định thời hạn thực hiện, nhưng theo quy định của pháp luật các bên có thể thực
hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo
cho nhau biết trước trong một thời gian hợp lý, nếu hết thời hạn đã được thơng báo
đó bên có nghĩa vụ khơng thực hiện, thì ngày hết thời hạn đã được thông báo là
ngày xảy ra xâm phạm;
c) Trường hợp khi hết hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự, các bên có thoả thuận
kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì việc xác định ngày quyền và lợi ích hợp
21
Khoản 1 Điều 159 BLDS 2005.
Hồng Thế Liên (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư
pháp, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2009, tập 1, tr 340.
22
19
pháp bị xâm phạm căn cứ vào ngày chấm dứt thoả thuận của các bên và được thực
hiện như hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 5 Điều này.
d) Trong q trình thực hiện hợp đồng mà có vi phạm nghĩa vụ trong hợp
đồng, thì ngày vi phạm nghĩa vụ là ngày xảy ra xâm phạm, trừ trường hợp các bên
có thoả thuận khác. Nếu một bên đơn phương đình chỉ hợp đồng thì ngày đơn
phương đình chỉ hợp đồng là ngày bị xâm phạm.
đ) Đối với trường hợp đòi bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tài sản, sức
khoẻ, tính mạng,..., thì ngày xảy ra hành vi xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng,...
là ngày bị xâm phạm.
e) Trong một quan hệ pháp luật hoặc trong một giao dịch dân sự, nếu hành vi
xâm phạm xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi
kiện được tính kể từ thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm cuối cùng.
g) Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản
5 Điều này nếu các bên có thoả thuận khác về thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện,
thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được xác định theo thoả thuận của các bên.
Khó khăn trong xác định thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện kéo theo hệ quả
bế tắc khi áp dụng căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện. Vì khơng xác định được
thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện đồng nghĩa với việc cũng không xác định
được thời điểm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện. Do vậy, nếu xác định thời hiệu khởi
kiện bắt đầu lại trong khi không biết thời hiệu khởi kiện đã bắt đầu hay chưa là phi
logic. Nhưng khi thời hiệu khởi kiện đã bắt đầu phát sinh quyền khởi kiện trong
khoảng thời gian nhất định, thời hiệu khởi kiện diễn ra liên tục. Sự kiện pháp lý ảnh
hưởng đến tính liên tục của thời hiệu khởi kiện phải làm cho khoảng thời gian đã
xảy ra khơng tính vào thời hiệu khởi kiện, và thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại từ
đầu theo quy định tại Điều 162 BLDS 2005 (Điều 157 BLDS 2015) là căn cứ bắt
đầu lại thời hiệu khởi kiện. Các sự kiện đó gồm: Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một
phần hoặc tồn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện, Bên có nghĩa vụ thực
hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện và Các bên đã tự
hòa giải với nhau.
Sự kiện pháp lý khiến thời hiệu khởi kiện bắt đầu lại “phụ thuộc” vào căn cứ
chứng minh nghĩa vụ tồn tại. Vì các căn cứ nêu trên ln cần có sự xuất hiện của ít
nhất một chủ thể trong mối quan hệ tranh chấp, thông qua hành vi bằng hình thức